Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

An sinh xã hội của lao động trong khu vực phi chính thức nghiên cứu bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội tại thành phố hà nội tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.92 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------

HỒ NGỌC CHÂM

AN SINH XÃ HỘI CỦA LAO ĐỘNG TRONG KHU VỰC
PHI CHÍNH THỨC: NGHIÊN CỨU BẢO HIỂM Y TẾ VÀ
BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Xã hội học
Mã số: 9 31 03 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội – 2019


Công trình được hoàn thành tại:
Khoa Xã hội học
Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. Đặng Nguyên Anh
TS. Bùi Thị Thanh Hà

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Xuân Mai

Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Chí Dũng


Phản biện 3: TS. Nguyễn Thị Trà Vinh

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại:

Có thể tìm đọc luận án tại:


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay có nhiều hợp
phần và diện bao phủ hướng đến nhiều nhóm người dân trong xã
hội. Tuy nhiên, với nhóm người trong độ tuổi lao động và đang
tham gia thị trường lao động, chính sách về bảo hiểm y tế và bảo
hiểm xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng góp phần giúp người
lao động có đủ nguồn lực để bù đắp một phần thiếu hụt về thu
nhập trước những biến cố, rủi ro xảy ra trong cuộc sống.
bắt buộc (khoảng 29% lực lượng trong độ tuổi lao động). Số
người tham gia bảo hiểm thất nghiệp là 11,7 triệu người. Hiện
nay trên cả nước có khoảng 87,84% dân số tham gia BHYT
(PAPI, 2018: 22).
Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều thách thức trong quá trình
thực hiện hai chính sách này. Chỉ một tỉ lệ nhỏ người lao động
khu vực phi chính thức tham gia vào chương trình BHXH tự
nguyện (chưa đến 1% lực lượng lao động phi chính thức. Với
chính sách BHYT, quá trình thực hiện chính sách vẫn còn nhiều
bất cập, tạo khó khăn, vướng mắc trong tổ chức khám chữa bệnh,
đăng ký chuyển tuyến, đăng ký nơi khám chữa bệnh ban đầu,

phương thức thanh toán khám chữa bệnh bảo hiểm y tế…..
Để khắc phục sự hạn chế của hệ thống an sinh xã hội,
người dân nói chung vẫn chủ yếu dựa vào phương thức “an sinh
truyền thống” thông qua sự hỗ trợ của gia đình, dòng họ, cộng
đồng mỗi khi gặp khó khăn, rủi ro. Tuy nhiên, dưới tác động của
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xu hướng chuyển đổi từ
mô hình gia đình mở rộng nhiều thế hệ sang mô hình hạt nhân
trong đó gia đình chỉ bao gồm cha mẹ và con cái chưa kết hôn
ngày càng chiếm ưu thế; quan hệ giữa các thế hệ ngày càng lỏng


2
lẻo khiến cho hình thức an sinh truyền thống dựa vào gia đình
ngày càng suy yếu.
Đặt trong bối cảnh đó, chúng tôi thực hiện đề tài “An sinh
xã hội của lao động trong khu vực phi chính thức: Nghiên cứu
bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội tại thành phố Hà Nội” với
mong muốn nhận diện thực trạng tham gia và phân tích yếu tố
ảnh hưởng đến sự tham gia BHYT, BHXH tự nguyện của người
lao động khu vực PCT. Đồng thời, đề tài sẽ đưa ra một số
khuyến nghị với mong muốn góp phần mở rộng diện bao phủ an
sinh xã hội ở nhóm lao động này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu: Luận án tập trung tìm hiểu thực
trạng tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội của người lao
động trong khu vực phi chính thức; phân tích những yếu tố ảnh
hưởng đến khả năng tham gia bảo hiểm của người lao động; đưa
ra một số khuyến nghị đóng góp cho việc mở rộng diện bao phủ
an sinh xã hội ở nhóm lao động này.
Nhiệm vụ nghiên cứu: 1) Xây dựng cơ sở lý luận về

ASXH cho lao động khu vực PCT; 2) Nhận diện thực trạng tham
gia BHYT, BHXH của lao động trong khu vực PCT; 3) Phân tích
những yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia BHYT, BHXH của lao
động khu vực PCT; 4) Đề xuất một số khuyến nghị nhằm tăng
cường khả năng tham gia BHYT, BHXH của lao động khu vực
PCT.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu bảo hiểm y tế và bảo
hiểm xã hội của người lao động trong khu vực phi chính thức.


3
Khách thể nghiên cứu: người lao động làm thuê và người
lao động làm chủ/ lao động tự làm; cán bộ lãnh đạo xã/ phường
và cán bộ phụ trách công tác thương binh – xã hội của
xã/phường.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án được thực hiện trong thời
gian từ năm 2016 đến năm 2019 trong suốt quá trình học tập của
nghiên cứu sinh. Thời gian tiến hành khảo sát mẫu của đề tài vào
tháng 5 – 7/ 2018 tại xã Tân Lập, huyện Đan Phượng và phường
Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội;
Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Hiện nay, người lao động khu vực PCT tham
gia BHYT, BHXH tự nguyện như thế nào? Câu hỏi 2: Những
yếu tố nào ảnh hưởng đến khả năng tham gia BHYT, BHXH tự
nguyện của lao động trong khu vực PCT? Câu hỏi 3: Lao động
trong khu vực PCT đã làm gì để đảm bảo an sinh cho bản thân và
các thành viên gia đình?
Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Hiện nay, hầu hết người lao động khu vực

PCT không tham gia BHXH tự nguyện bởi họ chưa thấy được lợi
ích của sự tham gia chương trình. So với chương trình BHXH tự
nguyện, người lao động có xu hướng tham gia nhiều hơn chương
trình BHYT.
Giả thuyết 2: Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia
BHYT, BHXH tự nguyện của người lao động. Với chương trình
BHYT, khả năng tham gia BHYT phụ thuộc phần lớn vào đánh
giá của người lao động về mức độ cần thiết của thẻ BHYT.
Những trải nghiệm về lợi ích của BHYT liên quan đến vấn đề
sức khỏe cũng là yếu tố góp phần gia tăng khả năng tham gia
BHYT của người lao động. Trong khi đó, điều kiện kinh tế gia


