Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Luận văn tốt nghiệp tam ly hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.09 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thu Lành

HỨNG THÚ GIAO TIẾP VỚI CHA MẸ CỦA
HỌC SINH LỚP 12 TẠI HUYỆN TÂN HIỆP
TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thu Lành

HỨNG THÚ GIAO TIẾP VỚI CHA MẸ CỦA
HỌC SINH LỚP 12 TẠI HUYỆN TÂN HIỆP
TỈNH KIÊN GIANG

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số:
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRƯƠNG CÔNG THANH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12
tại Huyện Tân Hiệp Tỉnh Kiên Giang“ là công trình khoa học do tôi thực hiện. Tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có sự khiếu nại, tố cáo về bản quyền tác giả.

Nguyễn Thu Lành


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn “Hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 tại
huyện Tân Hiệp tỉnh Kiên Giang“ tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến:
- TS. Trương Công Thanh, trong suốt thời gian quá trình thực hiện đề tài
này em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình và chu đáo của thầy. Em học hỏi được ở
thầy rất nhiều kiến thức về nghiên cứu khoa học cũng như những kinh nghiệm trong
cuộc sống. Nếu không có sự giúp đỡ và động viên đúng lúc của thầy, em sẽ không
thể hoàn thành được luận văn này. Em xin gữi đến Thầy lòng biết ơn sâu sắc và
những lời chúc tốt đẹp nhất.
- Quý Thầy, Cô tại Trường Đại Học Sư Phạm TPHCM đã nhiệt tình giảng
dạy, hướng dẫn trong suốt quá trình em và toàn thể các học viên lớp cao học tâm lí
K27 học tập và nghiên cứu tại Trường.
- Quý Thầy (cô) và các em học sinh trường THPT Tân Hiệp, Thạnh Đông
và Thạnh Tây đã tạo điều kiện, hỗ trợ và nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình em
nghiên cứu đề tài này. Gia đình, các anh chị và các bạn đã động viên, giúp đỡ, chia
sẻ trong quá trình tôi thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn
Thu Lành



Mục Lục


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HS: Học sinh
ĐTB: Điểm trung bình
ĐLC: độ lệch chuẩn
THPT: Trung học phổ thông


DANH MỤC CÁC BẢNG
TT Ký hiệu
1

Bảng 1.1

2

Bảng 2.1

3

Bảng 2.2

4

Bảng 2.3

5


Bảng 2.4

6

Bảng 2.5

7

Bảng 2.6

8

Bảng 2.7

9

Bảng 2.8

10

Bảng 2.9

11

Bảng 2.10

12

Bảng 2.11


13

Bảng 2.12

14

Bảng 2.13

15

Bảng 2.14

16

Bảng 2.15

17

Bảng 2.16

Tên bảng
Phân loại 5 nhóm nghề cơ bản
Mẫu nghiên cứu học sinh
Cách tính điểm
Quy đổi điểm trung bình
Cách tính điểm

Cách chia biên giới liên tục của các ĐTB mặt nhận thức
– ĐTB thái độ và ĐTB hành vi:

Quy tắc xác định mức độ hứng thứ
Nhận thức về tầm quan trọng của việc giao tiếp với cha
mẹ
Lý do học sinh lựa chọn mức độ quan trọng của hứng
thú giao tiếp với cha mẹ trong việc định hướng nghề
nghiệp:
Nhận thức về nhu cầu giao tiếp với cha mẹ về định
hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12
Nhận thức về ý nghĩa của hoạt động giao tiếp với cha
mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp của học sinh.
Mức độ nhận thức của học sinh về ý nghĩa của hoạt
động giao tiếp với cha mẹ
Thái độ đối với việc giao tiếp với cha mẹ
Mức độ thái độ của học sinh đối với hoạt động giao tiếp
với cha mẹ
Hành vi giao tiếp với cha mẹ
Mức độ hành động giao tiếp với cha mẹ của học sinh
Mức độ hứng thú giao tiếp với cha mẹ

Trang


18

Bảng 2.17

19

Bảng 2.18


20

Bảng 2.19 So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học

21

Bảng 2.20 So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trình độ học

So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo giới tính:
So sánh hứng thú giao tiếp với cha mẹ theo trường:
vấn của cha

22
23

vấn của mẹ
Bảng 2.21 Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ
của học sinh lớp 12
Bảng 2.22 Tương quan giữa ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi
theo điểm trung bình



1

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài


“Trong tâm lý học, hứng thú là một vấn đề phong phú, hấp dẫn và cũng khá phức
tạp, như L.X Vygotsky đã khẳng định “Đối với việc nghiên cứu hầu như không có vấn đề
nào rắc rối hơn vấn đề tìm hiểu hứng thú thực sự của một con người” (Nguyễn Thị Thu
Cúc, 2008). Song song với đó, hứng thú cũng có những tác động mạnh mẽ đến rất nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như là cá nhân, hứng thú sẽ là động lực thúc đẩy sự
phát triển của cá nhân, từ đó cũng góp phần phát triển xã hội. Vì thế, vấn đề hứng thú
được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trên rất nhiều mặt của tâm lý cá nhân
và tâm lý xã hội, gắn liền với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi con người.
“Hứng thú là một thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý
nghĩa trong đời sống vừa có khả năng mang lại sự khoái cảm cho cá nhân trong hoạt
động” (Lê Thị Bừng và Nguyễn Đức Sơn, 2008). Như vậy để có hứng thú với một đối
tượng nào đó, con người cần nhận thức rõ đối tượng đó cũng như có nảy sinh một tình
cảm, xúc cảm đặc biệt với nó. Từ đây hứng thú sẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức con
người ngày càng tích cực hơn, nâng cao năng lực trí tuệ của con người với đối tượng
hứng thú cũng như làm nảy sinh khát vọng động lực tìm tòi đi sâu nghiên cứu, tăng cường
hoạt động, rèn luyện các kỹ năng kỹ xảo,… Như vậy hứng thú có một tác động mạnh mẽ
đến hoạt động của con người nói chung và hoạt động nhận thức nói riêng.
Khi đề cập đến HS lớp 12 với nhiều biến động và thay đổi, đây còn gọi là độ tuổi
thanh xuân và theo Vũ Thị Nho trong “Tâm lý học phát triển” thì đây là độ tuổi đầu thanh
niên. Trong hoạt động học tập của các em có nhiều biến đổi khi mà hoạt động đó đứng
trước những đòi hỏi của xã hội về các vấn đề lựa chọn nghề nghiệp, ngành học hay các
vấn đề khác.“Hoạt động học tập ở đây đòi hỏi sự phát triển khả năng nhận thức cao, đòi
hỏi tư duy lý luận, sự suy đoán lôgic, cũng như khả năng trừu tượng, khái quát phát triển”
(2008).


