Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Những rào cản đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.48 KB, 10 trang )



chính sách & thị trường tài chính- tiền tệ

Những rào cản đối với các doanh nghiệp
Việt Nam khi tham gia vào chuỗi giá trị
dệt may toàn cầu
Ngô Dương Minh
Ngày nhận: 28/09/2017

Ngày nhận bản sửa: 03/11/2017

Ngày duyệt đăng: 22/03/2018

Dệt may Việt Nam là một trong những ngành đóng vai trò quan trọng
trong tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và giải quyết việc làm
cho người dân Việt Nam. Nhưng, một thực tế là ngành dệt may của
nước ta đơn thuần chỉ gia công cho nước ngoài, trong khi hầu hết
nguyên phụ liệu của ngành dệt may đều phải nhập khẩu khiến cho
ngành Dệt may Việt Nam khó phát triển bền vững. Vậy, doanh nghiệp
Việt Nam đang đứng ở đâu giữa thị trường dệt may rộng lớn cùng
hàng loạt những tên tuổi như Mỹ, Trung Quốc, EU... Bài viết sẽ tập
trung vào việc định vị dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị dệt may
toàn cầu, cũng như chỉ rõ những rào cản gia nhập chuỗi của các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Từ khóa: dệt may, chuỗi giá trị, doanh nghiệp Việt Nam, toàn cầu
hóa

1. Đặt vấn đề
rong bối cảnh
toàn cầu hóa


ngày càng phát
triển mạnh,
mỗi nền kinh
tế quốc gia trở thành một bộ
phận không tách rời của kinh
tế toàn cầu, và có xu hướng bị
chi phối bởi các tập đoàn kinh
tế với mạng lưới công ty con,
chi nhánh dày đặc được đặt
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X

tại nhiều quốc gia khác nhau.
Trên phạm vi quốc tế, các giá
trị của một ngành kinh doanh
nào đó được hình thành từ
những công đoạn khác nhau
tại nhiều quốc gia trên thế giới
sẽ trở thành giá trị gia tăng
toàn cầu. Theo cách nhìn này,
các công ty đa quốc gia sẽ
đóng vai trò như những mắt
xích quan trọng và chi phối
sự phát triển của chuỗi giá trị.
Việc phân tích hoạt động kinh

34

doanh của doanh nghiệp theo
quan điểm chuỗi giá trị chính

là một phương pháp hữu hiệu
để đánh giá tốt nhất năng lực
cạnh tranh cũng như vai trò và
phạm vi ảnh hưởng của quốc
gia trong chuỗi giá trị toàn
cầu.
Ở Việt Nam, dệt may là một
trong những ngành công
nghiệp chủ lực và được chú
trọng phát triển, nhằm phục vụ
cho quá trình công nghiệp hóa,
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 190- Tháng 3. 2018


CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

hiện đại hóa đất nước. Trong
suốt thời gian Việt Nam tham
gia vào sân chơi toàn cầu,
ngành dệt may đã tận dụng
cơ hội và phần nào chuyển
hóa thách thức thành những
kết quả đáng ghi nhận của
ngành. Cụ thể, dệt may hiện là
mặt hàng xuất khẩu hàng đầu
của Việt Nam và có tốc độ
tăng trưởng cao qua các năm.
Hàng dệt may của Việt Nam
đã được xuất khẩu đi hơn 180

nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới và đã có mặt ở hầu hết
những thị trường lớn như Nhật
Bản, EU, Bắc Mỹ, các nước
Đông Âu, Trung Đông… Sự
đón nhận của các thị trường
này chứng tỏ hàng dệt may
của Việt Nam bước đầu đã có
khả năng cạnh tranh về giá cả
và chất lượng trên thị trường
quốc tế. Tuy nhiên, nếu phân
tích sâu hơn thì dệt may Việt
Nam vẫn có quá ít lợi thế và
quá nhiều bất lợi cho sự phát
triển bền vững, đặc biệt là
trong khả năng tiếp cận và
tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu. Nhìn chung, các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam
vẫn chủ yếu tập trung vào các
khâu gia công, cắt may, trong
khi vẫn chưa thể tham gia vào
những khâu tạo ra giá trị gia
tăng cao hơn trong chuỗi giá
trị.
Xuất phát từ thực tế đó, trên
cơ sở lý thuyết về chuỗi giá
trị dệt may toàn cầu, bài viết
tập trung làm rõ 2 vấn đề: (1)
Vị trí của các doanh nghiệp

dệt may Việt Nam trong chuỗi
giá trị toàn cầu, và (2) Những
rào cản nào ngăn dệt may Việt
Nam gia nhập sâu hơn vào
chuỗi giá trị dệt may toàn cầu.

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

2. Lý thuyết về chuỗi giá trị
dệt may toàn cầu
Chuỗi giá trị có thể được thực
hiện trong phạm vi một khu
vực địa lý hoặc trải rộng trong
phạm vi nhiều quốc gia và trở
thành chuỗi giá trị toàn cầu
(global value chain). Điều
này có nghĩa là, các doanh
nghiệp từ nhiều quốc gia trên
thế giới sẽ đóng vai trò như
những mắt xích quan trọng và
có thể chi phối sự phát triển
của chuỗi giá trị. Theo tài liệu
nghiên cứu về chuỗi giá trị
của Kaplinsky (2000), chuỗi
giá trị bao gồm các hoạt động
cần thiết của một chu trình sản
xuất sản phẩm hoặc dịch vụ kể
từ giai đoạn nghiên cứu sáng
chế, qua các giai đoạn khác
nhau của quá trình sản xuất,