4
đình khó khăn là yếu tố làm giảm khả năng tham gia BHYT của
người lao động bởi quy định mua BHYT theo hộ gia đình.
Với chương trình BHXH tự nguyện, những quy định của chính
sách BHXH tự nguyện về thời gian đóng kéo dài và chế độ thụ
hưởng ít là yếu tố chính khiến người lao động khu vực phi chính
thức không muốn tham gia vào chương trình này. Cũng từ những
quy định về thời gian đóng – hưởng khiến người lao động trong
gia đình có mức sống thấp hơn ít có khả năng tham gia.
Giả thuyết 3: Trong bối cảnh chương trình bảo hiểm trong
hệ thống ASXH chưa thu hút được nhiều người lao động khu vực
PCT, mạng lưới các liên kết (liên kết giữa các thành viên trong
gia đình, họ hàng, bạn bè…) có vai trò nhất định trong việc giúp
người lao động đối mặt với các tình huống khó khăn, rủi ro. Hiện
nay, sự giúp đỡ của các thành viên trong gia đình, họ hàng vẫn là
một hình thức “tự an sinh” truyền thống phổ biến khi người lao
động gặp rủi ro trong cuộc sống. Ngoài ra, bản thân người lao

động và gia đình họ đã chủ động xây dựng chiến lược “tự an
sinh” nhằm phù hợp với đặc điểm gia đình họ.
4. Phƣơng pháp luận nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng phương pháp phân tích tài liệu, phương
pháp so sánh, phương pháp tổng hợp trong quá trình tổng quan
tài liệu nghiên cứu. Đồng thời, luận án sử dụng phương pháp
nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng
trong thu thập thông tin của khách thể nghiên cứu. Luận án ứng
dụng lý thuyết Xã hội học như lý thuyết lựa chọn hợp lý, lý
thuyết mạng lưới xã hội và cách tiếp cận chu trình vòng đời trong
nghiên cứu an sinh xã hội để lý giải hành vi tham gia BHYT,
BHXH của người lao động.


5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Những phát hiện của luận án về tính chủ động tự an sinh
của người lao động là một điểm mới của luận án so với các
nghiên cứu đi trước. Việc luận án vận dụng luận điểm chính của
lý thuyết lựa chọn hợp lý, lý thuyết mạng lưới xã hội và cách tiếp
cận ASXH theo chu trình vòng đời để giải thích những yếu tố
ảnh hưởng đến tiếp cận BHYT, BHXH tự nguyện của người lao
động đã cụ thể hóa hơn vai trò của các lý thuyết trung mô trong
giải thích hành vi của người lao động.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án đã vận dụng các luận điểm chính
của lý thuyết Xã hội học gồm lý thuyết Lựa chọn hợp lý, lý
thuyết Mạng lưới xã hội và cách tiếp cận chu trình vòng đời
trong nghiên cứu ASXH để giải thích hành vi tham gia hệ thống
BHYT, BHXH tự nguyện của người lao động trong khu vực

PCT. Việc chỉ ra sự phù hợp trong áp dụng lý thuyết để giải thích
hành vi của người lao động sẽ góp phần bổ sung những thông tin
mang tính khoa học, tính lý luận cho các lĩnh vực nghiên cứu liên
quan.
Ý nghĩa thực tiễn: Trong bối cảnh các nghiên cứu về khu
vực PCT và các số liệu thống kê về khu vực PCT ở Việt Nam
vẫn chưa mang tính hệ thống, toàn diện, kết quả nghiên cứu của
luận án sẽ góp phần bổ sung những thông tin mang tính thực tiễn
cho lĩnh vực nghiên cứu này.
Hạn chế của luận án: Luận án cũng chưa phân tích so sánh
mức độ tham gia hệ thống ASXH của nhóm lao động khu vực
chính thức với nhóm lao động khu vực PCT. Do nghiên cứu
được thực hiện trên 2 xã/ phường nên các kết quả luận án không


6
thể suy rộng cho tổng thể là toàn bộ nhóm lao động khu vực PCT
của toàn Thành phố Hà Nội.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần
phụ lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương như sau: Chương 1:
Tổng quan vấn đề nghiên cứu; Chương 2: Cơ sở lý luận và
phương pháp nghiên cứu; chương 3: Tham gia BHYT và BHXH
của người lao động; Chương 4: Một số yếu tố ảnh hưởng đến
tham gia BHYT và BHXH của người lao động
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu trong và
ngoài nước cũng như rà soát về chính sách ASXH với nhóm lao
động khu vực PCT có thể thấy rằng lao động trong khu vực PCT
là đối tượng thường gặp rủi ro trong công việc và cuộc sống khi

họ đang hàng ngày phải đối mặt với những nguy cơ như làm việc
trong điều kiện kém an toàn, tình trạng công việc bấp bênh, thu
nhập thấp. Tính không bền vững của công việc cùng những nguy
cơ trên đã khiến họ dễ rơi vào đói nghèo, kéo theo hàng loạt khó
khăn cho các thành viên trong gia đình. Đặc biệt, nữ lao động
trong khu vực PCT là đối tượng gặp nhiều thiệt thòi hơn so với
nam giới. Mặt khác, một bộ phận lớn người lao động trong khu
vực PCT lại không được hưởng bất cứ các chế độ ASXH nào do
họ không có hợp đồng lao động.
Về mặt chính sách, dù quyền lợi về ASXH (BHYT,
BHXH) của lao động trong khu vực PCT có được trong quy định
Luật Lao động, Luật BHXH nhưng người sử dụng lao động lại
không thực hiện các quy định đó. Các loại hình bảo hiểm tự
nguyện ra đời để giúp người lao động trong khu vực PCT có
nhiều lựa chọn hơn trong đảm bảo ASXH, nhưng trên thực tế,