2

“Thời kỳ mở cửa, giao lưu văn hóa mạnh mẽ, đa dạng hiện nay một mặt tạo ra cho
thanh niên HS nhiều cơ hội để mở rộng tầm mắt, mở rộng giao lưu văn hóa, nhưng mặt

khác cũng gây "nhiễu" cho họ nếu không xác định rõ những vấn đề thuộc thế giới quan và
nhân sinh quan đúng đắn” (Vũ Thị Nho, 2008). Lúc này cha mẹ đóng vai trò to lớn trong
việc giáo dục và định hướng cho con nhận thức về cái tôi của chính mình cũng như xây
dựng một hệ thống nhân sinh quan, thế giới quan mạnh mẽ để đối đầu với mọi khó khăn
và phức tạp của cuộc sống.
Khi bước vào độ tuổi đầu thanh niên, trên khía cạnh tình cảm, các em thể hiện tính
độc lập, có bản sắc với cái tôi tương đối tự do. Cũng vì thế các em có những khúc mắc với
cha mẹ vì sự thiếu tế nhị hay không có sự lắng nghe, quan tâm lẫn nhau trong gia đình .
“Việc duy trì được bầu không khí tình cảm ấm áp và hiểu biết lẫn nhau giữa cha mẹ con
cái phụ thuộc rất nhiều vào sự hiểu biết của người lớn đối với những con người trẻ tuổi,
vào thái độ ứng xử ân cần và tế nhị của người lớn” (Vũ Thị Nho, 2008). Muốn làm được
những điều này, cần có sự chia sẻ, vun vén của người mẹ, những bài học triết lý và thấm
thía từ người cha, những hành động nhỏ nhặt, đơn giản đầy quan tâm của cha mẹ,… Đó
chính là sự giao tiếp trong mỗi gia đình, dù bằng lời hay không lời, đó vẫn luôn là công cụ
gắn kết mọi thành viên lại gần với nhau hơn.
Để các bậc cha mẹ có thể hoàn thành tốt những vai trò của mình, thì việc khơi gợi
sự hứng thú trong giao tiếp với cha mẹ của các em HS lớp 12 là vô cùng quan trọng, từ đó
xây dựng được một sự liên kết gia đình vững mạnh với đầy đủ sự sẻ chia và thấu hiểu, để
gia đình thật sự là một tổ ấm, là bến cảng neo đậu an toàn cho các em, chuẩn bị tâm lý sẵn
sàng để đối đầu với những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai.
Trước đây đã có rất nhiều nghiên cứu về hứng thú như “Hứng thú học tập môn giáo
dục học đại cương của sinh viên trường cao đẳng cộng đồng Hậu Giang”, “Hứng thú nghề
nghiệp của HS một số trường trung học phổ thông tại huyện Bến Lức Tỉnh Long An” tuy
nhiên, hầu như chưa có nghiên cứu nào về hứng thú trong giao tiếp với cha mẹ. Vậy hứng
thú giao tiếp với cha mẹ có ảnh hưởng như thế nào đến những lựa chọn trong tương lai
của các em HS lớp 12? Có những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha


3


mẹ của HS lớp 12? Hứng thú giao tiếp với cha mẹ ở hiện tại có thay đổi gì so với giai
đoạn trước? Làm thế nào để tác động đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12?
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn thực hiện nghiên cứu đề tài “Hứng
thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12 tại huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang”.

2.

Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của
HS lớp 12 tại một số trường THPT thuộc huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang cũng như tìm
hiểu một số yếu tố tác động đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 tại huyện
Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

3.

Đối tượng và khách thể nghiên cứu

3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.
3.2.

Khách thể nghiên cứu

Khách thể chính: học sinh lớp 12
Khách thể phụ trợ: cha mẹ HS


4.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu

4.1

Về đối tượng nghiên cứu

Tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh thể hiện
trong nhu cầu định hướng nghề nghiệp.
4.2

Về khách thể nghiên cứu

239 học sinh lớp 12 năm học 2017 – 2018 tại 3 trường THPT (Tân Hiệp, Thạnh Tây,
Thạnh Đông) thuộc huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

5.

Giả thuyết khoa học

- Hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12 ở mức
độ thấp.
- Có sự khác biệt trong hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp
giữa nam và nữ.


4

- Có sự khác biệt trong hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp

giữa HS có cha mẹ có trình độ văn hóa khác nhau.

6.

Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu lý luận về hứng thú, giao tiếp, hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS
trung học phổ thông nói chung và HS lớp 12 nói riêng.
- Nghiên cứu mức độ biểu hiện hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12 huyện
Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang đối với việc thoả mãn nhu cầu định hướng nghề nghiệp trong
tương lai của bản thân sau THPT.
- Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ về định
hướng nghền nghiệp của HS lớp 12 huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

7.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, tôi sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau:
7.1

. Phương pháp nghiên cứu lý luận

- Phương pháp nghiên cứu lý luận để xây dựng các cơ sở lý luận và phương pháp
nghiên cứu của đề tài. Cung cấp các thông tin, dữ liệu cơ bản về các lý thuyết làm nền
tảng vững chắc cho việc tiến hành các điều tra, nghiên cứu trong thực tiễn.
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận cụ thể như tham khảo, nghiên cứu, phân tích
và tổng hợp tài liệu liên quan đến hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp 12.
7.2

7.2.1

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.

- Mục đích: Thu thập ý kiến của HS lớp 12 trong việc hứng thú giao tiếp với cha mẹ
về định hướng nghề nghiệp
- Nội dụng: Gồm 2 bảng hỏi
• Bảng 1: Người nghiên cứu xây dựng bảng hỏi gồm những câu hỏi mở để thăm dò ý
kiến của HS lớp 12 về vấn đề hứng thú giao tiếp với cha mẹ. Từ đó đưa ra một số chỉ báo
theo các mặt: nhận thức, thái độ, hành vi của HS lớp 12 về vấn đề hứng thú giao tiếp với
cha mẹ.


5

• Bảng 2: Người nghiên cứu xây dựng bảng hỏi khảo sát để tìm hiểu các vấn đề liên
quan đến hứng thú trong giao tiếp của HS lớp 12 với cha mẹ về định hướng nghề nghiệp.
Bảng hỏi sẽ xây dựng theo những chỉ báo từ bảng hỏi 1.
- Cách thức thực hiện:
+ Giai đoạn 1: Phát phiếu thăm dò gồm các câu hỏi mở ở bảng 1.
+ Giai đoạn 2: Phát phiếu thăm dò với câu hỏi có nhiều lựa chọn để tìm hiểu thực
trạng cho HS tại các buổi học của các lớp 12 trả lời để thăm dò ý kiến.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn.
- Mục đích: Nhằm thu thập thêm thông tin sâu hơn về vấn đề hứng thú giao tiếp với
cha mẹ của HS lớp 12 về định hướng nghề nghiệp.
- Nội dung: Người nghiên cứu xây dựng bảng hỏi phỏng vấn gồm những câu hỏi mở
để lấy ý kiến của phụ huynh và HS về vấn đề hứng thú giao tiếp với cha mẹ của HS lớp
12.
- Cách thực hiện: Phỏng vấn trực tiếp trong những giờ giải lao và các buổi họp phụ

huynh tại trường học.
7.3.

Phương pháp xử lý số liệu

Sử dụng phương pháp thống kê toán học với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS for
Window 13.0
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1. Cơ sở lý luận về hứng thú giao tiếp với cha mẹ của học sinh lớp 12
1.1.

Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1.

Nghiên cứu ở nước ngoài

Từ thế kỷ XVIII đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hứng
thú. Trong đó, phải kể đến các nghiên cứu sau:
Herbart (1776-1841) nhà tâm lý học, nhà giáo dục học, nhà triết học, người Đức đã
sáng tạo ra trường phái gáo dục hiện đại ở Đức thế kỷ 19. Ông đã đưa ra 4 mức độ của
dạy học đó là tính sáng tạo, tính liên tưởng, tính thống nhất phong phú và đặc biệt hứng
thú là yếu tố quyết định hiểu quả học tập của môn học (Nguyễn Thị Thanh Mai, 2015).


6

Năm 1931, nhà tâm lý học người Mỹ I.K.Strong đã tìm hiểu về “sự biến tâm lý theo
đổi lứa tuổi” và ông cho rằng sự phát triển của hứng thú thường gắn liền với sự phát triển
lứa tuổi. Điều này dễ hiểu vì muốn hình thành một hứng thú nào đó, cần phải có mức độ

phát triển tâm lý cũng như một mức độ trí tuệ và kinh nghiệm nhất định (Trần Phi Hùng,
2014).
Năm 1938 Ch.Buher đã nghiên cứu công rình “phát triển hứng thú ở trẻ em”. Từ
những năm 1940 của thế kỷ XX một số nhà tâm lý học Nga như S.L.Rubinstein,
N.G.Morodov, A.F.Beliep,… Đã có những công trình nghiên cứu về hứng thú, con đường
hình thành hứng thú (Nguyễn Thị Ái, 2012).
Từ những năm 1940 của thế kỉ XX, A.F.Biliep đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ
về “Tâm lý học hứng thú”. Các nhà tâm lý học như S.L.Rubinstein, N.G.morodov,
A.F.Biliep… Đã có những công trình nghiên cứu về hứng thú, con đường hình thành hứng
thú (Nguyễn Thị Mai 2015).
Năm 1944, A.F.Believ đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về vấn đề “tâm lý học
hứng thú” nội dung cơ bản của luận án là những vấn đề về lý luận tổng quát về hứng thú
trong khoa học tâm lý (Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo,
2005).
Năm 1946, E.Clapade với vấn đề “ Tâm lý trẻ em và thực nghiệm sư phạm” đã đưa
ra khái niệm hứng thú dựa trên bản chất sinh học. Clapade đã nhấn mạnh tầm quan trong
của hứng thú trong hoạt động của con người và cho rằng quy luật của hứng thú là cái trục
duy nhất mà tất cả hệ thống phải xoay quanh nó (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
John Dewey (1859-1952) nhà giáo dục học, nhà tâm lý học người Mỹ năm 1896
sáng lập ra trường thực nghiệm trong đó ưu tiên hứng thú của HS và nhu cầu của HS
trong từng lứa tuổi (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
J. Pieget (1896 – 1989), nhà tâm lý học người Thụy Sĩ có nhấn mạnh đến vai trò của
hứng thú trong việc lĩnh hội tri thức. Ông nói rằng “nhà trường mới yêu cầu hoạt động
nhận thức phải dựa trên cơ sở nhu cầu và hứng thú cá nhân”. Ngoài ra ông cũng nhấn
mạnh “cũng giống như người lớn, đứa trẻ là một thực thể hoạt động mà hoạt động bị chi