phân phối đến người tiêu dùng
cuối cùng, cũng như xử lý rác
thải sau khi sử dụng.
Từ lý thuyết về chuỗi giá trị,
Gereffi (2001) đã xây dựng
lý thuyết về chuỗi cung ứng,
và cho rằng có hai yếu tố liên
quan đến việc tạo ra giá trị
hay quyết định dạng chuỗi
cung ứng của một ngành:
- Thứ nhất là chuỗi cung ứng
do phía cung tạo ra. Đây là
những chuỗi hàng hóa mà
trong đó tác nhân chính các
nhà sản xuất lớn, thường là
những nhà sản xuất xuyên
quốc gia đóng vai trò trung
tâm trong việc phối hợp các
mạng lưới sản xuất quốc tế
(bao gồm cả những liên kết
về phía trước và phía sau
chuỗi giá trị). Các ngành công
nghiệp thâm dụng vốn và công
nghệ như sản xuất xe hơi, máy
bay, điện tử là đặc trưng của

chuỗi cung ứng do phía cung
quyết định.
- Thứ hai là chuỗi cung ứng
do phía cầu hay người mua

quyết định. Đây là đặc trưng
của những ngành công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng thâm
dụng lao động như ngành may
mặc, giày dép, và các hàng
thủ công khác. Các nhà bán
lẻ lớn, các nhà buôn và các
nhà sản xuất có thương hiệu
là những tác nhân chính đóng
vai trò cốt yếu trong việc hình
thành các mạng lưới sản xuất
được phân cấp tại nhiều quốc
gia xuất khẩu. Đặc điểm chính
của chuỗi giá trị do người mua
quyết định là sự hợp nhất theo
mạng lưới để thúc đẩy sự phát
triển của các khu chế xuất và
thực hiện thuê gia công toàn
cầu của các nhà bán lẻ.
Ngành dệt may là một minh
họa kinh điển của chuỗi giá
trị do người mua quyết định.
Sự dễ dàng trong việc thành
lập các doanh nghiệp dệt may,
cùng với sự phổ biến của chủ
nghĩa bảo hộ của các nước
phát triển trong ngành này, đã
dẫn tới sự hình thành đa dạng
của các nhà xuất khẩu tại các
quốc gia đang phát triển. Việc

tạo ra sản phẩm cuối cùng
phải qua nhiều công đoạn và
mỗi công đoạn bao gồm nhiều
khác biệt về các yếu tố như
vị trí địa lý, kỹ năng và điều
kiện lao động, công nghệ,
quy mô và loại hình doanh
nghiệp. Những đặc điểm này
cũng ảnh hưởng đến việc phân
phối tiềm năng và lợi nhuận
trong chuỗi giá trị. Các nhà
sản xuất với thương hiệu nổi
tiếng, các nhà buôn, nhà bán
lẻ lớn đóng vai trò then chốt

Số 190- Tháng 3. 2018

35


CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
Hình 1. Giá trị gia tăng đóng góp vào sản phẩm trong chuỗi
giá trị dệt may

Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam (2010)

trong việc thiết lập mạng lưới
sản xuất và định hình việc tiêu
thụ hàng loạt thông qua các
thương hiệu mạnh (Gereffi,

2001). Các nhà nghiên cứu đã
biểu diễn chuỗi giá trị dệt may
thế giới hiện nay gồm 5 mắt
xích chính (Hình 1).
Mắt xích 1- Thiết kế: Công
đoạn thiết kế là một mắt xích
quan trọng trong chuỗi giá
trị của hàng may xuất khẩu,
bởi vì kiểu dáng và mẫu mã
sẽ quyết định giá trị của sản
phẩm. Đây cũng là khâu có tỷ
suất lợi nhuận cao trong chuỗi
giá trị và rất thâm dụng tri
thức. Các nước đi trước trong
ngành công nghiệp dệt may,
sau khi đã dịch chuyển hoạt
động sản xuất sang các nước
đi sau, thường chỉ tập trung
vào khâu nghiên cứu và thiết
kế sản phẩm mới nhằm tạo ra
những thương hiệu nổi tiếng
cũng như để đạt được tỷ suất
lợi nhuận cao nhất. Việc cạnh
tranh thương hiệu đang rất
khốc liệt trên thị trường dệt
may thế giới, các thương hiệu

36 Số 190- Tháng 3. 2018

cạnh tranh nhau bằng các mẫu

thiết kế đẹp, sáng tạo. Yếu
tố quan trọng để thâm nhập
và trụ vững được ở mắt xích
này đòi hỏi các doanh nghiệp
cần có các nhà thiết kế có khả
năng nắm được xu hướng, thị
hiếu thời trang của người mua
toàn cầu.
Mắt xích 2- Sản xuất nguyên
phụ liệu: Đây là mắt xích
quan trọng hỗ trợ cho ngành
may mặc phát triển và là khâu
thâm dụng đất đai và vốn. Đối
với hàng may mặc, giá trị của
phần nguyên phụ liệu chiếm
tỷ trọng lớn và quyết định đến
chất lượng sản phẩm. Nguyên
phụ liệu trong ngành dệt may
thường chia thành hai phần:
nguyên liệu chính và phụ liệu.
Nguyên liệu chính là thành
phần chính tạo nên sản phẩm
may mặc, chính là các loại
vải. Phụ liệu là các vật liệu
đóng vai trò liên kết nguyên
liệu, tạo thẩm mỹ cho một sản
phẩm may mặc.
Mắt xích 3- Cắt & May: Đây
là mắt xích thâm dụng lao


