Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

luận văn kinh doanh quốc tế giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng gỗ và sản phẩm từ gỗ sang thị trường đông nam á của công ty TNHH một thành viên VTS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.6 KB, 50 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG

1

1


MỞ ĐẦU
Ngày nay, người ta rất là ưa chuộng các sản phẩm làm từ gỗ, chúng được sử dụng
rộng rãi và phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Nhu cầu tiêu thụ tăng ngày càng
nhanh khoảng 8%/năm. Trước nhu cầu đó thì nhiều nước trên thế giới đã bắt đầu chú
trọng đến ngành chế biến gỗ này đặc biệt là Trung Quốc có sự quan tâm đáng kể, và
trong đó Việt Nam cũng có sự chú trọng phát triển.
Trước xu thế này, ngành công nghiệp chế biến gỗ nói chung và các doanh nghiệp
xuất khẩu gỗ chế biến nói riêng của Việt Nam cũng đã và đang nổ lực hết mình cùng
với các nước bạn làm giàu thêm về thị trường đồ gỗ trên thế giới đáp ứng nhu cầu cho
người tiêu dùng, và đã đạt được một số kết quả khả quan. Trong đó, Công ty TNHH
một thành viên VTS là một trong những công ty cũng chuyên sản xuất và xuất khẩu gỗ
có uy tín đạt được một số thành tựu trong ngành.
Đông Nam Á là một thị trường có nhu cầu sử dụng các sản phẩm chế biến từ gỗ
khá lớn và là một thị trường xuất khẩu tiềm năng. Hứa hẹn đây sẽ là một thị trường
giúp cho Công ty ngày càng phát triển.
Do đó sau một thời gian thực tập và tìm hiểu tại công ty TNHH một thành viên
VTS, em nhận thấy rằng kim ngạch xuất khẩu của công ty còn khiêm tốn và hoạt động
xuất khẩu có nhiều hạn chế. Và một thị trường tiềm năng như Đông Nam Á còn đang
bỏ quên, công ty chưa có sự chú trọng đến nên em đã chọn đề tài “Giải pháp đẩy
mạnh xuất khẩu mặt hàng gỗ và sản phẩm từ gỗ sang thị trường Đông Nam Á của
công ty TNHH một thành viên VTS ” làm đề tài cho bài khóa luận của mình.


2


CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Tầm quan trọng ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
Thị trường ĐNA là thị trường có sức mua lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng
tiêu dùng của thị trường ĐNA (trong đó có đồ gỗ) đang ngày càng gia tăng. Nhu cầu
tiêu dùng của Thị trường ĐNA mở ra nhiều triển vọng mới cho các nước xuất khẩu đồ
gỗ sang thị trường này trong đó có Việt Nam. Các năm gần đây có thể nói nước ta xuất
khẩu đồ gỗ sang thị trường ĐNA lên đến vài tỷ USD
Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam từ nhiều năm nay chỉ có dầu thô,
dệt may, thuỷ sản… Vài năm gần đây, sản phẩm gỗ cũng được coi là một mặt hàng
xuất khẩu chính, giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và là một
trong 6 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu rất cao. Có thể nói sản phẩm gỗ là một mặt hàng có triển vọng rất lớn để tăng
kim ngạch xuất khẩu vào thị trường ĐNA trong những năm vừa qua và hứa hẹn sẽ tăng
mạnh nữa trong tương lai.
Tuy nhiên, trong điều kiện toàn cầu hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày
càng sâu sắc hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cạnh tranh xuất khẩu nói chung và xuất
khẩu sang thị trường ĐNA nói riêng của các doanh nghiệp sản xuất và chế biến đồ gỗ
ngày càng gay gắt. Những sản phẩm Việt Nam có lợi thế xuất khẩu sang ĐNA cũng là
những sản phẩm mà nhiều nước và khu vực khác trên thế giới nhất là các nước
ASEAN và Trung Quốc có điều kiện lợi thế để xuất khẩu sang thị trường này. Công ty
TNHH Một thành viên VTS cũng không nằm ngoại lệ, phải đối mặt với nhiều khó
khăn và rào cản .
Nghiên cứu và tìm ra giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị
trường ĐNA là hết sức cần thiết. Thúc đẩy xuất khẩu gỗ của Công ty sang thị trường
ĐNA sẽ mang lại lợi ích kinh tế lớn cho Công ty. Bởi đây là một thị trường đầy tiền
năng mà Công ty cần hướng tới xuất khẩu trong tương lai.

1.2 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung

3


+ Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm hiểu, đánh giá thực trạng xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ của Công ty TNHH Một thành viên VTS sang thị trường ĐNA, đưa
ra những đánh giá về kết quả đạt được và hạn chế, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ của Công ty sang thị trường ĐNA.
- Mục tiêu cụ thế
+ Về lý thuyết: Đưa ra các cơ sở lý thuyết về xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu,
cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
+ Về thực tiễn: Giới thiệu về Công ty TNHH Một thành viên VTS, đưa ra thực
trạng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Công ty TNHH Một thành viên VTS sang thị
trường ĐNA, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm
gỗ của Công ty TNHH Một thành viên VTS sang thị trường ĐNA, đưa ra các giải pháp
nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ của Công ty sang thị
trường ĐNA.
1.2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Một là, làm rõ về nhu cầu, đặc điểm và xu hướng tiêu dùng và nhập khẩu sản
phẩm gỗ của Thị trường ĐNA
- Hai là, thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu
sản phẩm gỗ của Công ty TNHH Một thành viên VTS sang thị trường ĐNA.
- Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang
ĐNA
1.3 Đối tương và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng
Hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ của Công ty TNHH Một thành viên

VTS sang thị trường ĐNA và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gỗ và
sản phẩm từ gỗ của Công ty.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
-

Về không gian: tại Công ty TNHH Một thành viên VTS
Về thời gian: Nghiên cứu số liệu và phân tích những số liệu trong năm 2018.
- Về nội dung: Hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ của Công ty TNHH
Một thành viên VTS