7
loại hình bảo hiểm này chưa thực sự thu hút được phần lớn người
lao động trong khu vực PCT.
Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những yếu tố thuộc về
công việc như công việc bấp bênh, dễ bị tổn thương, tiền công
thấp, yếu tố thuộc về đặc điểm gia đình như điều kiện kinh tế,
tình trạng hôn nhân, quy mô gia đình, độ tuổi, tình trạng di cư,
giới tính, nhận thức về các chương trình an sinh xã hội…có ảnh
hưởng đến quyết định tham gia hệ thống bảo hiểm của người lao
động. Bên cạnh đó, những quy định trong nội dung chính sách
BHYT, BHXH cũng ảnh hưởng đến sự tham gia của người lao
động vào hai chương trình này. Các nghiên cứu đi trước đã cho
thấy người lao động khu vực PCT cũng là đối tượng thụ hưởng

của chính sách BHYT, BHXH. Tuy nhiên, người lao động hầu
như tiếp cận hạn chế đến các chính sách này.
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm nghiên cứu
An sinh xã hội: là hệ thống các chính sách và các chương
trình do Nhà nước và các đối tác xã hội thực hiện nhằm đảm bảo
mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe và các phúc lợi xã hội, nâng
cao năng lực của cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong quản lý
và kiểm soát các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, thiên
tai, chuyển đổi cơ cấu, khủng hoảng kinh tế dẫn đến giảm hoặc bị
mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội
cơ bản. ASXH thực hiện chức năng phòng ngừa, giảm thiểu và
khắc phục rủi ro. Hiện nay hệ thống ASXH của Việt Nam bao
gồm 4 hợp phần. Tuy nhiên phạm vi của luận án chỉ tập trung tìm
hiểu sự tham gia của người lao động khu vực PCT ở hợp phần
BHYT và BHXH.


8
Tự an sinh: trong luận án này, tự an sinh được hiểu những
biện pháp người lao động tự thực hiện để phòng ngừa, giảm
thiểu, khắc phục rủi ro mà không dựa vào sự bảo vệ từ hệ thống
an sinh xã hội do nhà nước triển khai.
Bảo hiểm xã hội: Theo điều 3 Luật BHXH năm 2014,
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động
hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH. BHXH tự nguyện là
hình thức bảo hiểm do nhà nước tổ chức mà người tham gia được

lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của
mình. Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH để người
tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất. Trong luận án này,
nghiên cứu BHXH của người lao động khu vực PCT tập trung ở
một số khía cạnh: Nhận thức của người lao động về BHXH tự
nguyện; Đánh giá của người lao động về sự cần thiết của BHXH
tự nguyện; Sự tham gia của người lao động vào chương trình
BHXH tự nguyện.
Bảo hiểm y tế: BHYT là một chương trình nằm trong hệ
thống ASXH, do nhà nước triển khai, không hoạt động vì mục
đích kinh doanh, lợi nhuận. BHYT hoạt động vì quyền lợi của
người tham gia, hướng đến mục đích chia sẻ rủi ro giữa những
người tham gia và bảo đảm an toàn cho người tham gia liên quan
đến tình trạng sức khỏe. Chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế
do quỹ BHYT và người tham gia BHYT cùng chi trả. Trong luận
án này, nghiên cứu BHYT của người lao động khu vực PCT tập
trung ở một số khía cạnh: Nhận thức của người lao động về
BHYT; Đánh giá của người lao động về sự cần thiết của BHYT;
Sự tham gia của người lao động vào chương trình BHYT.


9
Khu vực phi chính thức: Khái niệm “khu vực PCT” là
một khái niệm có tính chất đa dạng trong cách hiểu tùy theo cách
tiếp cận của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, khu vực PCT có một số
đặc điểm cơ bản sau: thiếu/ ít tình trạng pháp lý vững chắc;
không/ ít được bảo vệ hoặc không/ ít được kiểm soát bởi các cơ
quan nhà nước. Trong luận án này, khu vực PCT dùng để chỉ tập
hợp đơn vị sản xuất ra sản phẩm vật chất hoặc dịch vụ; có quy
mô nhỏ dưới 10 lao động; không hoạt động trong lĩnh vực nông

nghiệp; không có tư cách pháp nhân; không có giấy phép đăng
ký kinh doanh; quan hệ lao động (nếu có) không dựa trên hợp
đồng lao động chính thức.
Lao động trong khu vực phi chính thức: bao gồm người
lao động từ đủ 18 tuổi trở lên (không xem xét những lao động
dưới 18 tuổi bởi tính chất đặc thù trong việc ký kết hợp đồng lao
động hoặc thỏa thuận lao động của đối tượng này phải được sự
đồng ý của người là đại diện theo pháp luật) thuộc 2 nhóm sau:
1) Lao động tự làm (lao động tự làm chủ trong cơ sở sản xuất
không có đăng ký kinh doanh; lao động tự làm); 2)Lao động làm
thuê (được trả công) nhưng không có hợp đồng lao động, hoặc có
hợp đồng lao động nhưng không được đóng BHXH trong khu
vực kinh tế PCT.
2.2. Cách tiếp cận và lý thuyết nghiên cứu
Lý thuyết lựa chọn hợp lý: lý thuyết lựa chọn hợp lý nhấn
mạnh việc phải cân nhắc, tính toán để quyết định giải pháp tối ưu
nhằm đạt được mục tiêu trong điều kiện khan hiếm các nguồn
lực. Trong luận án này, vận dụng luận điểm chính của lý thuyết
sự lựa chọn hợp lý, đề tài sẽ giải thích hành vi tham gia BHYT,
BHXH của người lao động cũng như lựa chọn hình thức tự an
sinh cho bản thân trong điều kiện nguồn lực của họ khan hiếm,


10
trong điều kiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước hướng đến
lao động khu vực kinh tế PCT chưa nhiều.
Lý thuyết mạng lưới xã hội: Theo một cách chung nhất,
mạng lưới xã hội là phức hợp các mối quan hệ của các cá nhân
trong các nhóm, tổ chức và cộng đồng. Mạng lưới xã hội bao
gồm các mối quan hệ đan chéo nhau chằng chịt, từ quan hệ gia