động nhất nhưng lại có tỉ suất
lợi nhuận thấp nhất. May là
khâu mà các nước mới gia
nhập ngành thường chọn để
thâm nhập đầu tiên vì nó
không đòi hỏi đầu tư cao về
công nghệ và thâm dụng lao
động. Những nước đang tham
gia ở khâu này thường thực
hiện việc gia công lại cho
các nước gia nhập trước, đây
chính là đặc điểm chung của
khâu sản xuất trong ngành
dệt may thế giới. Đối với các
doanh nghiệp tham gia hoạt
động may, tỷ lệ giá trị thu về
trong phân khúc may cũng sẽ
khác nhau tùy theo phương
thức sản xuất và xuất khẩu là
CMT, FOB, ODM hay OBM.
Mắt xích 4- Mạng lưới xuất
khẩu: Đây là khâu thâm dụng
tri thức, gồm các công ty may
mặc có thương hiệu, các văn
phòng mua hàng, và các công
ty thương mại của các nước.
Một trong những đặc trưng
đáng lưu ý nhất của chuỗi
dệt may do người mua quyết
định là sự tạo ra các nhà buôn

với các nhãn hiệu nổi tiếng,
nhưng không thực hiện bất cứ
việc sản xuất nào. Các công
ty này đóng vai trò trung gian
kết hợp chuỗi cung ứng giữa
các nhà may mặc, các nhà
thầu phụ với các nhà bán lẻ
toàn cầu.
Mắt xích 5- Thương mại hóa:
Mắt xích này bao gồm mạng
lưới marketing và phân phối
sản phẩm, đây cũng là khâu
thâm dụng tri thức. Các nhà
bán lẻ nổi tiếng trên thế giới
đang nắm giữ khâu này và thu
được nguồn lợi nhuận rất lớn.
Đây là mắt xích có suất sinh
lợi cao nhất, do các công ty

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng


CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

lớn trên thế giới nắm giữ và
họ thường tạo ra các rào cản
gia nhập ngành nên các quốc
gia mới gia nhập chuỗi giá trị
rất khó để thâm nhập được
khâu này.


về giá trị gia tăng trong chuỗi
giá trị theo mô hình đường
cong nụ cười thì đây là khâu
sẽ cho lợi nhuận cao, kéo theo
đó nâng giá trị gia tăng trong
các mặt hàng dệt may xuất
khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên
khâu nghiên cứu và thiết kế
sản phẩm lại là khâu yếu nhất
của các doanh nghiệp Việt
Nam. Đa phần các công đoạn
thiết kế cho các sản phẩm may
ở nước ta được thực hiện tại
những nước có ngành công
nghiệp thời trang phát triển
như Anh, Pháp, Mỹ, Hồng
Kông… Sau đó, các mẫu thiết
kế được chuyển về Việt Nam,
các công ty may của nước ta
chỉ gia công theo đúng mẫu
mã đơn đặt hàng.
Mặc dù chưa đảm nhận được
công việc thiết kế nhưng
trong thời gian qua, đã có
một số nhà sản xuất của Việt
Nam cố gắng xây dựng và
đưa thương hiệu của mình
vào sản phẩm xuất khẩu như
May Phương Đông xuất khẩu

sản phẩm F-House, May Việt
Tiến xuất khẩu San Sciaro
và Manhattan, Công ty Thời
trang Việt Nam với thuơng
hiệu Nino Maxx, Công ty

3. Định vị dệt may Việt Nam
trong chuỗi giá trị toàn cầu
Tiếp cận và tham gia vào
những khâu tạo ra giá trị gia
tăng cao trong chuỗi giá trị
hay chuỗi cung ứng toàn cầu
là một trong những hướng
đi mới và bền vững cho các
ngành sản xuất tại các quốc
gia hiện nay. Chiếm từ 4%5% thị phần dệt may toàn cầu,
ngành dệt may của Việt Nam
đã góp phần tạo ra việc làm và
mang lại kim ngạch xuất khẩu
cao. Tuy nhiên, chỗ đứng
của Việt Nam hiện nay trong
chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
là khâu cắt may, khâu tạo ra
giá trị gia tăng thấp nhất trong
chuỗi giá trị.
Đi sâu hơn vào chuỗi giá trị
dệt may toàn cầu, mức độ
tham gia của Việt Nam trong
các mắt của chuỗi giá trị cụ
thể như sau:

Khâu thiết kế: Theo lý thuyết

Scavi có Corel... Tuy nhiên,
các thương hiệu xuất khẩu
của Việt Nam cũng mới chỉ
đang ở giai đoạn thăm dò thị
trường. Đối với hàng may
xuất khẩu, các doanh nghiệp
của Việt Nam phải sản xuất
theo mẫu thiết kế của những
người đặt hàng nước ngoài,
giá trị gia tăng từ khâu thiết
kế thời trang lại thuộc về các
hãng may mặc nước ngoài
khiến cho giá trị xuất khẩu
của hàng dệt may Việt Nam
rất hạn chế.
Khâu sản xuất nguyên phụ
liệu: Đối với công đoạn sản
xuất nguyên phụ liệu, một
kịch bản tương tự lại diễn ra
đối với ngành may xuất khẩu
Việt Nam, dù cho tình hình có
khả quan hơn đôi chút.
Hiện nay, Việt Nam mới chỉ
cung cấp được 0,3% nhu cầu
về bông, 40% nhu cầu xơ,
còn lại là phải nhập khẩu từ
Hoa Kỳ, Trung Quốc và Đài
Loan... Sản lượng sợi đạt 1,4

triệu tấn/năm nhưng hơn 70%
trong đó là xuất khẩu; mặt
khác lại phải nhập khẩu gần
0,1 triệu tấn sợi chỉ số cao
từ Trung Quốc, Hàn Quốc,
Đài Loan… Khâu dệt vải tạo

Bảng 1. Số liệu xuất nhập khẩu ngành dệt may
Năm

2014

2015

2016

Đơn vị: tỷ USD
8 tháng đầu
năm 2017

Nhập khẩu bông các loại

1,443

1,623

1,7

1,63


Nhập khẩu xơ, sợi dệt các loại

1,558

1,519

1,6

1,17

Nhập khẩu vải các loại

9,423

10,154

10,5

7,35

Nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may

4,689

5,003

5,1

3,63


20,911

22,802

23,8

16,86

81,83% 80,25% 79,41%

81,73%

Kim ngạch xuất khẩu dệt may
Tỷ trọng nguyên phụ liệu đầu vào trên kim ngạch xuất khẩu

Nguồn: Tổng cục Hải quan (2014, 2015, 2017) và Bộ Công thương (2016)

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

Số 190- Tháng 3. 2018

37


CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

Bảng 2. Các phương thức xuất khẩu chính trong ngành dệt may Việt Nam
Phương thức
CMT (Cut- MakeTrim)