7

phối bởi quy luật của hứng thú hoặc của nhu cầu, sẽ không đem lại hiệu suất đầy đủ nếu

người ta không động viên tới những động cơ tự do của hoạt động ấy (J. Piaget, 1996).
Năm 1967, N.G.Marozova nhiên cứu sự khác nhau trong việc hình thành hứng thú
của trẻ em trong sự phát triển bình thường và sự phát triển không bình thường. Ông đã
nghiên cứu vấn đề tác dụng của việc giảng dạy nêu vấn để đối với hứng thú nhận thức của
sinh viên”. Năm 1976 tác giả đã đưa ra cấu trúc tâm lý của hứng thú đồng thời còn phân
tích những điều kiện và khả năng giáo dục hứng thú trong quá trình học tập và lao động
của HS (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
Năm 1972, I.G.Sukina với công trình nghiên cứu” vấn đề hứng thú trong khoa học
giáo dục” đã đưa ra khái niệm về hứng thú cùng với biểu hiện của nó. Đồng thời, tác giả
còn nêu lên nguồn gốc cơ bản của hứng thú nhận thức là nội dung tài liệu và hoạt động
của người học (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
J.Piaget (1896-1996), nhà tâm lý học người Thụy Sĩ đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về trí tuệ trẻ em và giáo dục. Ông rất chú trọng đến hứng thú của HS, ông cho
rằng “nhà trường kiểu mới đòi hỏi phải hoạt động thực sự, phải làm việc một cách chủ
động dựa trên nhu cầu và hứng thú cá nhân”. Ông nhấn mạnh: cũng giống như người lớn
trẻ em là một thực thể mà hoạt động cũng bị chi phối bởi quy luật hứng thú hoặc nhu cầu.
Nó sẽ không đem lại hiệu suất đầy đủ nếu người ta không khiêu gợi những động cơ nội tại
của hoạt động đó. Ông cho rằng mọi việc làm của trí thông minh đều dựa trên hứng thú,
hưng thú chẳng qua chỉ là một trạng thái chức năng của sự đồng hóa (Nguyễn Thị Bích
Thủy, 2010).
Nghiên cứu về nhu cầu giao tiếp, A.V. Vedenov cho rằng nhu cầu giao tiếp chỉ có ở
con người, có tính bẩm sinh và di truyền. Cùng quan điểm với ông, trong tác phẩm “Tâm
Lý học tình bạn tuổi trẻ” L.X Cono đã viết: “Con người là một thực thể xã hội, có nhu
cầu giao tiếp và tiếp xúc về tình cảm với người khác là một nhu cầu bẩm sinh”. Trong đó,
bằng các thực nghiệm tâm lý học mô tả, L.X. Cono cũng chứng minh quá trình phát triển
nhu cầu giao tiếp của con người từ 2, 3 tháng tuổi đến lứa tuổi thiếu niên và đặc điểm nhu
cầu giao tiếp của từng độ tuổi (Nguyễn Thị Xuân Phương, 2015).


8


Ngoài ra, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của nhu cầu giao tiếp của trẻ em
trong mối quan hệ với người lớn, các tác giả V.V. Vetrova, Đ.B. Godovicop, M.G.Elagila,
M.I.Lixima, A.F.Reystay, A.G. Rutxcaia, đã chỉ ra: Nhu cầu giao tiếp sẽ thay đổi tùy theo
nội dung, tính chất của hoạt động chung giữa trẻ em và người lớn. Trong mỗi giai đoạn
phát triển nhu cầu giao tiếp được thừa nhận như là nhu cầu có được nhờ sự tham gia của
người lớn, sự tham gia này vô cùng cần thiết để trẻ em giải quyết các vấn đề cơ bản, đặc
thù đối với lứa tuổi này (Nguyễn Thị Xuân Phương, 2015).
Như vậy, mặc dù trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về hứng thú xuất
hiện rất sớm và rất phong phú nhưng chúng ta có thể khái quát theo ba xu hướng: Thứ
nhất là xu hướng giải thích bản chất tâm lý của hứng thú, người đại diện cho xu hướng
này là A.F.Beliep với luận án “Tâm lý học hứng thú”. Thứ 2 là xu hướng xem xét hứng
thú trong mối quan hệ với sự phát triển nhân cách nói chung và vốn tri thức của cá nhân
nói riêng, đại diện là L.L.Bôgiôvich, Lukin, LêviTốp,… Thứ 3 là xu hướng nghiên cứu sự
hình thành và phát triển hứng thú theo các giai đoạn lứa tuổi, đại diện là G.I.Sukina,…
1.1.2.