4


1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Qua báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, kết quả hoạt động thương mại quốc tế giai đoạn 2015-2017, kết quả kinh doanh
xuất khẩu 3 năm 2015-2017 của Công ty TNHH Một thành viên VTS.
+ Đối với Công ty: Các báo cáo tài chính, báo cáo về nghiên cứu thị trường, báo
cáo về chiến lược kế hoạch thị trường.
+ Đối với thị trường: Nghiên cứu về nhu cầu thị trường, xu hướng tiêu dùng gỗ
của thị trường ĐNA qua các bài báo, các báo cáo thống kê, và các website.
- Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu sản
phẩm gỗ của Công ty TNHH Một thành viên VTS sang thị trường ĐNA.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh thông qua các số liệu thu được để
thấy sự tăng giảm của các chỉ tiêu trong từng thời kỳ.
1.5 Kết của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, thì khóa luận được chia làm 4 chương
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về xuất khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu.
Chương 3: Thực trạng xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ của công ty TNHH

một thành viên VTS sang thị trường ĐNA
Chương 4: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ của công TNHH
một thành viên VTS sang thị trường ĐNA

5


CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ XUẤT KHẨU VÀ ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU
2.1 Một số khái niệm cơ bản về xuất khẩu
2.1.1 Khái niệm xuất khẩu
Cùng với sự phát triển kinh tế của các quốc gia, xuất phát từ những sự khác biệt
về điều kiện tự nhiên, khí hậu, sự khác biệt về trình độ phát triển sản xuất và từ nhu
cầu phong phú đa dạng của mọi tầng lớp dân cư trên thế giới…, nhu cầu buôn bán trao
đổi hàng hoá cũng ngày càng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, không những chỉ
trao đổi trong nội bộ quốc gia mà còn qua khỏi biên giới quốc gia, lan rộng ra toàn thế
giới. Thương mại quốc tế trong xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế quốc tế
hoá hiện nay có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế một quốc gia, một khu
vực và toàn cầu. Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động của thương mại quốc tế. Đã có
rất nhiều khái niệm về xuất khẩu được đưa ra, dưới đây, tôi xin đưa ra một số khái
niệm xuất khẩu phổ biến nhất:
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ từ nước này sang nước khác.
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá (cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô
hình) từ một quốc gia sang phần còn lại của thế giới.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế
đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.1.2 Đặc điểm của xuất khẩu
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu có các đặc điểm sau:
Thời gian lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu:
Thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu bao giờ

cũng dài hơn so với thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh doanh nội địa
do khoảng cách địa lý cũng như các thủ tục phức tạp để xuất khẩu hàng hoá. Do đó, để
xác định kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu, người ta chỉ xác định khi hàng hoá
đã luân chuyển được một vòng hay khi đã thực hiện xong một thương vụ ngoại
thương.

6


Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu:
Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu bao gồm nhiều loại, trong đó xuất khẩu chủ yếu
những mặt hàng thuộc thế mạnh trong nước như: rau quả tươi, hàng mây tre đan, hàng
thủ công mỹ nghệ …
Thời điểm giao, nhận hàng và thời điểm thanh toán:
Thời điểm xuất khẩu hàng hoá và thời điểm thanh toán tiền hàng không trùng
nhau mà có khoảng cách dài.
Phương thức thanh toán:
Trong xuất khẩu hàng hoá, có nhiều phương thức thanh toán có thể áp dụng được
tuy nhiên phương thức thanh toán chủ yếu được sử dụng là phương thức thanh toán
bằng thư tín dụng. Đây là phương thức thanh toán đảm bảo được quyền lợi của nhà
xuất khẩu.
Tập quán, pháp luật:
Hai bên mua, bán có quốc tịch khác nhau, pháp luật khác nhau, tập quán kinh
doanh khác nhau, do vậy phải tuân thủ luật kinh doanh cũng như tập quán kinh doanh
của từng nước và luật thương mại quốc tế.
2.1.3 Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Một là, hình thức xuất khẩu trực tiếp:
Hình thức xuất khẩu trực tiếp là hình thức, trong đó người bán (người sản xuất,
người cung cấp, người xuất khẩu) và người mua (người nhập khẩu) quan hệ trực tiếp
với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thoả thuận về hàng hoá,

giá cả và các điều kiện giao dịch khác.
Hai là, hình thức xuất khẩu qua trung gian:
Xuất khẩu qua trung gian là hình thức bán hàng được thực hiện nhờ sự giúp đỡ
của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định. Người
trung gian phổ biến trong phương thức này là đại lý và môi giới.

7


Ba là, hình thức xuất khẩu buôn bán đối lưu:
Buôn bán đối lưu hay còn gọi là hình thức xuất khẩu liên kết là phương thức
trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua,
lượng hàng trao đổi với nhau có gía trị tương đương nhau. Mục đích xuất khẩu ở đây
không phải nhằm thu ngoại tệ mà thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Các loại hình buôn bán đối lưu chủ yếu: Hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối
lưu, chuyển nợ, mua bán bình hành, mua lại.
Bốn là, hình thức gia công xuất khẩu:
Là một phương thức giao dịch kinh doanh quốc tế trong đó một bên (bên đặt gia
công) giao cho bên kia vật tư, nguyên liệu nhằm nhập về những thành phẩm sau khi trả
cho bên kia một khoản lệ phí (phí gia công).
Các hình thức gia công xuất khẩu: (1) Căn cứ vào sự chuyển giao quyền sở hữu:
Hình thức giao nguyên liệu nhận thành phẩm, hình thức mua nguyên liệu bán thành
phẩm. (2) Căn cứ vào cách thức thanh toán phí gia công: Hợp đồng thực thanh thực
chi, hợp đồng khoán. (3) Căn cứ vào chủ thể tham gia gia công: gia công hai bên, gia
công nhiều bên.
Năm là, hình thức tái xuất khẩu:
Là hình thức xuất khẩu những mặt hàng ngoại nhập trước đây mà bản chất hàng
hoá đó không thay đổi nhiều qua quá trình gia công lưu thông nhằm tăng giá trị của
hàng hoá đó
Các hình thức tái xuất khẩu: Tái xuất thông thường, tam nhập tái xuất, tạm xuất

tái nhập.
Sáu là, hình thức xuất khẩu tại chỗ:
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mà người bán (người xuất khẩu) bán
hàng hoá hay dịch vụ trong phạm vi biên giới quốc gia của mình.
Hình thức: Bao gồm các hoạt động như: Bán hàng tại hội chợ, triển lãm quốc tế,
cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế…
2.1.4 Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu là một hoạt động không thể thiếu trong thương mại quốc tế. Xuất
khẩu có những vai trò sau:

8


Thứ nhất, xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so
sánh của mình.
Thứ hai, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc
và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát
triển sản xuất sản phẩm.
Thứ tư, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động, cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ năm, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại, tăng cường vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế.
2.2 Khái niệm về đẩy mạnh xuất khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu là các biện pháp nhằm tăng cường các hoạt động trao đổi
hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với các quốc gia khác dưới hình thức mua bán
thông qua quan hệ thị trường nhằm khai thác lợi thế của một quốc gia trong phân công
lao động quốc tế. Đây là hoạt động diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh
tế, từ xuất khẩu hàng hóa tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị, công
nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm đem lại lợi ích cho quốc gia. Đẩy

mạnh xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rộng cả về không gian và thời gian. Nó có thể
diễn ra trong một thời gian ngắn hoặc có thể kéo dài hàng năm. Đồng thời, nó có thể
được tiến hành trên phạm vi một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau. Ngày nay,
các quốc gia trên thế giới dù là những nước lớn hay những quốc gia đang phát triển
như Việt Nam thì đẩy mạnh xuất khẩu vẫn là việc làm cần thiết. Bởi lẽ, đẩy mạnh xuất
khẩu sẽ góp phần tăng tổng sản phẩm kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế, cải thiện đời
sống nhân dân và tăng tiềm lực về an ninh quốc phòng. Do đó, đẩy mạnh xuất khẩu là
việc làm hết sức quan trọng, có ý nghĩa trước mắt và lâu dài đối với một quốc gia.
2.3 Nội dung đẩy mạnh xuất khẩu
2.3.1 Nghiên cứu thị trường
Có thể nói, đây là hoạt động đầu tiên cần tiến hành hết sức cẩn thận, chu đáo.
Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật
vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu cung cấp và giá

9


cả hàng hoá đó trên thị trường, giúp cho họ giải quyết được những vấn đề thực tiễn
kinh doanh, theo yêu cầu thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của hàng
hoá.
2.3.1.1 Nghiên cứu thị trường hàng hóa
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng
hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó có thị trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá phải bao gồm việc nghiên cứu toàn bộ quá trình
sản xuất của một ngành sản xuất cụ thể, tức là việc ngiên cứu không chỉ giới hạn ở
lĩnh vực lưu thông mà cả ở lĩnh vực sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hoá.
Những biến đổi trong quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá cụ thể
được biểu hiện tập trung trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá đó.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá nhằm đem lại sự hiểu biết về quy luật vận động
của chúng. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể có quy luật vận động riêng, quy luật đó

được thể hiện qua những biến đổi nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng hoá trên thị
trường, nắm chắc các quy luật của thị trường hàng hoá để vận dụng giải quyết hàng
loạt các vấn đề của thực tiễn kinh doanh liên quan ít nhiều đến vấn đề thị trường như
thái độ tiếp thu của người tiêu dùng, yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá các
ngành tiêu thụ mới, các hình thức và biện pháp thâm nhập thị trường.
Trong nghiên cứu thị trường, đặc biệt khi muốn kinh doanh xuất khẩu thành
công, điều không thể thiếu được là phải nhận biết sản phẩm xuất khẩu có phù hợp với
thị trường và năng lực của doanh nghiệp hay không.
Muốn vậy, ta phải xác định các vấn đề sau:
- Thị trường cần mặt hàng gì?
- Tình hình tiêu dùng mặt hàng đó như thế nào?
- Mặt hàng ở thời kỳ nào của chu kỳ sống?
- Tình hình sản xuất mặt hàng đó như thế nào?
- Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó?…
2.3.1.2 Lựa chọn đối tác buôn bán
Mục đích của hoạt động này là lựa chọn bạn hàng sao cho công tác kinh doanh
an toàn và có lợi. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn đối tác bao gồm:
- Quan điểm kinh doanh của Công ty

10


- Lĩnh vực kinh doanh của Công ty
- Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ.
- Uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
- Những người được uỷ quyền và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với
nghĩa vụ của công ty.
Lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu tốt nhất nên chọn những người nhập
khẩu trực tiếp, hạn chế các hoạt động trung gian vì nó chỉ thích hợp khi thâm nhập thị
trường mới, mặt hàng mới… cần nắm bắt các thông tin thị trường. Có thể nói, việc lựa

chọn đối tác giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng
lợi các hoạt động mua bán trong thương mại quốc tế. Song việc lựa chọn đối tác giao
dịch cũng tuỳ thuộc một phần vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống
trong mua bán của mình.
2.3.1.3 Nghiên cứu giá cả hàng hóa trên thị trường
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện một cách
tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân
như: quan hệ cung cầu hàng hoá, tích luỹ tiêu dùng…giá cả luôn gắn liền với thị
trường và chịu tác động của nhiều nhân tố. Trong kinh doanh quốc tế, giá cả thị trường
càng trở nên phức tạp do buôn bán ở các khu vực khác nhau, thời gian dài hơn, hàng
vận chuyển qua nhiều nước với các chính sách thuế khác nhau. Để thích ứng với sự
biến động của thị trường, các nhà kinh doanh tốt nhất là thực hiện định giá linh hoạt,
phù hợp với mục đích cơ bản của doanh nghiệp.
Thông thường việc định giá dựa vào:
- Giá thành sản xuất sản phẩm.
- Sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng.
- Giá cả các hàng hoá cạnh tranh.
Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải xem xét đến các quy định của chính phủ
nước chủ nhà và nước xuất khẩu để có thể định giá sản phẩm đáp ứng đòi hỏi của các
quy định này.
Khi định giá cần tuân thủ các bước:
- Bước 1: Phân tích chi phí.
- Bước 2: Phân tích, dự đoán thị trường.

11


- Bước 3: Vùng giá và các mức giá dự kiến.
- Bước 4: Lựa chọn giá tối đa.
- Bước 5: Xác định cơ cấu giá.