Nội dung

Tỷ lệ

Người mua cung cấp cho doanh nghiệp gia công toàn bộ đầu vào để sản
xuất sản phẩm bao gồm: nguyên liệu, vận chuyển, mẫu thiết kế và các yêu 65%
cầu cụ thể. Nhà sản xuất chỉ thực hiện việc cắt may và hoàn thiện sản phẩm

OEM/FOB (Original
Các doanh nghiệp thực hiện theo phương thức này sẽ thu mua nguyên liệu
Equipment
đầu vào từ một nhóm các nhà cung cấp do khách mua chỉ định.
Manufacturing) cấp 1
25%
Các doanh nghiệp thực hiện theo phương thức này sẽ nhận mẫu thiết kế sản
OEM/FOB cấp 2
phẩm từ khách mua nước ngoài và chịu trách nhiệm tìm nguồn nguyên liệu,
sản xuất và vận chuyển nguyên liệu và thành phẩm tới cảng của khách mua.
ODM (Original
Đây là phương thức sản xuất xuất khẩu bao gồm khâu thiết kế và cả quá
design
trình sản xuất từ thu mua vải và nguyên liệu, cắt, may, hoàn tất, đóng gói và 9%
Manufacturing)
vận chuyển.
Đây là phương thức sản xuất được cải tiến dựa trên hình thức ODM, song ở
OBM (Original brand
phương thức này các hãng sản xuất tự thiết kế và ký các hợp đồng cung cấp 1%
Manufacturing)
hàng hóa trong và ngoài nước cho thương hiệu riêng của mình.
Nguồn: Bộ Công thương (2016)


ra khoảng 2,8 tỉ mét vải/năm
(chiếm 30% nhu cầu), vẫn
phải nhập khẩu 6,1 tỷ mét vải
từ các nước như Trung Quốc,
Hàn Quốc, Đài Loan là những
nước không tham gia các Hiệp
định thương mại tự do lớn như
TPP, EVFTA, VJEPA (chiếm
hơn 70%). Về phụ liệu may,
trong nước hiện đã có các
cơ sở sản xuất một số chủng
loại phụ liệu chính như chỉ
may, bông tấm, mex dính, cúc
nhựa, khóa kéo, băng chun,
nhãn mác, bao bì... nhưng
cũng chỉ đáp ứng được một
phần nhu cầu của thị trường
trong nước, phần còn lại vẫn
phải nhập khẩu.
Như vậy, dệt may xuất khẩu lệ
thuộc lớn vào nguồn nguyên,
phụ liệu nhập khẩu, mà chủ
yếu không phải từ các nước
ký các FTA với các thị trường
xuất khẩu chủ lực của ngành
dệt may Việt Nam. Việc
không chủ động được nguyên,
phụ liệu trong nước, phải phụ
thuộc vào các nhà cung cấp


38 Số 190- Tháng 3. 2018

nước ngoài đã làm hạn chế
khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp dệt may Việt
Nam, khiến giá trị gia tăng
trong sản phẩm dệt may còn
thấp.
Qua đó, có thể thấy rằng cả
một ngành công nghiệp dệt
may Việt Nam gần như hoàn
toàn phụ thuộc vào nước
ngoài. Do quá phụ thuộc vào
nguyên liệu nhập khẩu, nên
mỗi khi giá nguyên liệu tăng,
lập tức ảnh hưởng đến giá trị
gia tăng của chuỗi giá trị xuất
khẩu dệt may của Việt Nam.
Khâu cắt may và xuất khẩu:
Ngành dệt may Việt Nam
hiện nay gần như chỉ tham gia
vào khâu cắt may sản phẩm,
được đánh giá là tạo ra giá trị
gia tăng thấp nhất. Xuất khẩu
tuy có tạo ra giá trị gia tăng
nhưng giá trị này chỉ cao khi
tự thiết kế, sản xuất và bán,
trong khi các doanh nghiệp
Việt Nam chủ yếu là xuất

khẩu gia công. Các phương
thức may và xuất khẩu của

Việt Nam hiện nay thể hiện ở
Bảng 2.
Có thể thấy phương thức
thực hiện chủ yếu là CMT
(gia công xuất khẩu). Toàn
bộ khâu này (cắt may, hoàn
thiện, đóng gói, vận chuyển...)
chiếm giá trị 5- 7% trong
chuỗi giá trị toàn cầu (bao
gồm cả các thủ tục xuất nhập
khẩu). Vì thế, tuy sản phẩm
dệt may của Việt Nam được
xuất đi nhiều nơi hay Việt
Nam có tên trong top 10 nước
xuất khẩu dệt may lớn nhất
thế giới nhưng giá trị thu về
rất thấp. Nội dung mối quan
hệ này được tóm tắt trong
Bảng 3.
Bên cạnh đó, chính vì Việt
Nam chỉ xuất khẩu dưới
phương thức CMT hoặc FOB
1 nên những doanh nghiệp
may xuất khẩu của Việt Nam
không chịu rủi ro trong quá
trình xuất khẩu, đương nhiên
là mức giá xuất khẩu, theo đó

cũng thấp hơn nhiều. Nghiệp
vụ xuất khẩu của những doanh

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng


CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

Bảng 3. Tóm tắt quan hệ gia công xuất khẩu
Chủ thể nước ngoài

Chủ thể trong nước

Đặt yêu cầu về loại mặt hàng, sản lượng, yêu cầu Cân đối khả năng sản xuất (máy móc thiết bị và lực
chất lượng, chi phí gia công, thời hạn giao hàng và lượng lao động) theo yêu cầu đặt hàng của đối tác
các điều kiện khác
nước ngoài
Cung cấp nguyên phụ liệu chủ yếu

