Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Luận văn " THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 134 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG








KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI







Giáo viên hướng dẫn : Ths.Nguyễn Thị Việt Hoa
Sinh viên thực hiện : Mai Thanh Huyền
Lớp : A1 K38A











Hà nội 12 - 2003
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu……………………………………………………………………
1

Chương I.

Một số vấn đề chung về ODA và tình hình thu hút và sử
dụng vốn ODA tại việt nam từ năm 1993 đến nay…………

3

I.

Khái niệm và vai trò của nguồn vốn ODA…………………….
3

1

Khái niệm………………………………………………………. 3

2

Lịch sử ra đời của

ODA…………………………………………
3

3

Các hình thức của
ODA…………………………………………
5

3.1

Phân theo nguồn vốn………………………………………………… 5

3.2

Phân theo phương thức sử
dụng……………………………………
6

3.3

Phân theo góc độ nhà tài
trợ………………………………………
6

3.4

Phân theo dạng quản lý và thực hiện……………………………… 7

4.


Vai trò của ODA……………………………………………… 8

4.1

Đối với các nước nhận hỗ
trợ………………………………………
8

4.2

Đối với nước tài
trợ…………………………………………….……
10

II.

Khái quát tình hình thu hút và sử dụng ODA ở Việt
Nam……
12

1.

Những quy định của Việt Nam về quản lý thu hút và sử dụng
vốn ODA………………………………………………………

12

2.


Tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam từ 1993
đến
nay………………………………………………………………

20




Chương II

Thực trạng thu hút và sử dụng vốn ODAtại thành phố hà
nội trong thời gian qua (1993-2002)…………………………


29

I.

Giới thiệu sơ lược về Hà
Nội…………………………………
29

1.

Tổng quan về Hà Nội………………………………………… 29

1.1

Những thuận lợi của Hà Nội trong thu hút và sử dụng vốn ODA


30

1.2

Những khó khăn của Hà Nội trong thu hút và sử dụng vốn ODA

31

2.

Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 10 năm qua (1993 -
nay)
33

3.

Thực trạng cơ sở vật chất kỹ
thuật………………………………
34

II.

Tình hình vận động, thu hút và thực hiện ODA trên địa bàn
Hà Nội…………………………………………………………


35

1.


Khái quát 10 năm thu hút và sử dụng ODA trên địa bàn Hà Nội 35

2.

Lĩnh vực thu hút đầu tư
ODA…………………………………
37

3.

Các nhà tài trợ cho thành phố Hà Nội………………………… 39

4.

Tình hình thực hiện 5 dự án trọng điểm của Hà Nội hiện nay…. 40

5.

Đánh giá mức độ hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn ODA… 45
III.

Đánh giá tình hình quản lý thực hiện các dự án ODA ở Hà
Nội………………………………………………………………


47

1.


Những kết quả đạt được:……………………………………… 47

2.

Những hạn chế còn tồn tại………………………………………

48

3.

Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, vướng mắc và tiềm năng trong
chu trình cho vay, quản lý và thu hồi vốn của các tổ chức và
các nhà tài trợ cho Hà
Nội…………………………………………


52

3.1

Điểm mạnh…………………………………………………….……… 52

3.2

Điểm yếu………………………………………………………………. 53

3.3

Vướng mắc…………………………………………………….……….


54

3.4

Tiềm
năng………………………………………………………………
54

4.

Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, vướng mắc và tiềm năng trong
chu trình thủ tục quản lý ODA của phía Việt Nam……………

55

4.1

Điểm mạnh…………………………………………………….……… 55

4.2

Điểm yếu và vướng mắc……………………………………….……

56

4.3

Tiềm
năng………………………………………………………………
61





ChươngIII

Các giải pháp nâng cao khả năng thu hút và sử dụng vốn
ODA trên địa bàn Hà Nội……………………………………

62

I.

Định hướng huy động, thu hút các nguồn vốn vay và tài trợ
quốc tế của thành phố Hà Nội…………………………………

62

1.

Thứ tự ưu tiên sử dụng các nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế… 62
2.

Định hướng vận động và thu hút các nguồn vốn vay và tài trợ
quốc tế của thành phố Hà Nội…………………………………

63

2.1


Định hướng vận động ODA thời kỳ 2001-
2005……………………
63

2.2

Định hướng đến năm 2010… ……………………………………… 64

2.3

Định hướng đến năm 2020…………………………………….……. 65

3.