đình, thân tộc, bạn bè, láng giềng; quan hệ trong các tổ chức
đoàn thể, tầng lớp, hiệp hội, đảng phái, nghề nghiệp… Thông
qua mạng lưới này, các thành viên trong xã hội có thể chia sẻ,
trao đổi thông tin, kiến thức, nguồn lực, từ đó làm tăng cường
sức mạnh cho các cá nhân, cũng như cho cả xã hội, làm cho xã
hội vận hành một cách gắn bó, hài hòa và trôi chảy. Dựa trên các
luận điểm của lý thuyết mạng lưới xã hội, luận án xem xét vai trò
của mạng lưới các mối liên kết của người lao động đã góp phần
thúc đẩy hành vi tham gia BHYT, BHXH của người lao động
như thế nào. Trong một khía cạnh khác, cách tiếp cận mạng lưới
xã hội cũng góp phần lý giải vai trò các mối quan hệ xã hội góp
phần đảm bảo an sinh cho người lao động khi họ gặp khó khăn,
rủi ro trong cuộc sống.
Cách tiếp cận an sinh xã hội dựa trên chu trình vòng
đời: Cách tiếp cận ASXH theo chu trình vòng đời của gia đình
ngụ ý rằng cuộc đời con người là một chu trình sống gồm nhiều
giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn đòi hỏi phải có những
chính sách ưu tiên hơn. Cách tiếp cận ASXH dựa trên chu trình
vòng đời đưa ra gợi ý về sự lý giải hành vi lựa chọn các chương
trình ASXH của người lao động khu vực kinh tế PCT có liên
quan chặt hay không đến các đặc trưng đặc gắn với chu trình
vòng đời của người lao động. Người lao động ở mỗi độ tuổi khác
nhau trong chu trình vòng đời sẽ có lựa chọn ASXH như thế nào
để đáp ứng những nhu cầu đặc trưng của giai đoạn cuộc đời đó.


11
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu, mẫu nghiên cứu và địa bàn
nghiên cứu
Đề tài sử dụng 3 phương pháp nghiên cứu chính bao

gồm: phương pháp nghiên cứu định lượng, phương pháp nghiên
cứu định tính và phương pháp phân tích tài liệu.
Phương pháp nghiên cứu định lượng: Đề tài luận án sử
dụng phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi có sẵn, với
cỡ mẫu trong nghiên cứu định lượng là 300 trường hợp người lao
động làm việc trong khu vực phi chính thức tại xã Tân Lập,
huyện Đan Phượng và phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP
Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu định tính: Đề tài luận án phỏng
vấn sâu 30 trường hợp là những người lao động làm việc trong
khu vực phi chính thức thuộc nhiều nhóm công việc khác nhau
và một số cán bộ công tác tại ủy ban nhân dân xã/ phường ở hai
địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp phân tích tài liệu: các tài liệu được sử dụng
trong phương pháp này là các ấn phẩm đã xuất bản, các bộ dữ
liệu đã công bố của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu liên quan
đến chủ đề nghiên cứu, các báo cáo, số liệu thống kê của xã Tân
Lập và phường Nghĩa Tân.
CHƢƠNG 3: THAM GIA BẢO HIỂM Y TẾ
VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG
3.1. Đặc điểm việc làm của ngƣời lao động
Loại hình công việc: 54% người lao động có công việc
chính là kinh doanh/ buôn bán nhỏ. Nhóm lao động làm công
việc giản đơn phi nông nghiệp chiếm 26,3%. Còn lại là nhóm
làm việc trong lĩnh vực dịch vụ như cắt tóc, lái xe tự do, xe
ôm….Nam giới có xu hướng làm các công việc trong lĩnh vực


12
dịch vụ, trong khi đó nữ giới thường tập trung ở nhóm nghề buôn

bán nhỏ. 80,7% người lao động có công việc ổn định.
Thời gian làm việc: Trung bình người lao động làm việc
10 tiếng/ ngày và 26 ngày/ tháng. Có 59,7% người lao động làm
việc trên 8 tiếng/ ngày. Khoảng 15% người lao động làm việc từ
1 – 6 tiếng/ ngày (dưới 35 tiếng/ tuần). Ngoài công việc chính là
công việc chiếm nhiều thời gian nhất, có 75 trường hợp trong
tổng số 300 lao động (chiếm 25%) làm thêm 1 – 2 nghề phụ,
trong đó chủ yếu rơi vào nhóm lao động có thời gian làm công
việc chính dưới 35 tiếng/ tuần. 36,5% người lao động thuộc
nhóm làm việc từ 1 – 6 tiếng/ ngày làm thêm nghề phụ so với
18,4% người lao động thuộc nhóm làm việc trên 8 tiếng/ ngày.
Tình trạng hợp đồng và điều kiện làm việc: có 98/300
trường hợp là lao động làm thuê. Trong đó, 10 trường hợp
(chiếm khoảng 10%) có thỏa thuận bằng văn bản với chủ thuê
lao động, 26 trường hợp (chiếm 26,8%) làm việc không hề có bất
cứ hình thức giao kết hợp đồng nào, 62 trường hợp (chiếm
63,2%) có thỏa thuận miệng về điều kiện làm việc cũng như mức
tiền công/ tiền lương hàng tháng. Hầu hết người lao động không
được hưởng các khoản hỗ trợ nào khác ngoài tiền công/ tiền
lương. Nhiều lao động khu vực PCT làm việc trong điều kiện
thiếu an toàn, không được bảo hộ lao động. Vì vậy, một số
trường hợp người lao động bị tai nạn trong quá trình làm việc
không được đền bù bởi không có hợp đồng lao động.
Tiền công/ tiền lương: Tiền công/ tiền lương trung bình
của người lao động là 5,369,000 đồng/ tháng. Lao động làm chủ,
là nam giới, ở khu vực Nghĩa Tân có thu nhập từ tiền công/
lương cao hơn so với lao động làm thuê, là nữ giới, ở khu vực xã
Tân Lập.