Nghiên cứu ở Việt Nam

Ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hứng thú trên các vấn đề, khía
cạnh khác nhau như: Nghiên cứu hứng thú học các môn học, nghiên cứu hứng thú học
nghề phổ thông và nghề nghiệp,…
Năm 1960, các tác giả Minh Đức, Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân trong cuốn tâm lý học
giảng dạy ở Đại học sư phạm Hà nội đã đề cập đến vấn đề chung về hứng thú. Sau đó các
tác giả: Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy, Nguyễn Quang Uẩn,… Trong các tác phẩm
của mình cũng đã trình bày về hứng thú; vai trò của hứng thú với học tập và các hoạt
động khác.
Một tác giả không thể không đề cập đến là Nguyễn Khắc Viện, theo ông hứng thú là
“biểu hiện của nhu cầu, làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn, đó là khoái cảm, thích thú.
Nói đến hứng thú tức là nói đến mục tiêu huy động sinh lực (thể chất và tâm lí) để cố

gắng thực hiện. Có những hứng thú đòi hỏi thỏa mãn trước mắt như muốn ăn một món gì;
có những hứng thú phải gián tiếp thông qua một hoạt động khác, thường không thú vị mới


9

thỏa mãn, như học toán để cuối năm thi đỗ (Nguyễn Quang Uẩn, 2006). Như vậy, với
quan điểm này ông xem hứng thú gắn với nhu cầu.
Năm 1973, Phạm Tất Dong viết luận án phó tiến sĩ “Một số đặc điểm hứng thú nghề
của HS lớn và nhiệm vụ hướng nghiệp”. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định sự khác biệt
về hứng thú học tập giữa nam và nữ, hứng thú nghề nghiệp không thống nhất với xu
hướng phát triển nghề của xã hội, công tác hướng nghiệp ở trường phổ thông không được
thực hiện lên các em HS chịu nhiều thiệt thòi. Hứng thú học tập các bộ môn của HS là cơ
sở để đề ra nhiệm vụ hướng nghiệp một các khoa học (Nguyễn Thị Bích Thủy, 2010).
Năm 1980, Nguyễn Thanh Bình với đề tài: “bước đầu tìm hiểu nguyên nhân gây
hứng thú học tập tâm lý học của sinh viên khoa tự nhiên trường đại học sư phạm hà nội
I”. Tác giả đề xuất 5 biện pháp giáo dục hứng thú cho sinh viên: Giáo dục mục đích, động
cơ học tập cho HS thấy rõ ý nghĩa của môn học, giáo dục gắn với thực tiễn có đủ tài liệu
tham khảo cho sinh viên và tổ chuyên môn, bồi dưỡng năng lực giảng dạy cho giáo
viên( Nguyễn Thị Thanh Mai 2015).
Năm 1981, Phùng Minh Nguyệt nghiên cứu: “Bước đầu tìm hiểu thực trạng hứng
thú đối với nghề Sư Phạm của giáo sinh trường Cao Đẳng Sư Phạm Nghĩa Bình”. Tác giả
cho rằng, muốn nâng cao hứng thú nghề nghiệp cho giáo sinh phải tổ chức các đợt thực
tập nhằm thâm nhập vào thực tiễn, thực hành công việc của mình (Nguyễn Thị Mai 2015).
Năm 1982, Đinh Thị Chiến với nghiên cứu “Bước đầu tìm hiểu hứng thú với nghề
sư phạm của giáo sinh cao đẳng sư phạm Nghĩa Bình” tác giả đưa ra 3 biện pháp để giáo
dục hứng thú đối với nghề sư phạm cho giáo sinh, trong đó tác giả nhấm mạnh vai trò đặc
biệt quan trọng của dư luận xã hội (Nguyễn Thị Bích Thủy 2010).
Năm 1982, Đinh Thị Chiến với nghiên cứu “Bước đầu tìm hiểu hứng thú với nghề
sư phạm của giáo sinh cao đẳng sư phạm Nghĩa Bình” tác giả đưa ra 3 biện pháp để giáo

dục hứng thú đối với nghề sư phạm cho giáo sinh, trong đó tác giả nhấn mạnh vai trò đặc
biệt quan trọng của dư luận xã hội (Nguyễn Thị Bích Thủy 2010).
Năm 1986, Hoàng Kim Thu nghiên cứu “Hình thành hứng thú nghề nghiệp cho HS
thông qua giảng dạy môn Vật Lý”. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm nói lên rằng hình


10

thức học ngoại khóa có tác động lớn đến hình thành hứng thú nghề nghiệp lấy kiến thức
vật lý làm cơ sở cho HS (Nguyễn Thị Mai 2015).

Năm 1987, Nguyễn Khắc Mai với đề tài “Bước đầu tìm hiểu thực trạng hứng
thú với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên của sinh viên khao
tâm lý giáo dục”. Tác giả đưa ra những nguyên nhân gay hứng thú là do ý nghĩa
môn học, trình độ của sinh viên, phương pháp giảng dạy của giảng viên ( Nguyễn
Thị Mai 2015).
Năm 2005, Vương Thị Thu Hằng với đề tài: “Tìm hiểu hứng thú nghiên cứu khoa
học của sinh viên trường Đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân văn”. Phan Thị Thơm với đề
tài: “Hứng thú học tập môn tâm lí học của sinh viên trường Đại học Sư Phạm Đà Nẵng”.
Tác giả kết luận hứng thú học môn tâm lí học chưa phát triển cao, chưa đồng đều, có
nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập của sinh viên, trong đó yếu tố giảng
viên giữ vai trò quan trọng ( Nguyễn Thị Mai 2015).
Năm 2003, Nguyễn Hải Yến - Đặng Thị Thanh Tùng nghiên cứu “Một số yếu tố ảnh
hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn. Đề tài đã chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa học
là do chưa nhận thức được vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học, do bản thân chưa
nỗ lực vượt khó trong quá trinh nghiên cứu (Nguyễn Thị Bích Thủy 2010)
Năm 2008, Nguyễn Hoàng Sơn nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp phát triển
hứng thú học nghề phổ thông cho HS tại trung tâm KTTH_HN” Kết quả nghiên cứu cho
thấy đa số HS không có hứng thú cho các em là việc hết sức cần thiết. Tác giả đã đề xuất