Lựa chọn đối tác và nguồn tài trợ……………………………… 66

3.1

Nhật Bản……………………………………………………….……… 66

3.2

Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB)………………………………………………………….……….
.

67

3.3


Các nước Tây Âu và
Ôxtrâylia………………………………………
67

3.4

Mỹ và Canada………………………………………………….……

68

3.5

Các tổ chức Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ……….

68

II.

Các giải pháp tăng cường khả năng thu hút và sử dụng các
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức quốc tế ở cấp trung
ương

69

1.

Hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng các nguồn vốn
vay và tài trợ quốc tế……………………………………………

69


2.

Tổ chức tốt công tác lập kế hoạch và chuẩn bị dự án của các cơ
quan Chính phủ…………………………………………………

70

3.

Chuẩn bị dự án có sự phối hợp nhiều hơn nữa của các nhà tài
trợ
73

4.

Tiến hành phân cấp trong công tác thẩm định và phê duyệt…… 74

5.

Tăng cường đội ngũ cán bộ kế hoạch của Chính phủ………… 74

6.

Làm tốt công tác giải phóng mặt bằng và Tái định cư…………. 76

7.

Giải quyết các vướng mắc, bất cập trong công tác đấu thầu……


76

8.

Quản lý tài chính……………………………………………… 76

III.

Các giải pháp tăng cường khả năng thu hút và sử dụng các
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức quốc tế ở thành phố Hà
Nội………………………………………………………………



77

1.

Xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng các nguồn vốn vay và
tài trợ quốc tế một cách toàn diện………………………………

77

2.

Tập trung quản lý các dự án sử dụng nguồn ODA vào một đầu
mối………………………………………………………………


78


3.

Tăng cường công tác kế hoạch hoá nguồn vốn
ODA…………
79

4.

Nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị và lập các dự án sử

dụng các nguồn vốn vay và tài trợ quốc
tế……………………………
82

5.

Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ quản lý……………

84

6.

Tăng cường công tác đánh giá và theo dõi dự án
ODA…………
84

7.

Nghiên cứu hài hoà chu trình dự án giữa chu trình dự án theo

quy định của Chính phủ Việt Nam và chu trình dự án của nhà
tài trợ……………………………………………………………


86

8.

Cải thiện mối quan hệ giữa nhà tài trợ và phía tiếp nhận……….

86

9.

Ứng dụng công nghệ tín học trong việc quản lý các dự án ODA 87

10.

Nâng cao tốc độ giải ngân……………………………………… 88

Kết luận……………………………………………………………………….
90

Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
LỜI MỞ ĐẦU

Từ sau khi chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ra đời năm 1986, Việt
Nam đã gặt hái không ít những thành công trong thời gian qua (tốc độ tăng trưởng
nhanh, công nghiệp khởi sắc, cơ sở hạ tầng được cải thiện, đời sống nhân dân được