13
Địa điểm làm việc: Có 35% người lao động làm việc lưu
động hoặc cố định ngoài trời không kèm theo các điều kiện về
bảo hộ lao động. 65% còn lại có địa điểm làm việc cố định tại
nhà hoặc chợ trong nhà.
3.2. Nhận thức của ngƣời lao động về an sinh xã hội
Để làm rõ nhận thức của người lao động về chương trình
ASXH, luận án đưa ra câu hỏi mở “Anh chị có biết ASXH là gì?”
sẽ bộc lộ mức độ hiểu biết của người lao động về ASXH nói
chung. Kết quả mẫu nghiên cứu cho thấy, chỉ có 38/300 người
(chiếm 12,7%) trả lời có biết về ASXH. Như vậy, gần 90% người
lao động khu vực PCT không biết về ASXH. Phần lớn trong số
họ chỉ biết ASXH là những chính sách dành cho đối tượng yếu
thế trong xã hội như chính sách dành cho người nghèo, người cận
nghèo, người khuyết tật, người có công và những người cao tuổi.
Người lao động biết thông tin về chương trình ASXH chủ yếu
qua TV/ đài/ loa phát thanh, là các kênh thông tin chính thống
của nhà nước.
3.3. Tham gia bảo hiểm y tế của ngƣời lao động
Một số đặc trưng cơ bản của người lao động tham gia
BHYT: Trong tổng số 300 mẫu nghiên cứu, có 206 người tham
gia chương trình BHYT (chiếm 68,7%). Phần lớn người tham gia
BHYT tập trung ở nhóm từ 55 tuổi trở lên (chiếm tỉ lệ cao nhất
so với các nhóm tuổi còn lại). Về tình trạng di cư, tỉ lệ tham gia
BHYT ở nhóm di cư chỉ chiếm 16% trong tổng số những người
tham gia BHYT. Xét theo điều kiện kinh tế hộ gia đình, tỉ lệ
người lao động trong gia đình có điều kiện kinh tế nghèo, cận
nghèo không tham gia BHYT cao gấp 2 lần so với tỉ lệ người lao
động tham gia BHYT ở các hộ có điều kiện kinh tế nghèo, cận
nghèo.



14
Nhận thức của người lao động về BHYT: Người lao động
có nhận thức tương đối tốt về BHYT. Phần lớn họ hiểu rõ lợi ích
của BHYT trong chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh. Tuy
nhiên, một khía cạnh khá quan trọng, tác dụng lan toả của việc
tham gia BHYT nên được chú ý. Đó là sự chia sẻ rủi ro giữa
những người tham gia, giữa người có bệnh với người không có
bệnh dường như ít được người lao động đề cập đến. Nhận thức
của người lao động và những người vận động chính sách chủ yếu
hướng đến lợi ích trực tiếp của thẻ bảo hiểm với người tham gia
mà chưa chú ý đến khía cạnh chia sẻ rủi ro của chương trình bảo
hiểm.
Đánh giá của người lao động về BHYT: 85% người lao
động đánh giá BHYT là cần thiết, trong đó 28% cho là rất cần
thiết. BHYT là một hợp phần ASXH giúp người lao động trong
khu vực PCT và các thành viên trong gia đình họ giảm bớt gánh
nặng chi phí tài chính khi bị ốm đau, bệnh tật. Đặc điểm phổ biến
của người lao động trong khu vực PCT là tình trạng việc làm
không ổn định bởi nguy cơ rủi ro từ thực tế không có hợp đồng
lao động bằng văn bản, thời gian làm việc không cố định, nguy
cơ phải đối mặt với tai nạn lao động trong quá trình làm việc…
Vì vậy, BHYT trở nên cần thiết đối với họ.
Rào cản trong tham gia BHYT của người lao động: Có
98/ 300 lao động không tham gia BHYT. Các lý do không mua
BHYT của người lao động khá đa dạng. Thứ nhất, do không có
vấn đề gì về sức khỏe trong năm qua mà khoảng gần 1/3 người
lao động không mua BHYT. Đây là lý do được nhiều lao động
đưa ra để giải thích cho hành vi không tham gia BHYT ( chủ yếu

ở nhóm lao động trẻ tuổi từ 18 – 34 tuổi, lao động di cư trẻ tuổi
hiện đang sinh sống và làm việc tại phường Nghĩa Tân). Chi phí
mua BHYT quá đắt cũng khiến người lao động không muốn
tham gia BHYT (chiếm 22,3%). Với quy định mua BHYT theo


15
hộ gia đình khiến số tiền chi trả cho bảo hiểm tăng lên theo quy
mô hộ. Vì vậy, vẫn có một bộ phận người lao động không thể
tham gia BHYT. Ngoài ra, một số người lao động có điều kiện
kinh tế khá giả hơn thích tự lựa chọn bệnh viện và bác sĩ để
khám thay vì khám BHYT bởi những rườm rà về thủ tục khám
chữa bệnh (21,3%). Có 10 trường hợp người lao động không
mua BHYT vì không nắm được thông tin và thủ tục mua bảo
hiểm.
3.4. Tham gia bảo hiểm xã hội của ngƣời lao động
Một số đặc trưng cơ bản của người lao động tham gia
BHXH: Người lao động tham gia BHXH tự nguyện có đặc điểm
chung là có học vấn cao, thường là lao động tự làm chủ, có công
việc ổn định và thuộc nhóm nghề có thu nhập cao. Đây là những
tiền đề quan trọng để người lao động có thể duy trì sự tham gia
bởi thời gian đóng phí bảo hiểm tương đối kéo dài.
Nhận thức của người lao động về BHXH: Nhận thức hạn
chế và không đồng đều về chính sách BHXH tự nguyện là tình
trạng chung của người lao động PCT tại mẫu nghiên cứu. Phần
lớn người lao động không biết đến chương trình bảo hiểm này.
Một số lao động có nghe nói đến chương trình BHXH tự nguyện
nhưng không hiểu cụ thể và cũng không có nhu cầu tìm hiểu cụ
thể. Trong khi đó vai trò chủ động tuyên truyền, cung cấp thông
tin thường xuyên, cập nhật đến người dân của chính quyền địa

phương, của cơ quan bảo hiểm dường như rất mờ nhạt với
chương trình BHXH tự nguyện. Đây là một trong những nguyên
nhân khiến lao động khu vực PCT không tham gia BHXH tự
nguyện.
Đánh giá của người lao động về BHXH: Khoảng 1/3 số
người lao động (35,6%) cho rằng BHXH tự nguyện không cần
thiết/ khó đánh giá tính cần thiết. Tuy phần lớn người lao động