Tự đảm bảo một số loại phụ liệu

Hướng dẫn kỹ thuật sản xuất

Tổ chức quá trình sản xuất

Kiểm định chất lượng và nhận hàng

Giao hàng

Trả tiền gia công


Nhận tiền gia công
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam (2010)

nghiệp này chỉ dừng lại ở hình
thức xuất khẩu tại chỗ. Những
chuyên môn có liên quan đến
việc vận chuyển, bảo hiểm…
những doanh nghiệp may xuất
khẩu của Việt Nam chưa trải
nghiệm nhiều.
Khâu marketing và phân
phối sản phẩm: Hoạt động
phân phối của các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam
hiện nay vẫn chưa phát triển
và đang phụ thuộc vào các
nhà buôn nước ngoài. Mạng
lưới các nhà (mua) buôn này
bao gồm: Các doanh nghiệp
bán lẻ, các nhà sản xuất, và
các nhà buôn. Trong đó, các
doanh nghiệp bán lẻ tập trung
chủ yếu ở EU, Nhật Bản và
Hoa Kỳ, và sở hữu các thương
hiệu hàng đầu quốc tế, siêu
thị, cửa hàng bán sỉ và cửa
hàng bán lẻ. Các nhà sản xuất
bao gồm các doanh nghiệp dệt
may trong khu vực và quốc tế

(đặc biệt là các doanh nghiệp
đến từ Hong Kong). Cuối
cùng, các nhà buôn bao gồm
những thương nhân hàng đầu
từ EU, Mỹ, Nhật Bản và Hong
Kong cũng như những thương
nhân trong khu vực từ Đài
Loan và Hàn Quốc. Có thể
nói, các nhà buôn đóng vai trò
rất quan trọng là trung gian

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

trong chuỗi cung ứng hàng dệt
may của Việt Nam ra thế giới.
Các doanh nghiệp bán lẻ lớn
tin cậy vào các nhà buôn để
phát triển mạng lưới cung ứng
của họ ở Việt Nam nhằm giảm
chi phí giao dịch. Các doanh
nghiệp đầu tư may mặc nước
ngoài hiếm khi liên hệ trực
tiếp với các khách hàng ở Việt
Nam, vì nhà cung ứng của họ
thường có văn phòng đại diện
đặt ở Hồng Kông, Đài Loan
hay Hàn Quốc. Do vậy các
doanh nghiệp Việt Nam (đặc
biệt là các doanh nghiệp nhỏ)
phụ thuộc rất lớn vào các nhà

buôn nhỏ trong khu vực.
Các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam vẫn phải thông qua
các nhà cung cấp khu vực để
có các hợp đồng gia công, rất
ít doanh nghiệp dệt may có
được các hợp đồng trực tiếp từ
các nhà bán lẻ để cung cấp sản
phẩm của mình. Một số doanh
nghiệp dệt may thì thông qua
các văn phòng đại diện ở Việt
Nam của các thương hiệu nổi
tiếng để cung cấp sản phẩm.
Nói cách khác, các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam vẫn
rất thiếu liên kết với những
người tiêu dùng sản phẩm
cuối cùng mà chỉ thực hiện
các hợp đồng gia công lại cho

các nhà sản xuất khu vực.
4. Những rào cản khi tham
gia chuỗi giá trị dệt may
toàn cầu của doanh nghiệp
Việt Nam
Qua quá trình định vị doanh
nghiệp dệt may Việt Nam, có
thể thấy trong các công đoạn
của chuỗi giá trị xuất khẩu dệt
may Việt Nam, mỗi công đoạn

đều có những khó khăn, gây
trở ngại cho các doanh nghiệp
Việt Nam trong việc gia nhập
sâu hơn vào chuỗi giá trị dệt
may toàn cầu. Cụ thể như sau:
Về khâu thiết kế các sản
phẩm: Thời trang ở Việt Nam
hiện tại chỉ đi theo khuynh
hướng thị trường chứ không
tạo ra khuynh hướng cho thị
trường. Nguyên nhân của tình
trạng này là do trong nhiều
năm qua, lĩnh vực thời trang
ở Việt Nam chưa có chiến
lược phát triển bền vững và
ngành này chưa theo kịp với
sự phát triển của ngành may
xuất khẩu ở Việt Nam, đội
ngũ các nhà thiết kế chuyên
nghiệp còn quá ít và chủ yếu
dựa trên năng khiếu bẩm sinh
chứ không được đào tạo bài
bản. Hiện tại, Việt Nam cũng
chưa có chính sách bảo hộ

Số 190- Tháng 3. 2018

39



CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

thương hiệu thời trang, bảo hộ
bản quyền thiết kế... Bên cạnh
đó, Việt Nam cũng cần một
đội ngũ tổ chức các chương
trình biểu diễn, giới thiệu thời
trang chuyên nghiệp để các
chương trình biểu diễn thời
trang mang đúng tính chất của
nó chứ không chỉ là những
tiết mục biểu diễn giải trí. Với
những lý do đó, hoạt động
thiết kế thời trang tại Việt
Nam trong thời gian qua dù
có nhiều sự kiện đáng truyền
thông nhưng chỉ là tự phát,
chưa phát triển và hoạt động
trên những nền tảng vững
chắc. Đó cũng là rào cản để
Việt Nam phát triển mạnh mẽ
các hoạt động này để có thể
tham gia vào khâu thiết kế các
sản phẩm trong chuỗi giá trị
toàn cầu.
Về khâu sản xuất nguyên
phụ liệu: Đặc trưng của
ngành sản xuất sản phẩm dệt
may Việt Nam là nguyên,
phụ liệu sản xuất hầu hết phải

nhập khẩu do nguồn cung
trong nước không đủ và không
đáp ứng được yêu cầu của các
doanh nghiệp sản xuất. Do
các nhóm ngành công nghiệp
phụ trợ của dệt may kém phát
triển; ngành sản xuất sợi hạn
chế về công nghệ, máy móc,
năng suất và chất lượng,
không đáp ứng được nhu cầu
của ngành… dẫn đến ngành
dệt may xuất khẩu hoàn toàn
bị động về nguyên liệu. Mặc
dù từ năm 2009, Việt Nam
đã bắt đầu xuất khẩu vải, sợi,
xơ polyester, phụ liệu sang
một số cường quốc dệt may
trên thế giới như Brazil, Thổ
Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha…, góp
phần nâng cao kim ngạch xuất