nâng cao…). Đóng góp đáng kể cho những thành tựu này có vai trò không nhỏ của
hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Nếu vai trò của FDI thể hiện rõ nhất qua các lĩnh
vực công nghiệp, dịch vụ…thì những cải thiện đáng kể về kết cấu hạ tầng của Thủ đô
nói riêng và Việt Nam nói chung trong những năm gần đây in đậm dấu ấn của nguồn
vốn ODA.
Kể từ khi nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế vào năm 1993 cùng với
chính sách đổi mới kinh tế, đa phương hoá chính sách đối ngoại, Việt Nam đã nhận
được nhiều ODA từ các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng
phát triển Châu á (ADB)…, từ các quốc gia như Nhật Bản, Pháp, Phần Lan, Đan
Mạch,…Trong tổng giá trị ODA thì có khoảng 85% là vốn vay ưu đãi để thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.
HÀ NỘI VỚI VAI TRÒ LÀ TRUNG TÂM CHÍNH TRỊ-KINH TẾ- VĂN HOÁ
CỦA CẢ NƯỚC ĐÃ NHẬN ĐƯỢC SỰ ƯU TIÊN ĐÁNG KỂ CỦA CÁC
NHÀ TÀI TRỢ QUỐC TẾ. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ KINH TẾ XÃ HỘI
VÀ CẢI THIỆN KẾT CẤU HẠ TẦNG MÀ HÀ NỘI ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC
TRONG THỜI GIAN QUA CÓ SỰ ĐÓNG GÓP KHÔNG NHỎ CỦA ODA.
ĐẶC BIỆT NHỮNG THAY ĐỔI TRONG KẾT CẤU HẠ TẦNG ĐƯỢC
TÀI TRỢ BỞI NGUỒN VỐN ODA ĐÃ GÓP PHẦN CẢI THIỆN ĐÁNG KỂ
MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ, THÚC ĐẨY CHƯƠNG TRÌNH HUY ĐỘNG
VỐN TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
Trong kế hoạch kinh tế-xã hội của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2005
cũng như các chương trình phát triển đến các giai đoạn 2010 và 2020, chiến lược thu
hút và sử dụng nguồn vốn ODA đã được nhấn mạnh và thể hiện vai trò là nguồn vốn
quan trọng đối với hình thành cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội của
Thành phố. Những năm vừa qua công tác thu hút và sử dụng vốn ODA của Hà Nội đã
có những kết quả đáng mừng, tuy nhiên vấn đề quản lý và triển khai thực hiện các dự
án ODA cũng không tránh khỏi những vướng mắc đặc biệt là vấn đề giải ngân. Chính
vì vậy xem xét, tổng kết, đánh giá lại hoạt động ODA trong thời gian qua là vô cùng
cần thiết để có thể rút ra những bài học kinh nghiệm, tiếp tục phát huy những mặt

mạnh và kịp thời khắc phục những khó khăn vướng mắc với mong muốn có thể tận
dụng được mọi cơ hội thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu quả, góp
phần vào sự nghiệp phát triển Thủ đô trong tương lai. Đây cũng chính là mục đích
nghiên cứu của bài khoá luận của em với đề tài: : “Thực trạng và giải pháp huy
động và sử dụng vốn ODA tại thành phố Hà Nội”
Kết cấu đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I. Một số vấn đề chung về ODA và tình hình thu hút và sử dụng
vốn ODA tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay
Chương II. Tình hình thu hút và sử dụng vống ODA trên địa bàn Hà Nội giai
đoạn 1993 đến nay
Chương III. Các giải pháp nâng cao khả năng thu hút và sử dụng vốn ODA
trên địa bàn Hà Nội
Khoá luận của em được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Việt Hoa, chú Nguyễn Huy Anh cũng tập thể chuyên viên
phòng Viện trợ và Vay vốn – Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội
Qua đây em cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô giáo và các cán
bộ, chuyên viên Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội đã giúp em thực hiện đề tài này.




Chương I. Một số vấn đề chung về ODA và tình hình thu hút và sử
dụng vốn ODA tại việt nam từ năm 1993 đến nay
Khái niệm chung và vai trò của ODA
1. Khái niệm
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới đã có nhiều quan điểm
khác nhau về ODA: Trước đây, ODA được coi là một nguồn viện trợ ngân sách
của các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển. Với
quan niệm này ODA mang tính chất cho không là chủ yếu. Ngày nay trong xu
hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế đã hình thành nên một quan điểm
hoàn toàn mới về ODA. Quan điểm này cho rằng ODA là một hình thức hợp tác