16
cho rằng BHXH là cần thiết nhưng đặt trong bối cảnh việc làm
trong khu vực PCT thường bấp bênh, không ổn định, cùng quy
định về thời gian đóng – hưởng quá dài, sự hỗ trợ từ nhà nước
hầu như không đáng kể thì BHXH tự nguyện chưa phải là lựa
chọn phù hợp với đại đa số người lao động.
Rào cản trong tham gia BHXH của người lao động: Một
trong những rào cản lớn nhất khiến người lao động không tham
gia BHXH tự nguyện là do không đủ tiền để đóng phí (34,5%).
Một lý do nữa khiến người lao động không tham gia BHXH tự
nguyện là tình trạng thiếu thông tin dẫn đến người lao động
không biết đến chương trình (20,2%). Trong khi đó, một số
người lao động dựa vào các nguồn thu khác nhau để tích lũy và
chuẩn bị cho cuộc sống sau này (20,2%). Điều này thể hiện rất rõ
chiến lược “tự an sinh” của người lao động trong khu vực PCT.
CHƢƠNG 4: MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN THAM
GIA BẢO HIỂM Y TẾ VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI CỦA
NGƢỜI LAO ĐỘNG
4.1. Yếu tố ảnh hƣởng đến tham gia bảo hiểm y tế của ngƣời
lao động
Yếu tố chính sách: Người lao động tham gia BHYT thể

hiện trách nhiệm chia sẻ của mình, đồng thời để được hưởng
những chính sách của nhà nước về mức đóng BHYT và hỗ trợ
chi phí khám chữa bệnh từ BHYT. Tuy nhiên, do một số bất cập
trong thủ tục, giấy tờ khiến nhóm lao động di cư không có hộ
khẩu thường trú tại địa bàn cư trú khó tham gia BHYT. Quy định
mua BHYT theo hộ gia đình khiến một bộ phận người lao động
không có khả năng tham gia bởi chi phí tham gia quá lớn. Đồng
thời, quá trình thực hiện khám chữa bệnh bằng BHYT ở một số
bệnh viện nhìn chung vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến quyền


17
lợi của người tham gia bảo hiểm khiến người dân không tích cực
với việc sử dụng BHYT.
Yếu tố đặc điểm cá nhân và gia đình người lao động: Khi
xem xét sự tác động của yếu tố đặc điểm cá nhân, gia đình người
lao động lên khả năng tham gia BHYT cho thấy trong điều kiện
các biến độc lập khác không đổi, biến số “tuổi người lao động”,
“gia đình có người bị bệnh nặng trong 12 tháng qua”, “điều kiện
sống của hộ gia đình” và “BHYT có cần thiết” có tác động khá
mạnh đến khả năng mua BHYT. Xác suất mua BHYT của người
lao động trong gia đình có điều kiện sống khá giả là 91,6% so với
xác suất ban đầu 68,7%. Xác suất người lao động mua BHYT
tăng từ 68,7% lên 96,8% đối với nhóm đánh giá BHYT là cần
thiết so với nhóm lao động đánh giá BHYT là không cần thiết.
Xét theo biến số “tuổi”, khi biến tuổi tăng thêm 1 đơn vị, xác
suất mua BHYT của người lao động tăng từ 68,7% lên 69,5%. So
với người lao động trong gia đình không có thành viên bị bệnh
nặng trong 12 tháng qua, người lao động trong gia đình có thành
viên bị bệnh nặng có xác suất mua BHYT từ 68,7% lên 84,4%.

4.2. Yếu tố ảnh hƣởng đến tham gia bảo hiểm xã hội của
ngƣời lao động
Yếu tố chính sách: Các chế độ thụ hưởng của BHXH tự
nguyện tương đối nghèo nàn chỉ gồm 2 chế độ là hưu trí và tử
tuất. Trong khi đó, với những nhu cầu lợi ích trước mắt của
người lao động như chế độ thai sản với phụ nữ, ốm đau, bệnh tật,
tai nạn lao động, nguy cơ thất nghiệp thì BHXH tự nguyện lại
không đáp ứng được. Người lao động lại khó kiểm chứng lợi ích
của BHXH tự nguyện bởi thời gian đóng để hưởng quá dài.
Ngoài ra, việc tuyên truyền và triển khai chính sách BHXH tự
nguyện ở cấp chính quyền địa phương thường mang tính hình
thức và không mang lại hiệu quả. Các đầu mối của cơ quan
BHXH được đặt ngay tại cấp xã, phường, nhưng chưa tiếp cận