40 Số 190- Tháng 3. 2018

khẩu của toàn ngành, nhưng
tình trạng thiếu nguyên, phụ
liệu vẫn là bài toán nan giải
với ngành khi tỷ lệ nhập khẩu
khá cao. Thông thường, nhu
cầu về nguyên liệu nhập khẩu
để bảo đảm sản xuất cần

đến 95% xơ bông, 70% sợi
tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn,
40% vải dệt kim và 60% vải
dệt thoi, dẫn đến bình quân
khoảng 70% nguyên, phụ liệu
dệt may Việt Nam đang phải
nhập khẩu. Từ đó, có thể thấy
ngành công nghiệp dệt may
Việt Nam gần như hoàn toàn
phụ thuộc vào nước ngoài.
Do quá phụ thuộc vào nguyên
liệu nhập khẩu nên mỗi khi
giá nguyên liệu tăng, lập tức
ảnh hưởng đến giá trị gia tăng
của chuỗi giá trị xuất khẩu dệt
may Việt Nam.
Bên cạnh đó, Việt Nam chưa
có một chính sách nào để
phát triển một cách đồng
bộ, dài hơi và mạnh mẽ cho
công nghiệp hỗ trợ dệt may.
Nếu chúng ta chủ động được
nguồn nguyên liệu chất lượng
thì việc thuyết phục các đối
tác nước ngoài chấp nhận
nguyên liệu trong nước ở các
hợp đồng gia công là không
khó. Ngoài ra, nguồn cung
nguyên liệu đầy đủ cũng là cú
hích cho các hoạt động trong

các khâu khác trong chuỗi giá
trị.
Về sản xuất và xuất khẩu:
Việt Nam chưa tham gia
được vào chuỗi giá trị toàn
cầu trong mắt xích này là do
chúng ta chưa đáp ứng được
các yêu cầu trước đó trong
chuỗi giá trị. Đó là chưa tạo
ra được những mẫu thiết kế và
chủ động được nguồn nguyên

liệu đầu vào cho sản xuất.
Hình thức xuất khẩu theo FOB
của Việt Nam hiện nay cũng
chưa mang lại giá trị gia tăng
cao vì thực chất nguồn nguyên
liệu làm hàng FOB của Việt
Nam phần lớn được khách
hàng chỉ định. Do đó, đây
là rào cản lớn nhất cần giải
quyết để chúng ta có thể dần
dần chuyển lên các phương
thức xuất khẩu mang lại giá
trị gia tăng cao hơn. Nếu đáp
ứng được các điều kiện về khả
năng thiết kế và nguồn nguyên
liệu thì tất yếu chúng ta có
điều kiện để sản xuất và xuất
khẩu theo hình thức ODM,

OBM. Có như vậy, chúng ta
mới có thể thâm nhập sâu hơn
vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh đó, một thực trạng
cũng tồn tại lâu nay trong
ngành dệt may Việt Nam là có
một bộ phận các doanh nghiệp
dệt may thích đầu tư sản xuất
theo hình thức gia công để dễ
kiếm lợi nhuận từ nguồn nhân
công giá rẻ hơn. Tuy nhiên,
đây là tư duy phát triển không
bền vững và cũng là rào cản
rất lớn trong quá trình chuyển
đổi sản xuất theo các hình
thức tạo ra giá trị gia tăng cao
hơn trong chuỗi giá trị, thậm
chí ngay cả khi chúng ta có
khả năng thiết kế và cung ứng
cơ bản về nguồn nguyên liệu.
Về marketing và phân phối:
Đây là khâu tạo ra giá trị gia
tăng lớn nhất trong chuỗi giá
trị dệt may. Và tất nhiên, các
doanh nghiệp Việt Nam chưa
thể trực tiếp xây dựng mạng
lưới phân phối ở nước ngoài
khi mà chủ yếu hoạt động
theo hình thức gia công. Rào
cản để tham gia vào khâu


Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng


CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

marketing và phân phối chuỗi
giá trị dệt may xuất phát từ
việc chúng ta chưa tham gia
vào các khâu trước đó và khả
năng tiếp cận thị trường kém.
Hơn một nửa doanh nghiệp
xuất khẩu hàng may mặc tư
nhân đã nói rằng họ không
biết về thị trường cuối cùngnơi mà các sản phẩm của họ
được tiêu thụ. Thậm chí một
vài doanh nghiệp xuất khẩu
dệt may lớn ở Thành phố Hồ
Chí Minh cũng nói rằng họ có
mối liên kết với các nhà buôn
ở Hàn Quốc và Đài Loan,
nhưng họ không biết các cửa
hàng tiêu thụ sản phẩm của
họ ở đâu trên thế giới. Chính
khoảng cách rất xa giữa các
nhà sản xuất Việt Nam với các
doanh nghiệp bán lẻ cuối cùng
có thể tác động mạnh lên các
nhà sản xuất ở địa phương,
làm chúng ta khó khăn hơn

trong việc nắm bắt yêu cầu
của thị trường để đáp ứng một
cách nhanh chóng sự thay đổi
nhu cầu của người mua cũng
như xu hướng thời trang mới
trên thế giới.
Phân tích các mắt xích trong
chuỗi giá trị dệt may Việt
Nam cho thấy, sau nhiều năm
gia nhập chuỗi giá trị dệt may
toàn cầu, mặc dù kim ngạch
xuất khẩu cao nhưng ngành
dệt may Việt Nam vẫn chỉ tập
trung xuất khẩu các sản phẩm
may mặc theo phương thức
gia công- vị trí đáy của chuỗi
giá trị toàn cầu- với giá trị
gia tăng tương đối thấp. Hạn
chế lớn nhất của ngành là sự
phát triển không đồng đều ở
các khâu, đặc biệt là ở công
đoạn đầu trong chuỗi giá trị
dệt may bao gồm: trồng bông,