- Bước 6: Báo giá cho khách hàng.
Nghiên cứu giá cả được coi là vấn đề chiến lược vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức
tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá đúng sẽ đem lại thắng lợi cho nhà
xuất khẩu, tránh cho họ những rủi ro và thua lỗ.
2.3.1.4 Các phương thức thanh toán
+ Phương thức chuyển tiền: là phương thức mà trong đó khách hang (người trả
tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác
(người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách
hàng yêu cầu. Có thể chuyển tiền bằng điện, bằng thư…
+ Phương thức ghi sổ: Người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi
nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định
kỳ (tháng, quý, năm) người mua trả tiền cho người bán.
+ Phương thức nhờ thu: Người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc
cung ứng một dịch vụ cho khách hàng thì uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số
tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra. Nhờ thu có hai loại là nhờ
thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
+ Phương thức tín dụng chứng từ: là một sự thoả thuận, trong đó một ngân hang
(ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hang (người yêu cầu mở thư tín
dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi số tiền của thư
tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi
người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những
quy định đề ra trong thư tín dụng.
+ Phương thức thư uỷ thác mua (Authority to purchase, viết tắt là A/P)
+ Thư đảm bảo trả tiền (Letter of Guarantee-L/G )
+ Thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài (Escrow Account)
2.3.2 Lập phương án kinh doanh
Trên cơ sở những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường, đơn vị
kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động

12



của doanh nghiệp nhằm đạt tới những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Việc xây
dựng phương án này bao gồm:
+ Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng quát về
hoạt động kinh doanh và những thuận lợi khó khăn.
+ Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn
này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
+ Đề ra mục tiêu cụ thể: khối lượng, giá bán, thị trường xuất khẩu. Đề ra và thực
hiện các biện pháp để đạt được mục tiêu đó. Những biện pháp này bao gồm: đầu tư
vào cải tiến bao bì, ký kết hợp đồng kinh tế, quảng cáo, tham gia hội chợ quốc tế, mở
rộng đại lý…
+ Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các chỉ tiêu chủ
yếu như: Tỷ suất ngoại tệ, thời gian hoàn vốn, tỷ suất doanh lợi, điểm hoà vốn…
2.3.3 Nguồn hàng cho xuất khẩu
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty hoặc một địa
phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và bảo đảm điều kiện xuất khẩu
được. Khi nói đến nguồn hàng cho xuất khẩu phải gắn với một địa danh cụ thể, không
thể nói đến một nguồn hàng chung chung, không phải là của ai, có đảm bảo chất lượng
quốc tế hay không. Do vậy, không phải toàn bộ khối lượng hàng hoá của một đơn vị,
một công ty, một địa phương, một vùng đều là nguồn hàng cho xuất khẩu mà chỉ một
phần hàng hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu mới là nguồn hàng cho xuất khẩu.
Một nguồn hàng xuất khẩu mạnh là rất quan trọng đối với doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh xuất khẩu vì nó góp phần đáp ứng kịp thời, chính xác nhu cầu thị trường,
thực hiện đúng hợp đồng với chất lượng tốt. Vì vậy, công việc tạo nguồn hàng cho
xuất khẩu là một công việc rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp.
Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hoặc
gián tiếp cho sản xuất, có thể là thu gom hoặc có thể ký kết hợp đồng mua với các
chân hàng, các đơn vị sản xuất. Tuỳ theo đặc điểm của ngành hàng mà người ta có thể
tự sản xuất hoặc ký hợp đồng mua kết hợp với việc hướng dẫn kỹ thuật.

Công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu bao gồm các công đoạn:
- Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: là nghiên cứu khả năng cung cấp hàng xuất
khẩu trên thị trường như thế nào? Khả năng cung cấp hàng được xác định bởi nguồn

13


hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Nguồn hàng thực tế là nguồn hàng đã có và
đang sẵn sàng đưa vào lưu thông. Với nguồn hàng này chỉ cần thu mua, phân loại, bao
gói là có thể xuất khẩu được. Nguông hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện,
nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện trên thị trường. Đối với nguồn hàng này các
doanh nghiệp ngoại thương phải có đầu tư, có đơn hàng, có hợp đồng kinh tế…thì
người sản xuất mới tiến hành sản xuất.
Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu là nhằm xác định chủng loại mặt hàng, kích
cỡ, mẫu mã, công dụng, chất lượng, giá cả, thời vụ, những đặc điểm riêng của từng
loại mặt hàng.
Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng phải xác định được giá cả trong nước của hàng
hoá so với gia cả quốc tế. Sau khi đã tính đủ chi phí vào giá thu mua như chi phí thu
mua hàng, vận chuyển, bao gói, phân loại thì lợi nhuận thu về là bao nhiêu.
Cuối cùng, việc nghiên cứu nguồn hàng phải nắm được chính sách quản lý của
Nhà nước về mặt hàng đó. Mặt hàng đó có được phép xuất khẩu hoặc có chính sách
khuyến khích xuất khẩu hay không. Trong thực tế các chính sách này có thể thay đổi
do vậy, công tác dự báo có ý nghĩa hết sức quan trọng.
- Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu
Hệ thống thu mua bao gồm mạng lưới các đại lý, hệ thống kho hàng ở các địa
phương, các khu vực có mặt hàng thu mua. Hệ thống thu mua phải gắn với các phương
án vận chuyển hàng hoá, với điều kiện giao thông của các địa phương. Sự phối hợp
nhịp nhàng giữa thu mua và vận chuyển là cơ sở đảm bảo tiến độ thu mua và chất
lượng hàng hoá.
- Ký kết hợp đồng: Thông thường, các doanh nghiệp ngoại thương bằng các hoạt

động marketing của mình tìm được đối tác nước ngoài có nhu cầu về một mặt hàng
nào đó mà trong nước có khả năng sản xuất được rồi ký kết hợp đồng xuất khẩu với
họ sau đó mới giao dịch ký hợp đồng với các nhà sản xuất, các chân hàng để thực hiện
hợp đồng ngoại thương. Hai hợp đồng này có nhiều điều khoản giống nhau, hợp đồng
ngoại thương là cơ sở cho hợp đồng thu mua tạo nguồn.
Tuy nhiên trong buôn bán quốc tế không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng tìm
được khách hàng trước rồi mới tiến hành thu mua tạo nguồn nên các doanh nghiệp có
thể chủ động thu mua theo kế hoạch, đồng thời tiến hành tìm kiếm bạn hàng để tiêu