18
trực tiếp với người lao động. Các cán bộ cơ quan bảo hiểm cũng
hầu như không chủ động gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với người lao
động để tư vấn cho người dân hiểu được lợi ích của chính sách
này. Vì vậy người lao động PCT ở hai địa bàn chưa nắm được
nội dung chính sách cũng như quyền lợi khi tham gia bảo hiểm.
Yếu tố đặc điểm cá nhân và gia đình người lao động: có
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia BHXH tự
nguyện của người lao động. Người lao động phải tính đến độ
tuổi, điều kiện kinh tế và mức thu nhập của gia đình bởi chương
trình BHXH tự nguyện đòi hỏi thời gian đóng kéo dài. Những
thay đổi theo chu trình vòng đời cũng khiến người lao động cân
nhắc khả năng tham gia. Theo đó, người tham gia BHXH tự
nguyện chủ yếu ở nhóm đã kết hôn. Ngoài ra, người lao động là
nam hay nữ, có nhận thức đúng về chương trình BHXH tự

nguyện hay không cũng ảnh hưởng đến hành vi tham gia. Ngoài
ra, những trải nghiệm của người lao động về chương trình
BHXH bắt buộc từ chính công việc trước đó của người lao động
(với nhóm lao động đã từng tham gia BHXH bắt buộc) và mạng
lưới các mối quan hệ xã hội mà người lao động là một mắt xích
góp phần làm tăng cơ hội tham gia BHXH của họ.
4.3. Chiến lƣợc tự an sinh của ngƣời lao động
Dựa vào sự giúp đỡ của người thân và gia đình: Hiện
nay, hình thức an sinh truyền thống dựa vào gia đình, dòng họ
vẫn phát huy vai trò trợ giúp cho người lao động lúc khó khăn
khiến họ chủ yếu dựa vào mạng lưới các mối quan hệ gần gũi
này để tự an sinh thay vì dựa vào hình thức an sinh do nhà nước
cung cấp. Nếu gặp khó khăn, vẫn có tới 80,4% người lao động sẽ
tìm đến sự giúp đỡ của các thành viên trong gia đình như bố mẹ,
anh chị em ruột khi gặp khó khăn đột xuất.
Tham gia bảo hiểm thương mại: Tham gia bảo hiểm
thương mại là một hình thức trong chiến lược tự an sinh. Nhóm


19
lao động tham gia BH thương mại chủ yếu thuộc nhóm lao động
tự làm chủ, có thu nhập cao hơn và công việc ổn định hơn. Vai
trò của đứa con chưa trưởng thành (dưới 18 tuổi) chi phối rất lớn
đến quyết định tham gia bảo hiểm thương mại của các cặp vợ
chồng. Đồng thời hành vi tham gia bảo hiểm thương mại người
lao động còn do ảnh hưởng bởi mạng lưới các mối quan hệ xã
hội mà họ là thành viên.
Tiết kiệm bằng tiền mặt: Người lao động có xu hướng giữ
tiền mặt để phòng thân bởi họ cho rằng hình thức này tuy không
cho nhiều lãi suất nhưng an toàn bởi người lao động có thể chủ

động kiểm soát khoản tiền mặt dự trữ của mình đồng thời có thể
nhanh chóng giải quyết các khó khăn đột xuất xảy đến. Tiết kiệm
tiền để trang trải cuộc sống khi về già được người lao động cho
là phương án tối ưu khi họ không còn khả năng tạo ra thu nhập
và sức khỏe kém.
Tham gia chơi họ/ hụi: Hình thức này chủ yếu phổ biến ở
nhóm lao động làm buôn bán nhỏ hoặc dịch vụ tại xã Tân Lập.
Chơi họ là một hình thức thu hút được nhiều lao động tại Tân
Lập tham gia bởi một phần vì lãi suất, một phần vì người dân có
nhu cầu cần tiền kinh doanh, tiêu dùng, trang trải nợ nần hoặc
đầu tư vào học hành cho con cái, đi xuất khẩu lao động…. Trong
khi vay vốn từ các ngân hàng hoặc các tổ chức đoàn thể tại địa
phương đòi hỏi thủ tục phức tạp hơn và phải có tài sản thế chấp
không thu hút được người lao động thì chơi nhóm họ đang là một
lựa chọn của nhiều lao động vùng ven để tự an sinh bởi hình thức
này giúp tối đa hóa lợi ích từ nguồn thu nhập của gia đình.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Hệ thống an sinh ở Việt Nam ngày càng phát triển hướng
tới mục tiêu đảm bảo tốt hơn các quyền cơ bản của con người,


20
trong đó có nhóm lao động khu vực phi chính thức. Các hợp
phần trong hệ thống an sinh xã hội trước đây phần lớn hướng đến
nhóm lao động khu vực chính thức thì hiện nay đã mở rộng đến
đối tượng người lao động khu vực phi chính thức với hai chương
trình quan trọng là bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Tuy nhiên, không phải người lao động nào cũng hiểu đầy đủ về
hệ thống an sinh xã hội đang được triển khai tại Việt Nam. Kết

quả nghiên cứu của luận án đã cho thấy, phần lớn người lao động
khu vực phi chính thức ở Nghĩa Tân và Tân Lập không nhận
thức đầy đủ về hệ thống an sinh xã hội bởi hệ thống an sinh hiện
nay bao gồm nhiều hợp phần khác nhau, được triển khai đến từng
nhóm đối tượng cụ thể. Phần lớn hiểu biết của người lao động
chủ yếu liên quan đến nội dung trợ giúp xã hội cho các đối tượng
dễ bị tổn thương và gặp khó khăn. Với chương trình bảo hiểm y
tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện – hai chương trình bảo hiểm quan
trọng có đối tượng thụ hưởng là người lao động, hiểu biết của
người lao động cũng không đồng nhất.
Với chương trình bảo hiểm y tế, phần đông người lao động
khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm y tế với mong muốn
giảm chi phí khám chữa bệnh trong trường hợp ốm đau bệnh tật.
Hiện nay, người lao động khá hiểu biết và đánh giá cao sự cần
thiết của loại hình bảo hiểm này. Tuy nhiên, không phải người
lao động nào cũng có khả năng tham gia bảo hiểm y tế. Quyết
định tham gia chương trình bảo hiểm y tế phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, bao gồm những yếu tố thuộc về đặc điểm cá nhân và gia
đình của người lao động, yếu tố thuộc về nội dung chính sách
cũng như quá trình triển khai chính sách trên thực tế.
Thứ nhất, với nhóm yếu tố thuộc về đặc điểm cá nhân và
gia đình của người lao động, kết quả nghiên cứu của luận án cho
thấy những yếu tố thuộc về nhóm tuổi, sự đánh giá tính cần thiết