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

dệt, nhuộm và hoàn tất. Sự
phát triển yếu và chậm các
khâu này đã cản trở sự phát
triển, làm giảm giá trị gia tăng

ở khâu kéo sợi và sản xuất
hàng may mặc. Bên cạnh đó,
mạng lưới xuất khẩu và tiếp
thị vẫn đang là điểm yếu lớn
trong chuỗi giá trị của ngành
dệt may Việt Nam, hạn chế sự
xâm nhập vào các khâu cao
hơn trong chuỗi giá trị dệt
may toàn cầu. Như vậy, thách
thức của các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam là để thành
công, họ phải chuyển sang sản
xuất các sản phẩm có giá trị
gia tăng cao hơn bằng cách
nâng cấp năng lực cạnh tranh
của mình.
5. Một số đề xuất
Mỗi mắt xích trong chuỗi giá
trị dệt may xuất khẩu của Việt
Nam đều gặp phải những khó
khăn và trở ngại. Do vậy, dệt
may Việt Nam nên có những
cải cách sâu rộng và triệt để
hơn trên nhiều khía cạnh về
chiến lược phát triển để nâng
cao vị thế của ngành trong
chuỗi giá trị dệt may toàn cầu
phù hợp với năng lực và lợi
thế cạnh tranh của các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam.

Thứ nhất, chuyển dần hoạt
động sản xuất từ phương thức
CMT sang FOB, ODM, OBM.
Thách thức toàn cầu đã đặt
các nhà sản xuất dệt may Việt
Nam dưới áp lực cạnh tranh,
đòi hỏi phải có khả năng cung
cấp trọn gói, chất lượng ngày
càng cao, giá thành cạnh tranh
và thời hạn giao hàng theo
nhu cầu của người mua trong
chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy,

các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam cần thực hiện việc
dịch chuyển dần từ gia công
với tỷ trọng nhập khẩu nguyên
liệu cao sang hình thức xuất
khẩu theo FOB, ODM, OBM
để đáp ứng yêu cầu người mua
và tạo giá trị gia tăng cao hơn.
Sự dịch chuyển này đòi hỏi
một chiến lược phù hợp trong
cả ngắn hạn và dài hạn:
Trong ngắn hạn, các doanh
nghiệp may vẫn chủ yếu dựa
vào nguồn nguyên phụ liệu
nước ngoài, vì vậy để đảm
bảo sự chủ động với nguồn
nguyên phụ liệu đòi hỏi các

doanh nghiệp phải có một
mối liên kết chặt chẽ với các
nhà cung cấp nguyên phụ liệu
nước ngoài.
Trong dài hạn, để thực hiện
tốt các đơn hàng FOB, ODM
và OBM, ngành dệt may Việt
Nam nhất thiết phải dịch
chuyển sang phân khúc sản
xuất nguyên phụ liệu. Điều
này một mặt giúp các doanh
nghiệp chủ động hoàn toàn
nguồn nguyên phụ liệu, nâng
cao lợi thế cạnh tranh, mặt
khác giúp nâng cao giá trị gia
tăng cho ngành dệt may Việt
Nam.
Thứ hai, nâng cấp chuỗi giá
trị dệt may Việt Nam theo
hướng phát triển khâu cung
ứng nguyên phụ liệu dệt may.
Xu hướng của các nhà mua
hàng lớn tại Mỹ, Nhật Bản
và các nước châu Âu là chọn
những doanh nghiệp có khả
năng sản xuất trọn gói thay vì
đặt hàng theo phương thức gia
công để rút ngắn thời gian cho
ra sản phẩm mới. Rút ngắn
được thời gian thực hiện đơn

hàng, đồng nghĩa với doanh

Số 190- Tháng 3. 2018

41


CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

nghiệp sẽ có lợi thế cạnh tranh
hơn về chi phí và tăng doanh
thu. Để làm được điều này,
ngành dệt may Việt Nam cần
di chuyển lên các mắt xích
đầu chuỗi giá trị dệt may, nắm
giữ các khâu trong phân khúc
sản xuất nguyên phụ liệu, đây
là chiến lược dài hạn để duy
trì và nâng cao lợi thế cạnh
tranh trong xuất khẩu hàng
may mặc của Việt Nam. Một
lý do khác để ủng hộ cho việc
dịch chuyển này là hiện tại
ngành dệt may Việt Nam chưa
đủ khả năng để dịch chuyển
lên phân khúc mạng lưới
xuất khẩu và marketing. Kinh
nghiệm từ các nước cho thấy,
phải nắm được các khâu thiết
kế và sản xuất nguyên phụ

liệu thì mới có khả năng thực
hiện tốt hoạt động ở mạng
lưới xuất khẩu và marketing.
Thứ ba, hoàn thiện mạng lưới
phân phối và marketing
Cần thiết lập một hệ thống
phân phối hướng ra thị trường
các khu vực và quốc tế. Mục
đích của các doanh nghiệp sản
xuất hàng dệt may xuất khẩu
của Việt Nam là thâm nhập
vào hệ thống phân phối của

hàng dệt may trên thị trường
quốc tế, do vậy các doanh
nghiệp phải chủ động thực
hiện công việc này. Hệ thống
phân phối thông qua các văn
phòng đại diện đặt tại các
nước bạn hàng sẽ giúp cung
cấp các thông tin về nhu cầu
và sự biến động của thị trường
để cung cấp cho những doanh
nghiệp trong nước, đồng thời,
tìm hiểu các hệ thống phân
phối hàng dệt may xuất khẩu
ở những nước này nhằm tìm
kiếm cơ hội cho các doanh
nghiệp Việt Nam rút ngắn
những mắt xích quan hệ để