phát triển của các nước đã công nghiệp hoá và các tổ chức quốc tế với các nước
đang và chậm phát triển. Theo quan điểm này, ODA là các khoản viện trợ không
hoàn lại và các khoản vốn vay với điều kiện ưu đãi của Chính phủ các nước, các tổ
chức quốc tế và cá tổ chức phi chính phủ cho các nước đang và chậm phát triể
n.
Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát trển chính thức
(Official Development Assistance- ODA) là hình thức chuyển giao nguồn vốn(
tiền tệ, công nghệ…) từ các nước công nghiệp phát triển, từ các tổ chức tài
chính quốc tế(WB, IMF, ADB,…) các tổ chức của hệ thống Liên hiệp quốc, các
tổ chức phi chính phủ (NGO) gọi chung là các đối tác tài trợ nước ngoài cho
các nước đang và chậm phát triển gọi chung là bên tiếp nhận tài trợ.
Ở Việt Nam, Chính phủ quy định “Hỗ trợ phát triển chính thức” là một hình
thức hợp tác phát triển giữa chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài, các tổ
chức quốc tế liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ.
2. Lịch sử ra đời của ODA
ODA xuất hiện vào giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 bắt đầu bằng
kế hoạch Marshall của Mỹ viện trợ cho các nước Tây Âu nhằm khôi phục kinh tế
thời kỳ hậu chiến. Tiếp đó, vào năm 1955, Hội nghị Côlômbô đã hình thành những ý
tưởng và nguyên tắc đầu tiên về hợp tác phát triển. Sau khi Tổ chức Hợp tác kinh tế
và phát triển (OECD) được thành lập vào năm 1960 cùng với sự ra đời của Uỷ ban hỗ
trợ phát triển (DAC) vào năm 1961, cộng đồng các nhà tài trợ được hình thành nhằm
phối hợp các hoạt động chung về hỗ trợ hợp tác phát triển. Năm 1972, OECD đã đưa
ra định nghĩa về ODA là “một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích là
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính
của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất
25%”
Về thực chất ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ những
nước phát triển sang những nước nghèo và chậm phát triển. Liên hiệp quốc, trong
một phiên họp toàn thể của Đại hội đồng vào năm 1961 đã kêu gọi các nước phát
triển dành 1% GNP của mình để hỗ trợ sự phát triển bền vững về kinh tế xã hội của

các nước nghèo và chậm phát triển.
Các nước tài trợ lớn trên thế giới hàng năm sẽ căn cứ vào kết quả phát triển
kinh tế của mình để từ đó điều chỉnh khối lượng ODA cung cấp cho các nước đang
phát triển. Mỗi nước tài trợ có những định hướng và ưu tiên khác nhau và có thể thay
đổi qua các thời kỳ nhưng nhìn chung thường tập trung vào các lĩnh vực: xây dựng hạ
tầng xã hội và hành chính, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, hỗ trợ sản xuất, giảm nợ,
viện trợ lương thực, viện trợ khẩn cấp.v.v…
Với tên gọi là Hỗ trợ phát triển chính thức, về nguyên tắc ODA chỉ tập trung
cho hỗ trợ cho việc khôi phục và thúc đẩy sự phát triển hạ tầng kinh tế xã hội của
quốc gia tiếp nhận ODA như xây dựng đường xá, giao thông công cộng, các công
trình thuỷ lợi, bệnh viện, trường học, hệ thống cấp thoát nước, vệ sinh môi
trường,v.v. Những dự án được đầu tư từ nguồn vốn ODA thường là các dự án không
có hoặc ít có khả năng sinh lời cao, ít có khả năng thu hút được đầu tư tư nhân. Vì
vậy nguồn vốn ODA rất có ý nghĩa đối với việc hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự
án phục vụ lợi ích công cộng, đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật nhằm thu hút đầu tư
tư nhân.
Với chủ trương của Đảng và Nhà nước “ Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc và
sức mạnh của thời đại”, cùng với chính sách ngoại giao mở cửa, thực hiện chuyển
đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường đem lại những bước phát triển về kinh tế
xã hội mạnh mẽ và đầy ấn tượng vào đầu thập kỷ 90, tạo môi trường thuận lợi cho
việc nối lại quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế.
3.Các hình thức của ODA
3.1.Phân theo nguồn vốn
- Viện trợ không hoàn lại: Nhà tài trợ cung cấp viện trợ không hoàn lại để
thực hiện các chương trình, dự án ODA (mật độ tài trợ theo sự thoả thuận với bên
nước ngoài). Nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực:
+ Hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển thể chế, tăng cường năng lực các cơ quan
Việt Nam, chuyển giao công nghệ thông qua việc cung cấp chuyên gia, người tình
nguyện, cung cấp trang thiết bị, hỗ trợ nghiên cứu, điều tra cơ bản (báo cáo tổng