hai biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học nghề phổ thông điện dân dụng cho HS đó là:
tổ chức hoạt động ngoại khóa và thiết kế các bài dạy theo quan điểm tích điểm( Nguyễn
Thị Mai 2015).
Năm 2009, Đặng Quốc Thành trong luận án tiến sĩ tâm lý học “Hứng thú học tập các
môn khoa học xã hội và nhân văn của Học viện sĩ quan” có đề cập đến các con đường
hình thành hứng thú, các giai đoạn và các điều kiện hình thành, phát triển hứng thú nhận
thức (Đặng Quốc Thành, 2009).


11

Năm 2009, Phạm Thị Ngọc Châu nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp kích thích
hứng thú cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động khám phá thiên nhiên vô sinh”. Tác
giả đã đề xuất ra các biện pháp sau:
- Biên pháp 1: Sử dụng câu hỏi “mở, câu đố, truyện kể, thơ ca, lời động viên…
- Biện pháp 2: Sử dụng trò chơi mang tính chất khám phá thử nghiệm
- Biện pháp 3: Thiết kế, sử dụng môi trường hoạt động hấp dẫn để kích thích trẻ tích
cực khám phá.
- Biện pháp 4: Tổ chức cho thí nghiệm đơn giản (Nguyễn Thị Thanh Mai 2015).
Năm 2010, Nguyễn Thị Bích Thủy với luận văn thạc sỹ “Hứng thú học tập của sinh
viên năm thứ nhất trường đại học Văn Hiến Thành phố Hồ Chí Minh”. Hứng thú học tập
của sinh viên năm nhất được biểu hiện qua nhận thức thái độ và hành vi chưa cao. Tác giả
có đề xuất một số biện pháp nâng cao hứng thú học tập cho sinh viên (Nguyễn Thị Thanh
Mai 2015).
Năm 2012, luận án “Mối tương quan giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và tính
tích cực giao tiếp với cha mẹ của thiếu niên”, tác giả Vũ Thị Khánh Linh đã xác định
được mối tương quan giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và tính khả thi của một số
biện pháp tác động tâm lí học nhằm tăng tính dân chủ trong phong cách giáo dục của cha
mẹ (Nguyễn Thị Xuân Phương, 2015).
Năm 2012, Phạm Nguyễn Lan Phương trong luận văn “Quan hệ cha mẹ với con tuổi

thiếu niên thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương” có đề cập đến vấn đề ứng xử cũng như những
yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ cha mẹ và con (Phạm Nguyễn Lan Phương, 2012).
Năm 2013, Đinh Thị Sen trong luận văn thạc sỹ tâm lý học “Hứng thú môn học kỹ
năng giao tiếp của sinh viên trường Đại Học Nha Trang”. Đưa ra kết luận như sau: “Đa số
sinh viên trường Đại Học Nha Trang chưa có hứng thú thực sự khi học môn KNGT. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó học môn KNGT. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phía giáo viên
(Đinh Thị Sen 2013).
Năm 2014, Trần Phi Hùng trong luận văn thạc sĩ tâm lý học “Hứng thú nghề nghiệp
của HS ở một số trường THPT tại huyện Bến Lức tỉnh Long An” đề cập đến các yếu tố
ảnh hưởng đến hứng thú nghề nghiệp của các em HS (Trần Phi Hùng, 2014).


12

Năm 2015, Tác giả Nguyễn Thị Xuân Phương nghiên cứu đề tài “ Tính tích cực giao
tiếp của học sinh cuối tiểu học trong mối quan hệ với cha mẹ tại thành phố Hồ Chí Minh”
đã rút ra kết luận mức độ tích cực giao tiếp của học sinh cuối tiểu học đạt mức cao
(Nguyễn Thị Xuân Phương 2015).
Tóm lại, ở nước ta đã có nhiều luận văn luận án và đề tài nghiên cứu về hứng thú.
Mỗi công trình nghiên cứu một khía cạnh khác nhau góp phần giúp đề tài này trở nên rất
đa dạng và phong phú. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về khía cạnh hứng thú giaao
tiếp của HS THPT còn hiếm.

1.2.

Một số khái niệm cơ bản

1.2.1.


Hứng thú

1.2.1.1. Khái niệm
+ TLH Phương tây
Nhà tâm lý học I.PH. Shecbac cho rằng: “Hứng thú là thuộc tính bẩm sinh vốn có
của con người”. Nó được biểu hiện thông qua thái độ, tình cảm của con người vào một
đối tượng nào đó trong thế giới khách quan” (Phan Thị Kim Ngân, 2013).
Annoi, nhà tâm lý học người mỹ lại cho rằng: “Hứng thú là một sự sáng tạo của tinh
thần với đối tượng mà con người hứng thú tham gia vào” (Kasina, 1979).
Còn Harlette Buller thì: “Hứng thú là một hiện tượng phức hợp cho đến nay vẫn
chưa được xác định, hứng thú là một từ không những chỉ toàn bộ những hành động khác
nhau mà hứng thú còn thể hiện cấu trúc bao gồm các nhu cầu” (Phan Thị Kim Ngân,
2013).
Tác giả K.Strong và W.James cho rằng: “Hứng thú là một trường hợp riêng của thên
hướng biểu hiện trong xu thế hoạt động của con người như là một nét tính cách” (Phan
Thị Kim Ngân, 2013).