14


thụ hàng hoá.
- Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu: Sau khi ký kết hợp đồng với các chân
hàng và các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thượng phải lập kế hoạch thu mua,
tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện kế hoạch.
- Tiếp nhận, bảo quản và giao hàng cho xuất khẩu: Phần lớn các hàng hoá trước
khi xuất khẩu đều phải trải qua một số kho để phân loại, đóng gói hoặc đợi làm các thủ
tục xuất khẩu. Bảo quản hàng hoá nhằm giữ gìn hàng hoá đủ về số lượng, chất lượng
và giảm thiểu các hao hụt mất mát cho hàng xuất khẩu. Giao hàng là khâu cuối cùng,
khi giao hàng cần quan tâm tới quy cách thủ tục giao hàng và phải có đầy đủ giấy tờ,
hoá đơn hợp lệ.
2.3.4 Đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng
2.3.4.1 Các hình thức đàm phán
Đàm phán là việc bàn bạc trao đổi với nhau về các điều kiện mua bán giữa các
nhà doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thường có các hình
thức sau:
Đàm phán qua thư tín: ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến để
giao dịch giữa các nhà điều kiện xuất khẩu. Những cuộc tiếp xúc ban đầu thường qua
thư tín. Ngay cả sau này khi hai bên đã có điều kiện gặp gỡ trực tiếp thì việc duy trì

quan hệ cũng phải qua thư tín. Sử dụng thư tín để giao dịch đàm phán phải luôn nhớ
rằng thư là sứ giả của mình đến với khách hàng bởi vậy, viết thư, gửi thư cần thể hiện
tính lịch sự, chính xác, khẩn trương.
Đàm phán qua điện thoại: bằng hình thức này sẽ giảm bớt thời gian, giúp cho các
nhà kinh doanh tiến hành đàm phán khẩn trương, kịp thời cơ. Nhưng trao đổi qua
điện thoại không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận, quyết định nên sau khi
trao đổi bằng điện thoại cần có thủ tục xác nhận nội dung đã đàm phán.
Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: Đây là hình thức cẩn thận, có tác dụng đẩy
nhanh tốc độ giải quyết các vấn đề mà các bên cùng quan tâm tuy nhiên phương pháp
này rất tốn kém.
Các bước tiến hành đàm phán:
+ Bước 1: Chào hàng( phát giá )là lời đề nghị ký kết hợp đồng từ phía người bán
đưa ra. Trong buôn bán thì chào hàng là việc người xuất khẩu thể hiện ró ý định bán

15


hàng của mình. Tuỳ vào loại đơn chào hàng nào mà chúng có tính chất pháp lý khac
nhau.
+ Bước 2: Hoàn giá là một đề nghị mới do bên nhận chào hàng đưa ra sau khi đã
nhận được đơn chào hàng của bên kia nhưng không chấp nhận hoàn toàn giá chào
hàng. Khi hoàn giá thì coi như chào hàng trước đó bị huỷ bỏ. Trong kinh doanh quốc
tế, mỗi lần giao dịch thường phải qua nhiều lần hoàn giá mới đi đến kết thúc.
+ Bước 3: Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng mà
phía bên kia đưa ra, khi đó tiến hành ký kết hợp đồng.
+ Bước 4: Xác nhận: sau khi hai bên đã thoả thuận với nhau về điều kiện giao
dịch thì ghi lại tất cả những điều đã thoả thuận gửi cho bên kia. Đó là văn bản có chữ
ký của cả hai bên.
2.3.4.2 Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hóa
Sau khi các bên mua và bán tiến hành giao dịch, đàm phán có kết quả thì đi đến

lập và ký kết hợp đồng. Hợp đồng có quy định rõ ràng và đầy đủ quyền hạn và nghĩa
vụ của các bên tham gia.
Hợp đồng thể hiện bằng văn bản là hình thức bắt buộc đối với các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu của nước ta. Đây là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi
của cả hai bên và tránh được những biểu hiện không đồng nhất trong ngôn từ hay quan
niệm vì các đối tác tham gia thuộc các quốc tịch khác nhau.
Các điểm cần lưu ý khi ký kết hợp đồng:
- Hợp đồng cần trình bày rõ ràng, sáng sủa, nội dung phải phản ánh đúng, đầy đủ
các vấn đề đã thoả thuận.
- Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng là thứ ngôn ngữ phổ biến mà hai bên cùng
thông thạo.
- Chủ thể ký kết hợp đồng phải là người có đủ thẩm quyền ký kết.
- Hợp đồng nên đề cập đầy đủ các vấn đề về khiếu nại, trọng tài để giải quyết
tranh chấp nếu có tránh tình trạng tranh chấp kiện tụng kéo dài.
2.3.4.3 Thực hiện hợp đồng
Sau khi hợp đồng đã được ký kết thì đơn vị sản xuất kinh doanh xuất khẩu phải
thực hiện theo các quy định đã ký kết trong hợp đồng, tiến hành sắp xếp những phần
việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, ghi lại những diễn

16


biến kịp thời, những văn bản phát đi và nhận được để xử lý và giải quyết cụ thể. Đồng
thời phải đảm bảo được quyền lợi quốc gia và lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu như sau:

17


Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu như sau:

Sơ đồ 2.1: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Kiểm tra

Xin giấy

Chuẩn bị

Ký kết
HĐXK

Làm thủ tục hải

Giao hàng

Kiểm nghiệm

Mua bảo hiểm

Làmthủ tục thanh

Uỷ thác thuê tàu

Giải quyết

2.4 Các hình thức đẩy mạnh xuất khẩu
2.4.1 Các yếu tố thuộc về cung
Quy luật kinh tế trong kinh doanh là quy luật cung cầu. Với một doanh nghiệp
xuất khẩu điều đầu tiên phải chú trọng tới là khả năng cung ứng hàng hoá cho thị
trường, nhất là khi muốn thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Muốn
vậy doanh nghiệp phải tính đến việc mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư công nghệ, nâng

cao chất lượng hàng hoá, đa dạng hoá sản phẩm và cải tiến mẫu mã sản phẩm cũng
như giảm giá thành cho đảm bảo khả năng cạnh tranh.
Quy mô sản xuất
Khi mở rộng quy mô sản xuất, doanh nghiệp phải huy động sự đầu tư về vốn,
nhân lực, công nghệ. Doanh nghiệp cần tuyển thêm lao động quản lý cũng như lao
động trực tiếp sản xuất. Hai bộ phận này phải kết hợp với nhau tạo nên sự thống nhất
trong các khâu từ lập kế hoạch tới sản xuất. Tuy nhiên, có nguồn nhân lực tốt chưa đủ,
bên cạnh nguồn nhân lực một yếu tố rất quan trọng cho quy trình sản xuất sản phẩm là
trang thiết bị máy móc. Do đó, doanh nghiệp cần phải đầu tư vào trang thiết bị máy
móc nhà xưởng, nguyên vật liệu đầu vào. Có như vậy các doanh nghiệp mới tạo được
sự thống nhất trong nội bộ để phản ứng với những biến động trên thị trường mà sản