21
của chương trình bảo hiểm, điều kiện kinh tế gia đình và yếu tố
gia đình có thành viên bị bệnh nặng cần phải điều trị có ảnh
hưởng đến quyết định tham gia bảo hiểm y tế của người lao
động. Người lao động có xu hướng tham gia bảo hiểm xã hội khi

họ càng nhiều tuổi, có điều kiện kinh tế gia đình khá giả hơn, và
có sự trải nghiệm được lợi ích của bảo hiểm y tế khi gia đình có
thành viên bị bệnh nặng cần chữa trị. Trong đó, nhận thức đúng
về sự cần thiết của bảo hiểm y tế có ảnh hưởng đặc biệt quan
trọng đến khả năng tham gia chương trình bảo hiểm của người
lao động.
Thứ hai, về khía cạnh chính sách, chương trình bảo hiểm y
tế thể hiện sự nhân văn bởi đã giúp giảm thiểu chi phí khám chữa
bệnh, tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế của người lao động. Tuy
nhiên, một số nội dung chính sách hiện nay như quy định mua
bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, tỉ lệ chi trả cũng như quy định về
nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu khiến một bộ phận người
lao động có điều kiện kinh tế khó khăn, lao động di cư khó tham
gia bảo hiểm. Điều này càng làm tăng tính dễ bị tổn thương của
nhóm lao động này.
Thứ ba, trong quá trình triển khai chính sách, sự chung tay
của chính quyền cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội trong quá
trình tuyên truyền, vận động tham gia bảo hiểm y tế đã làm tăng
tỉ lệ tham gia của người dân nói chung và người lao động phi
chính thức với chương trình bảo hiểm này. Trong khi đó, những
bất cập trong thủ tục, giấy tờ để tham gia bảo hiểm cũng như bất
cập trong quá trình khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm cũng
khiến người lao động ít tham gia bảo hiểm cũng như khám chữa
bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế.
Với chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện, hầu như rất ít
người lao động tham gia chương trình này. Có nhiều nguyên


22
nhân dẫn đến tỉ lệ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ở người

lao động rất thấp. Về phía người lao động, phần lớn người lao
động không biết đến chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện
hoặc có biết nhưng không hiểu đúng và đủ về chương trình. Một
bộ phận nhỏ người lao động có nhận thức được vai trò, tính cần
thiết của chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện nhưng đặt trong
bối cảnh tình trạng việc làm thực tế với tính chất không ổn định
từ công việc, thu nhập khiến người lao động khó đảm bảo duy trì
thời gian đóng bảo hiểm.
Trong khi đó, về mặt chính sách, các quy định về chế độ
thụ hưởng ít, thời gian đóng phí kéo dài, khó kiểm nghiệm được
lợi ích khiến chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện không thu
hút được người lao động tham gia. Ngoài ra, trong quá trình triển
khai chính sách, công tác tuyên truyền để người lao động nắm
được lợi ích của chương trình chưa được chính quyền cấp cơ sở
chú trọng khiến tỉ lệ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thấp.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng chỉ ra hiện nay các
hình thức an sinh truyền thống vẫn đang thể hiện tốt chức năng
khắc phục rủi ro. Người lao động vẫn chủ yếu dựa vào sự giúp
đỡ của các thành viên trong gia đình và họ hàng khi gặp khó
khăn, hoạn nạn. Cùng với đó, người lao động đã tự nâng cao
năng lực phòng ngừa, ứng phó với rủi ro bằng cách xây dựng cho
mình một chiến lược tự an sinh phù hợp. Tham gia bảo hiểm
thương mại, tiết kiệm tiền mặt hoặc tham gia các nhóm chơi họ
để quay vòng vốn là những cách thức nằm trong chiến lược tự an
sinh của người lao động ở Tân Lập và Nghĩa Tân.
Các kết quả của luận án đã phân tích, chứng minh đầy đủ
các chiều cạnh để chấp nhận 3 giả thuyết mà luận án đã đưa ra.
Đồng thời, việc vận dụng các lý thuyết xã hội học như lý thuyết
lựa chọn hợp lý, lý thuyết mạng lưới xã hội và cách tiếp cận chu



23
trình vòng đời trong nghiên cứu an sinh xã hội là phù hợp để giải
thích hành vi tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện
của người lao động.
2. Khuyến nghị
Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy hành vi tham gia
bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện của người lao động
khu vực phi chính thức chịu chi phối bởi nhiều yếu tố. Những
yếu tố này một mặt xuất phát từ phía bản thân người lao động,
mặt khác do nội dung chính sách và quá trình thực thi chính sách.
Vì vậy, luận án đưa ra một số vấn đề cần khuyến nghị như sau:
Với chương trình bảo hiểm y tế, để nâng tỉ lệ tham gia bảo
hiểm y tế ở người lao động khu vực phi chính thức, các giải pháp
đưa ra cần có sự kết hợp đồng bộ giữa ba chủ thể, bao gồm chủ
thể ban hành chính sách – chủ thể thực thi chính sách – người lao
động khu vực phi chính thức.
Về phía người lao động, kết quả nghiên cứu người lao
động sẽ lựa chọn tham gia bảo hiểm y tế nếu họ đánh giá bảo
hiểm y tế là cần thiết. Vì vậy, trong quá trình thực thi chính sách,
tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức, giúp
người lao động hiểu rõ lợi ích của bảo hiểm y tế cũng như bản
chất chia sẻ rủi ro của bảo hiểm y tế là một yếu tố thúc đẩy sự
tham gia bảo hiểm y tế của một số lao động.
Về mặt nội dung chính sách, tuy chương trình bảo hiểm y
tế được triển khai đến nhóm lao động khu vực phi chính thức
theo hình thức mua theo hộ gia đình nhằm tăng tỉ lệ người lao
động có bảo hiểm y tế, nhà nước cũng có hỗ trợ kinh phí mua
bảo hiểm theo hộ gia đình nhưng không phải nhóm người lao
động nào cũng có cơ hội ngang nhau trong tiếp cận chính sách.

Cùng làm việc trong khu vực phi chính thức, nhưng nhóm lao


×