đến gần khách hàng hơn.
Thứ tư, xây dựng cụm ngành
công nghiệp về dệt may
Để khắc phục tình trạng phát
triển thiếu đồng bộ giữa các
phân khúc trong toàn chuỗi
cung ứng, việc xây dựng cụm
ngành dệt may hoàn chỉnh
là hết sức cần thiết. Sự hình
thành và phát triển cụm ngành
dệt may ở Việt Nam sẽ giúp
thúc đẩy năng suất và hiệu
quả của các doanh nghiệp
thông qua tăng khả năng tiếp
cận dịch vụ và nguồn nguyên
liệu; tăng tốc độ và giảm chi

phí giao dịch giữa các doanh
nghiệp; tăng cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp, qua đó
thúc đẩy nâng cao chất lượng.
Ngoài ra, cụm ngành sẽ giúp
các doanh nghiệp tiếp cận
các thông tin dễ dàng, từ đó
thúc đẩy thương mại và quá
trình đổi mới trong các doanh
nghiệp.
6. Kết luận
Nền kinh tế thế giới hiện
nay đang trong giai đoạn tái

cấu trúc mạnh mẽ, nếu đứng
ngoài cuộc chơi tức là chúng
ta đang dần thụt lùi. Vì vậy,
điều quan trọng nhất là dệt
may Việt Nam cần xác định
được vị trí của mình trên thị
trường thế giới để có thể chủ
động lựa chọn công đoạn tham
gia phù hợp trong chuỗi giá trị
dệt may toàn cầu. Nếu không
xác định lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp trong nước,
thì các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam sẽ mãi là điểm sản
xuất hàng hóa của những nhà
đầu tư nước ngoài, tiếp tục
làm gia công cho họ như trong
thời gian qua. ■

Tài liệu tham khảo
1. Kaplinsky, R. (2002), Spreading the gains from globalisation: What can be learned from value chain analysis.
2. Gereffi, G. (2001), The International competitiveness of Asian economies in the apparel commodity chain.
3. Đỗ Thị Đông (2012), Phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của các doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam.
4. Đinh Công Khải, Đặng Thị Tuyết Nhung (2011), Chuỗi giá trị ngành dệt may Việt Nam, Chương trình giảng dạy kinh tế
Fulbright.
5. PGS. TS. Hà Văn Hội (2012), Phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Kinh doanh số 28.
6. ThS. Nguyễn Thị Quỳnh Nga (2016), Các giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam.
7. Tổng cục Hải quan, Niên giám thống kê hải quan về hàng xuất khẩu khẩu Việt Nam, 2014- 2015.
8. Tổng cục Hải quan, Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 8 và 8 tháng năm 2017, tháng 09/2017.

9. Bộ Công thương (2016), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam.

Thông tin tác giả
Ngô Dương Minh
Học viện Ngân hàng

42 Số 190- Tháng 3. 2018

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng


CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

Email:

Summary
Barriers to Vietnamese enterprises in joining global textile and garment supply chain
Vietnam textile and garment industry is one of the most important sectors which have contributed significantly to
the country’s economic growth and export value while playing a key role in creating employment. However, most
international transactions in this sector are based on processing contracts in which materials are imported that
will make it difficult for the industry to achieve sustainable growth. For years, Vietnamese textile and garment
enterprises have struggled to answer the question about their positions among such a global competitive market
with many well-established key players from America, China, Europe, etc. This study will focus on positioning
Vietnamese textile and garment industry in the international market as well as point out their barriers in joining
global textile and garment supply chain.
Keywords: textile, garment, value chain, Vietnamses enterprises, globalization.
Minh Duong Ngo
Banking Academy

tiếp theo trang 24

hội cũng như có những hướng
dẫn, hỗ trợ đào tạo nhân lực
và tuyên truyền về ngân hàng
xanh. Nhưng quan trọng hơn
hết là các NHTM phải chủ
động đẩy mạnh các dịch vụ
ngân hàng hiện đại, xây dựng
chính sách tín dụng xanh, tìm
các nguồn tài trợ để nghiên
cứu và triển khai các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng xanh,
thực hiện nghiêm túc việc
thẩm định rủi ro môi trườngxã hội khi cấp tín dụng, đồng
thời ngân hàng cũng phải nâng
cao nhận thức cũng như trình
độ của cán bộ, nhân viên về
ngân hàng xanh.
Kinh nghiệm của Trung Quốc
phải mất 5 năm mới xây dựng
thành công chính sách tín
dụng xanh. Do vậy, Việt Nam
cũng không thể mong đợi việc
phát triển ngân hàng xanh nói
chung và tín dụng xanh nói
riêng có thể thành công nhanh
chóng mà cần có lộ trình và
thời gian thực hiện. Với sự
thống nhất từ chủ trương đến
chính sách và sự phối hợp của
các ban ngành và các ngân

hàng, doanh nghiệp, ngân

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

hàng xanh sẽ sớm đạt được
những kết quả khả quan, thể
hiện trách nhiệm xã hội của
ngành ngân hàng, góp phần
vào sự phát triển bền vững của
ngành và của đất nước. ■
tiếp theo trang 7
accessibility to formal credit
of rural households in Tra
Vinh province as follows:
Local governments should
develop forms of groups or
associations in the community
through local official
associations such as farmers
groups, women groups, and
so on to support each other
in terms of information,
production techniques, women
right protection... At the same
time, participating in these
social groups, households,
especially female household
heads would be easier to get
loans thanks to the guarantee
of these groups.

The government and local
authorities should pay
attention to the dissemination
of production techniques
(through extension activities)
and the development of
infrastructure for production,

development and replication of
production models. Providing
advanced training and support
for additional occupations
to help farmers improve
production efficiency, increase
incomes and repayment
ability.
Credit institutions should
focus on the ability of
households to repay their loans
through other sources such as
income, the guarantee of social
groups rather than just focus
on the value of collateral, so
that households can borrow
more capital to better serve
production needs.
Improve the level of education
for households, especially
children in households as
these are the main sources of

labor of the household in the
future. Promote the upgrading,
expansion and construction of
new schools, the strengthening
of supplementary education
for many age groups, the
exemption from tuition
fees and the strengthening
of contributions for the
dissemination of education to
farmers; rural farmer children.


Số 190- Tháng 3. 2018

43



×