18


phẩm hiện đang và sẽ có mặt. Nhưng không có nghiã là mở rộng quy mô bằng mọi
cách.
Công nghệ sản xuất
Với vai trò ngày càng lớn, công nghệ sản xuất sẽ đem lại cho doanh nghiệp ưu
thế cạnh tranh so với các đối thủ khác. Công nghệ càng cao, càng hiện đại thì hiệu quả
sản xuất càng lớn. Công nghệ bao gồm bốn yếu tố: trang thiết bị, kỹ năng con người,
thông tin và tổ chức. Do vậy, muốn phát triển công nghệ doanh nghiệp phải phát triển
đồng đều trên tất cả các yếu tố, trong đó yếu tố con người được đánh gía là quan trọng
nhất: bởi vì con người đóng vai trò là trung tâm của sự phát triển và tạo ra sự liên kết
giữa các yếu tố.
Phát triển công nghệ được thực hiện bằng nhiều con đường như: tự nghiên cứu
và phát triển, nhận chuyển giao công nghệ, mua bán, cho tặng…Tuy nhiên, doanh
nghiệp cũng cần chú ý đến các thuộc tính của công nghệ như tính hệ thống, tính sinh
thể, tính đặc thù về mục tiêu và địa điểm, tính thông tin để phát triển công nghệ một
cách hợp lý mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp.Và đối với doanh nghiệp

xuất khẩu thị trường thế giới với nhiều đối thủ cạnh tranh doanh nghiệp cần đánh giá
được trình độ công nghệ sản xuất của họ và xác định được vị trí của mình trên thương
trường để có hướng phát triển công nghệ phù hợp với khả năng ( tức là sự hài hòa của
bốn yếu tố trang thiết bị, kĩ năng của con người, thông tin và tổ chức) nhưng lại đáp
ứng được một đoạn thị trường mục tiêu cho các sản phẩm đầu ra.
Hiện nay, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn lạc
hậu, nên phát triển công nghiệp chủ yếu qua con đường chuyển giao công nghệ. Ngay
cả khi nhận chuyển giao công nghệ, một số doanh nghiệp còn chưa đủ khả năng và
thông tin để đánh giá hết các thuộc tính của công nghệ. Ví dụ: đối với tính hệ thống,
hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng có trang thiết bị hiện đại là đã có
công nghệ hiện đại, nhưng họ đã lầm. Trang thiết bị hiện đại mà tài năng của con
người không được đáp ứng thì nó cũng chỉ là máy móc thiết bị chết mà thôi. Hay đối
với tính sinh thể, một số doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được công nghệ nhập
về đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống của nó nên thường hay nhập khẩu công
nghệ lạc hậu khiến Việt Nam trở thành bãi rác thải công nghiệp. Nhưng trong tình hình
kinh tế- xã hội, khoa học- kỹ thuật hiện nay của Việt Nam thì nhận chuyển giao công

19


nghệ vẫn là hướng đi chính để phát triển công nghệ cho các doanh nghiệp, chỉ có điều
là khi nhận chuyển giao công nghệ thì các doanh nghiệp phải chú ý đến các yếu tố và
các thuộc tính của công nghệ.
Chất lượng sản phẩm
Các doanh nghiệp xuất khẩu muốn thúc đẩy xuất khẩu thì phải tập trung vào việc
nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh với các sản phẩm của các nước
khác trên thế giới. Nâng cao chất lượng sản phẩm gắn liền với sự phát triển công nghệ
của doanh nghiệp, và đặc biệt là với yếu tố chi phí. Nâng cao chất lượng với chi phí tối
thiểu cho phép là biện pháp mà doanh nghiệp nào cũng muốn nhưng để thực hiện nó là
cả một vấn đề.

Hiện nay hướng đi cho các doang nghiệp xuất khẩu là áp dụng hệ thống tiêu
chuẩn chất lượng quốc tế để khẳng định chất lượng sản phẩm của mình và kiểm soát
chặt chẽ chi phí sản xuất để đưa ra giá cả hợp lý cho sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của người tiêu dùng
Đa dạng hoá mặt hàng
Để đẩy mạnh công tác này các doanh nghiệp chú trọng nhất đến năng lực của đội
ngũ thiết kế mẫu mã sản phẩm. Do vậy, đầu tư có hiệu quả nhất đối với các doanh
nghiệp là đào tạo và phát triển đội ngũ thiết kế kết hợp với công tác điều tra, nghiên
cứu thị trường, xác định xu hướng tiêu dùng để tạo ra được sản phẩm làm hài lòng
khách hàng.
Ngoài các giải pháp trên, các doanh nghiệp xuất khẩu nên chú ý dặc biệt thời
điểm giao hàng. Doanh nghiệp thực hiện điều này sẽ tạo uy tín cho khách hàng, tạo
mối quan hệ lâu dài và mối quan hệ làm ăn.
2.4.2 Các yếu tố thuộc về cầu
Nghiên cứu mở rộng thị trường
Môi trường kinh doanh quốc tế ngày càng cạnh tranh gay gắt. Vì vậy, các doanh
nghiệp cần thực hiện các nghiên cứu trên thị trường nước ngoài một cách thận trọng và
tỷ mỷ để đưa ra các quyết định chính xác hơn. Thêm vào đó nó còn giúp các nhà kinh
doanh hoạch định các chiến lược Marketing khi đã hiểu rõ hơn về nhu cầu của thị
trường hiện tại cũng như tương lai.