13

Tác giả E.Super lại cho hứng thú không phải là thiên hướng, không phải là nét tính
cách của cá nhân nó là một cái gì khác, riêng rẽ với thiên hướng, riêng rẽ với tính cách,
riêng rẽ với cảm xúc. Tuy nhiên ông lại không đưa ra một quan niệm rõ ràng về hứng thú.
Tác giả Klapalet nghiên cứu thực nghiệm và đi đến kết luận “hứng thú là dấu hiệu
của nhu cầu bản năng khát vọng đòi hỏi cần được thỏa mãn của cá nhân” (Phan Thị Kim
Ngân, 2013).
Hầu hết các nhà Tâm lý học phương Tây cho rằng hứng thú là một hiện tượng Tâm
lý đặc biệt và không thể tách rời với các hiện tượng tâm lý khác của con người. Hứng thú
là điểm đặc trưng có ý nghĩa với mỗi cá nhân. Một số nhà tâm lý học đề cập ở trên đều có
quan điểm là duy tâm, sinh vật hoặc là phiến diện siêu hình về hứng thú. Sự tác động qua

lại và ràng buộc lẫn nhau của các quá trình tâm lý đã góp phần hình thành hứng thú. Các
nhà Tâm lý học phương Tây cho rằng hứng thú là thuộc tính có sẵn trong mỗi cá nhân và
sẽ được bộc lộ dần, hoàn thiện dần trong suốt quá trình phát triển của cá nhân đó. Như
vậy thì hứng thú dựa trên cơ sở sinh học. Những quan điểm này có mặt hạn chế đó là xem
nhẹ vai trò của giáo dục cũng như tính tích cực của cá nhân trong sự hình thành và phát
triển hứng thú. Tuy nhiên, không thể phủ nhận đã có những quan điểm tiến bộ về hứng
thú của Hidi và Renninger khi cho rằng hứng thú cần có sự hỗ trợ từ các yếu tố bên ngoài.
+ Quan điểm hứng thú theo các nhà tâm lý học Marxist:
Các nhà tâm lý học Marxist đứng trên lập trường duy vật biện chứng, coi hứng thú
không phải là cái có sẵn hay thuộc tính bên trong của mỗi cá nhân mà đó là kết quả của
quá trình hình thành và phát triển nhân cách, nó phản ánh một cách khách quan thái độ
đang tồn tại ở một nhân cách. Thái độ này nảy sinh trong quá trình tác động qua lại giữa
điều kiện bên ngoài và hoạt dộng của mỗi cá nhân, chính vì thế hứng thú có rất nhiều
nguyên nhân khác nhau và khái niệm “hứng thú” được rất nhiều tác giả lí giải với nhiều
khía cạnh khác nhau.
Một số nhà tâm lý học đã cho rằng: Hứng thú là khuynh hướng lựa chọn, khuynh
hướng chú ý ở con người (T. Ribô, N.P.Đôba rưnhin) hay hứng thú là khuynh hướng ưu
tiên chú ý vào một khách thể nào đó (B.N.Chieplop); hứng thú có biểu hiện như là


14

khuynh hướng tác động một cách có hiểu biết, có ý thước đối với các khách thể mà con
người định hướng vào đó (X. L. Rubinstein), V.G.Ivanôv, …(Nguyễn Thu Cúc 2008).
Trong “Đề cương bài giảng tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm” có tác giả cho
rằng: “Hứng thú là sự định hướng có lựa chọn của cá nhân vào những sự vật, hiện tượng
của thực tế xung quanh. Sự định hướng đó được đặc trưng bởi sự vươn lên thường trực tới
nhận thức, tới những kiến thức mới ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn” (Nguyễn Thu Cúc
2008).Trong định nghĩa này, các tác giả nhấn mạnh đến việc cá nhân nãy sinh thái độ đặc
biệt cũng như hoạt động đi sâu tìm hiểu đối tượng, trên cơ bản đây là định nghĩa về hứng

thú nhận thức.
A.N. Leonchiep xem hứng thú là thái độ nhận thức đặc biệt đối với đối tượng hoặc
hiện tượng của hiện thực khách quan; A.A.Liublinxkaia cho rằng “hứng thú là thái độ
nhận thức của con người đối với xung quanh, với mặt nào đó của chính nó, đối với một
lĩnh vực nhất định mà trong đó con người luôn muốn đi sâu hơn”. A.G. Côvaliôv định
nghĩa rằng hứng thú là thái độ đặc thù của cá nhân đối với một đối tượng nào đó, do ý
nghĩa của nó trong đời sống và sự hấp dẫn về tình cảm của nó”,… (Nguyễn Thu Cúc
2008). Ở đây các nhà tâm lý học đã xem hứng thú như hoạt đông nận thức, hoạt động tình
cảm, cảm xúc của con người người. định nghĩa này cũng chưa làm rõ được nguồn gốc,
nguyên nhân của hứng thú cũng như đã thu hẹp phạm vi hứng thú.
Như vậy, các định nghĩa về hứng thú mà các nhà Tâm Lý Học đã sữ dụng có các
điểm chung sau đây :
- Hứng thú là quá trình nhận thức đối tượng có ý nghĩa, hấp dẩn đối với cá nhân, đi
kèm với đó là quá trình xúc cảm ý chí.
- Hứng thú là sự lựa chọn khách quan của cá nhân với các đối tượng cụ thể, hứng
thú cũng là thái độ, xu hướng lựa chọn mà cá nhân thể hiện,
- Hứng thú là định hướng mà các cá nhân lựa chọn tích cực các đối tượng cụ thể
nhắm mục đích chiếm lĩnh đối tượng.
* Định nghĩa hứng thú theo khía cạnh của sự chú ý:


15

+ Tác giả P.A. Rucdich coi “Hứng thú biểu hiện một xu hướng đặc biệt của cá nhân
nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định của cuộc sống xung quanh, đồng thời biểu
hiện thiên hướng tương đối cố định của con người đối với các loại hoạt động nhất định”
(Trần Phi Hùng 2014).
+ Tác giả A.V.Daparozet viết “Hứng thú là khuynh hướng của sự chú ý tới những
đối tượng nhất định, là nguyện vọng tìm hiểu chúng càng tỉ mỉ càng hay” (Nguyễn Tiến
Đạt, 2004).