20


Khi nghiên cứu thị truờng nước ngoài các doanh nghiệp cần quan tâm đến các
yếu tố: quy mô thị trường, tốc độ tăng trưởng, sức mạnh thị trường, khả năng tiêu
dùng, kênh phân phối, các vấn đề về luật pháp liên quan đến nhập khẩu hàng hoá vào
thị trường đó. Qua đó, doanh nghiệp xác định đâu là thị trường trọng điểm mà doanh
nghiệp nên tập trung mở rộng, những khó khăn và thuận lợi mà doanh nghiệp gặp phải
khi kinh doanh. Tiếp đó, doanh nghiệp cần xem xét cụ thể các vấn đề như: đối tượng

phục vụ, đặc điểm tiêu dùng của thị trường này, khả năng tiêu dùng của các đối tượng,
các đối thủ cạnh tranh… để xác định được đoạn thị trường mục tiêu trong thị trường
trọng điểm.
Để có được các kết luận trên các doanh nghiệp cần có những thông tin. Thông tin
có thể được tổng hợp từ nguồn thông tin sơ cấp và thứ cấp. Thông tin thứ cấp là những
thông tin đã được công bố. Các doanh nghiệp có thể thu thập thông tin này từ:
- Các tổ chức quốc tế như niên giám thống kê về thương mại quốc tế do liên hợp
quốc tế phát hành.
- Các tổ chức chính phủ thường cung cấp các thông tin về quy định xuất nhập
khẩu, các tiêu chuẩn chất lượng, quy mô thị trường.
- Các hiệp hội thương mại và thương nghiệp như hiệp hội Pasta,Onion phát hành
các ấn phẩm nhằm cập ĐNA các sự kiện giúp các nhà kinh doanh quốc tế tìm kiếm cơ
hội kinh doanh và né tránh rủi ro.
- Các tổ chức dịch vụ cung cấp thông tin dịch vụ về văn hoá và các điều kiện về
tài chính. Internet và trang web cập ĐNA các thông tin về thị trường như: giá cả sản
phẩm, mặt hàng, các chiến lược marketing.
Thông tin sơ cấp là những thông tin chưa được công bố. Các nhà kinh doanh sử
dụng loại thông tin này để hiểu sâu hơn về thị trường mà thông tin thứ cấp mang lại.
Các doanh nghiệp có được thông tin này bằng cách tự thu thập hoặc thuê các
thông tin điều tra thị trường.
Các phương pháp thu thập thông tin sơ cấp:
- Qua hội chợ và các phái đoàn thương mại để đánh giá được về đối thủ cạnh
tranh, sản phẩm và xác định được cơ hội kinh doanh.
- Phỏng vấn trực tiếp và phỏng vấn nhóm cho phép các doanh nghiệp đánh giá
được hành vi, thái độ của người tiêu dùng.

21


- Các cuộc điều tra: là nghiên cứu thông tin về người tiêu dùng thông qua việc sử

dụng bảng câu hỏi viết. Phương pháp này cho phép thu thập được khối lượng thông tin
lớn.
- Quan sát môi trường:
Là quá trình liên tục thu thập, phân tích, xử lý thông tin cho các mục tiêu chiến
lược và chiến thuật. Nó cho phép thu thập các thông tin chi tiết về môi trường kinh
doanh mà công ty đang hoạt động hay sắp thâm nhập. Đây là phương pháp phức tạp
nhất vì thông tin được cập ĐNA liên tục nên giúp chô doanh nghiệp nhanh chóng tìm
kiếm được cơ hội kinh doanh và phát hiện rỉu ro sớm để né tránh rủi ro thành công.
Xúc tiến, quảng bá về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài
Các biện pháp mà doanh nghiệp thường áp dụng để tiến hành xúc tiến, quảng bá
sản phẩm của mình:
- Tham gia các hội chợ, triển lãm.
- Quảng cáo sản phẩm, hình ảnh qua các phương tiện như: qua báo chí, truyền
hình, qua mạng.
- Tài trợ cho các hoạt động xã hội.
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về sản phẩm, về doanh nghiệp.
- Khuyến mại sản phẩm và tổ chức dùng thử sản phẩm tại nơi công cộng hoặc tại
gia đình.
- Thông qua hệ thống kênh phân phối nước sở tại để quảng bá sản phẩm và hình
ảnh của mình.
Có thể nói hoạt động xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm xây dựng thương
hiệu, quảng bá thương hiệu của công ty trên thị trường thế giới. Điều này giúp nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khi môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt.
2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu
2.5.1 Hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước
Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, tình hình biến động kinh tế xã hội, chính trị
khác nhau mà mỗi quốc gia sẽ theo đuổi một chính sách riêng để đạt mục tiêu chung là
phát triển đất nước. Bởi vậy, chính sách quản lý của từng quốc gia có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó.


22


Khi quốc gia thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu thì quốc gia đó sẽ thực
hiện tất cả các biện pháp để có thể thúc đẩy xuất khẩu của quốc gia. Ngược lại, khi
quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ nền kinh tế, hạn chế nhập khẩu thì hoạt động
xuất khẩu cũng sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Mặt khác, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cũng cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động xuất khẩu. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, các thủ tục hành
chính đơn giản, gọn nhẹ không rườm rà, phức tạp thì các doanh nghiệp có thể tận dụng
được nhiều cơ hội hơn trong kinh doanh và xuất khẩu. Thêm vào đó, khi hệ thống luật
pháp ổn định rõ ràng tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời tiếp thu được
những công nghệ tiên tiến, phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu.
2.5.2 Các yếu tố đầu vào sản xuất, nguyên liệu, vốn , lao động
Các yếu tố này có mối quan hệ tỷ lệ thuận với khả năng xuất khẩu của một quốc
gia. Khi tiềm lực các yếu tố này càng mạnh thì khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc
gia này sang thị trường nước ngoài càng cao, sản phẩm của quốc gia này càng dễ dàng
thâm nhập vào thị trường nước ngoài và ngược lại. Ví dụ, khi một quốc gia sản xuất
hàng xuất khẩu, nguyên liệu để sản xuất phải nhập khẩu từ nước khác sẽ dẫn đến tình
trạng khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia đó sẽ bị phụ thuộc vào tình hình biến
động nguyên liệu đầu vào của thị trường khác. Khi giá nguyên liệu đầu vào tăng làm
cho giá sản phẩm xuất khẩu tăng, dẫn đến sức cạnh tranh về giá của sản phẩm đó trên
thị trường nước ngoài sẽ giảm, làm hạn chế xuất khẩu mặt hàng đó.
2.5.3 Tý giá hối đoái
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên có tác động khuyến khích xuất khẩu, vì lúc này, đồng
nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ nên cùng một lượng ngoại tệ có thể
có thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh tranh hơn trên
thị trường quốc tế. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ có tác động hạn chế
xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít đồng nội tệ