+ Tác giả V.A. Kruteshi coi hứng thú đó là “Khuynh hướng nhận thức tích cực của
con người đối với đối tượng này hay kia, hiện tượng hay hoạt động cái có liên hệ với thái
độ cảm xúc dương tính đối với con người (Nguyễn Quang Uẩn, 2011). Hơn nữa, hứng thú
nhận thức sẽ kích thích chủ thể đi sâu tìm hiểu, khám phá bản chất bên trong của đối
tượng, nhưng không thể đồng nhất hứng thú với sự chú ý.
* Định nghĩa hứng thú theo khía cạnh gắn liền với sự hình thành và phát triển của
các hiện tượng tâm lý khác. Các nhà Tâm Lý học hoạt động như: S. L. Rubinstein, N.Ph.
Gonolobolin, A.V. Petrovxki… coi hứng thú không phải là cái gì đó trừu tượng, có sẵn
khi sinh ra, mà là cái tự tạo trong quá trình cá thể sống và hoạt động, nó gắn liền với sự
hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý khác nên có quan hệ với các hiện
tượng tâm lý đó; nó là kết quả của sự hình thành nhân cách, phản ánh khách quan thái độ
của con người với thế giới xung quanh và hoạt động có ý thức của con người trực tiếp
quyết định (Nguyễn Quang Uẩn, 2011)
+ Quan điểm Việt Nam:
Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng, “Hứng thú thể hiện nhu cầu nhận thức nhằm
đảm bảo cho nhân cách ý thức được mục đích hoạt động và tạo điều kiện cho việc định
hướng, làm quen với những sự việc mới, cho việc phản ứng hiện thực một cách đầy đủ và
sâu sắc hơn. Về mặt chủ quan, hứng thú được thể hiện thông qua xúc cảm gắn với quá
trình nhận thức, qua sự chú ý của chủ thể đến đối tượng hứng thú. Việc thỏa mãn hứng
thú không dập tắt hứng thú mà tạo ra những hứng thú mới đáp ứng mức độ cao hơn của
hoạt động nhận thức. Trong quá trình phát triển, hứng thú có thể biến thành năng khiếu


16

như là sự thể hiện nhu cầu thực hiện hoạt động đã gây ra hứng thú. Người ta phân biệt
hứng thú trực tiếp – hứng thú do tính chất lôi cuốn của đối tượng tạo nên và hứng thú gián
tiếp đối tượng là công cụ để đạt được mục đích hoạt động. Tính bền vững của hứng thú
được biểu hiện ở độ dài thời gian duy trì hứng thú ở cường độ của hứng thú. Việc cá nhân
khắc phục những khó khăn đó là điều kiện để cá nhân thực hiện hoạt động hứng thú cho

thấy tính bền vững của hứng thú. Đánh giá độ rộng hay hẹp của hứng thú được xác định
bởi nội dung và giá trị của hứng thú đối với nhân cách” (Dương Thiệu Tống, 2012).
Các tác giả Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thủy cho rằng: Khi ta có
hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó
đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm đặc biệt đối với nó, do đó
hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối tượng của nó, tạo ra tâm lý khát khao tiếp
cận đi sâu vào nó (Phạm Thị Kim Ngân, 20120
Theo tác giả Huỳnh Văn Sơn: hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối
tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa có khả năng mang lại khoái cảm.
Hứng thú luôn có hai yếu tố:
Đối tượng phải có ý nghĩa đối với đời sống cá nhân (yếu tố nhận thức). Đối tượng có
khả năng hấp dẫn, tạo ra những khoái cảm (yếu tố cảm xúc). Chính vì đặc điểm này mà
hứng thú lôi cuốn con người hướng về phía nó, tạo ra tâm lí khát khao tiếp cận và đi sâu
tìm hiểu nó. Đây là đặc trưng quan trọng của hứng thú giúp ta phân biệt nhu cầu và hứng
thú và không thể đồng nhất nhu cầu và hứng thú tuy nhu cầu và hứng thú có mối quan hệ
mật thiết.
Theo Nguyễn Khắc Viện hứng thú là biểu hiện của nhu cầu, làm cho chủ thể tìm
cách thỏa mãn tạo ra khoái cảm thích thú. Nói đến hứng thú tức nói đến một mục tiêu,
huy động sinh lực (thể chất và tâm lý) để cố gắng thực hiện. Có những hứng thú đòi hỏi
thỏa mãn trước mắt, như muốn ăn một món gì, có những hứng thú gián tiếp phải thông
qua một hoạt động, thường không thú vị mới thỏa mãn, như học toán để cuối năm thi đỗ.
Hứng thú gây chú ý và làm cho chủ thể cố gắng hành động. Như vậy Nguyễn Khắc Viện
coi hứng thú có bản chất như nhu cầu, là biểu hiện của nhu cầu. Dù không thú vị học toán


×