hơn nên không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư nhiều cho hoạt động xuất khẩu.
2.5.4 Sức cạnh tranh hàng hóa
Khi sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường nước ngoài lớn, đáp ứng được những
nhu cầu và yêu cầu của người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài thì thì thị phần của

23


hàng hoá đó sẽ chiếm rất lớn ở nước ngoài, nhiều hơn so với các hàng hoá cùng loại
của nước khác, sẽ thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.
Nếu sức cạnh tranh của hàng hoá đó càng tăng dẫn đến thị phần của hàng hoá đó
trên thị trường nước ngoài càng lớn sẽ tất yếu dẫn đến xuất khẩu hàng hoá nhiều hơn
sang thị trường này.
2.5.5 Nhu cầu của thị trường
Cho dù là sản xuất cho tiêu dùng trong nước hay sản xuất để xuất khẩu, nhu cầu
vẫn luôn là yếu tố quyết định đến sản lượng. Khi nhu cầu về một hàng hoá nào đó của
một quốc gia trên thị trường nước ngoài tăng thì các nhà sản xuất sẽ tập trung mở rộng
quy mô sản xuất để có thể sản xuất ra nhiều hàng hoá để đáp ứng nhu cầu, tất nhiên sẽ
khuyến khích xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.
Ngược lại, nếu nhu cầu về hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường
nước ngoài giảm sẽ không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư để mở rộng quy mô
sản xuất, thậm chí còn thu hẹp quy mô sản xuất, dẫn đến hạn chế xuất khẩu hàng hoá
đó.
2.5.6 Yếu tố khác
Ngoài các yếu tố cơ bản tác động tới xuất khẩu như trên, còn có rất nhiều các yếu
tố khác ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu. Sau đây là một số yếu tố khác:
Một là, trình độ quản lý, nếu nhà quản lý không có trình độ hay trình độ kém thì
không thể nhận ra được tiềm năng của thị trường, từ đó sẽ không thực hiện các biện
pháp để nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường đó.
Hai là, quan hệ giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu: Quan hệ này nếu tiến

triển tốt đẹp, hợp tác hai bên cùng có lợi thì chắc chắn nước này sẽ giành cho nước kia
những ưu đãi về thuế nhập khẩu, hạn ngạch… thông qua các hiệp định song phương
và đa phương, khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá giữa hai quốc gia sẽ diễn ra dễ
dàng thuận lợi, tạo được sức cạnh tranh của hàng hoá nước này từ đó thúc đẩy xuất
khẩu giữa hai quốc gia. Ngược lại, nếu quan hệ giữa hai quốc gia không tốt, thì hai bên
sẽ không dành cho nhau những ưu đãi, mà còn tạo ra những hạn chế để nước này
không thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước kia, dẫn đến hạn chế xuất khẩu giữa
hai nước. Nếu một trong hai nước có nền kinh tế phát triển mạnh trên thế giới thì đôi

24


khi còn có thể tạo ra những cấm vận để nước còn lại không những không thể xuất khẩu
sang quốc gia mình mà còn hạn chế cả xuất khẩu sang quốc gia khác.
Ngoài ra, những biến động tình hình kinh tế - xã hội như khủng hoảng, đình
công,… sẽ làm cho nền kinh tế trong nước phải chịu những tổn thất, ảnh hưởng không
nhỏ đến sản xuất trong nước. Do vậy cũng ảnh hưởng gián tiếp đến xuất khẩu ra nước
ngoài. Hơn nữa, lúc này quốc gia đang gặp phải những biến động vì vậy mọi giải pháp
trước mắt đều tập trung nhằm hạn chế ảnh hưởng của những biến động này tới nền
kinh tế, nên hoạt động xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn, rủi ro hơn.
2.6 Phân định nội dung nghiên cứu
*Các yếu tố thuộc về cung
Quy mô sản xuất
Quy mô sản xuất của doanh nghiệp là khả năng sản xuất ra số lượng hàng hoá
trong giới hạn khả năng về vốn, nhân lực và công nghệ của doanh nghiệp. Đôi khi,
doanh nghiệp chưa có quy mô sản xuất phù hợp với năng lực sản xuất. Do vậy, trước
khi muốn thúc đẩy xuất khẩu thì doanh nghiệp phải tận dụng tối đa năng lực sản xuất
của mình để mở rộng quy mô sản xuất, làm gia tăng sản lượng sản xuất cung ứng cho
nhu cầu thị trường.
Công nghệ sản xuất

Sự phát triển về khoa học kỹ thuật kéo theo sự phát triển về công nghệ đã đưa
loài người có những thành tựu vượt bậc trong tất cả các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực
sản xuất. Công nghệ sản xuất ngày càng đang đóng vai trò quan trọng trong quá trình
sản xuất trực tiếp của các quốc gia. Công nghệ sản xuất được hiểu là tất cả các yếu tố
dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra.
Chất lượng sản phẩm
Chất lượng là một trong các yếu tố quan trọng tạo lên ưu thế cạnh tranh của sản
phẩm. Chất lượng sản phẩm cao phải đặt trong mối quan hệ với giá cả, mẫu mã và các
các dịch vụ của doanh nghiệp khi kinh doanh trên thị trường. Sản phẩm có chất lượng
cao, giá cả, mẫu mã phù hợp với thị trường mục tiêu sẽ tạo ra ưu thế, uy tín riêng của
doanh nghiệp về sản phẩm của mình.
Đa dạng hoá mặt hàng

25


×