quan, lập quy hoạch…) chuẩn bị và theo dõi thực hiện đầu tư (nghiên cứu tiền khả
thi, khả thi…)
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán quốc tế bằng hàng hoá.
+ Tín dụng ưu đãi theo dự án nhằm thực hiện các công trình xây dựng, lắp đặt
trang thiết bị hoặc chỉ cung cấp thiết bị. Nội dung dự án có thể bao gồm cả dịch vụ tư
vấn, chương trình đào tạo cán bộ cho Việt Nam.
+ Viện trợ chương trình nhằm lồng ghép một hoặc nhiều mục tiêu với tập hợp
nhiều dự án.
- ODA cho vay: bao gồm 2 loại:
+ ODA cho vay ưu đãi (còn gọi là tín dụng ưu đãi): là các khoản ODA cho vay
đạt yếu tố không hoàn lại ít nhất 25% giá trị khoản vay. Bên nước ngoài thường quy
định cụ thể các điều kiện cho vay ưu đãi.
+ ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA bao gồm kết hợp một phần ODA
không hoàn lại (hoặc ODA cho vay ưu đãi) và một phần tín dụng thương mại theo
điều kiện của tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD).
Nguồn vốn vay ưu đãi tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: đầu tư cơ sở hạ tầng
kinh tế-xã hội trong các ngành giao thông, năng lượng, phát triển nông nghiệp, phát
triển nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và môi trường …
- Hình thức hỗn hợp: Bao gồm các dự án được đồng tài trợ từ các nguồn vốn
hoặc các tổ chức khác nhau như dự án đa mục tiêu sông Hinh của Thuỵ Điển (SIDA),
Quỹ phát triển Bắc Âu (NDF) và Ngân hàng đầu tư Bắc Âu (NIB). Tín dụng hỗn hợp
nhằm thực hiện lồng ghép một hoặc nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều dự án ( các dự
án của Tây Ban Nha, Ý…)
3.2.Phân theo phương thức sử dụng:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA được cung cấp dưới dạng
tiền mặt hoặc hàng hoá để hỗ trợ ngân sách của Chính phủ.
- Hỗ trợ theo chương trình: khoản ODA được cung cấp để thực hiện một
chương trình nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu với một tập hợp các dự án
trong một thời gian xác định tại các địa phương cụ thể.
- Hỗ trợ kỹ thuật: Nhằm giúp phát triển thể chế, tăng cường năng lực của các

cơ quan Việt Nam, chuyển giao công nghệ thông qua cung cấp chuyên gia, người tình
nguyện, cung cấp một số trang thiết bị, nhận đào tạo cán bộ Việt Nam tại chỗ hoặc ở
nước ngoài tại các khoá học ngắn hạn dưới một năm, hỗ trợ nghiên cứu điều tra cơ
bản( như lập quy hoạch, báo cáo nghiên cứu khả thi…). Một số hỗ trợ kỹ thuật có thể
bao gồm một hoặc tất cả các nội dung nói trên.
- Hỗ trợ theo dự án: ODA được cung cấp để thực hiện các dự án xây dựng cơ
bản bao gồm xây lắp, trang thiết bị hoặc chỉ thuần tuý cung cấp thiết bị. Trong nội
dung dự án xây dựng cơ bản có thể bao gồm dịch vụ tư vấn, đào tạo cán bộ Việt Nam
tại chỗ hoặc gửi ra nước ngoài. Hỗ trợ theo dự án là hình thức chủ yếu của ODA
3.3. Phân theo góc độ nhà tài trợ:
- Hỗ trợ song phương: là khoản viện trợ của các Chính phủ các nước thoả
thuận tay đôi với nhau, thường được thực hiện thông qua tổ chức Chính Phủ- Cơ
quan quản lý hoạt động viện trợ, hợp tác phát triển kinh tế với nước ngoài của chính
phủ cung cấp viện trợ, ví dụ SIDA(Thuỵ Điển), KFW(Đức), OECF(Nhật Bản)… Tài
trợ song phương thường là tài trợ có ràng buộc (viện trợ gắn với một công việc hoặc
một công trình cụ thể và thường phải mua một phần nhất định hàng hoá hoặc dịch vụ
của nhà tài trợ). Tài trợ song phương thường dưới ba hình thức:
+ Viện trợ không hoàn lại: giành cho đối tượng là các nước nghèo và cho các
nhu cầu thiết yếu của cuộc sống: dịch vụ y tế, cung cấp nước, phát triển nông nghiệp
và nông thôn, bảo vệ môi trường… hoặc viện trợ khẩn cấp.
+ Hợp tác kỹ thuật: nhằm mục đích phát triển nguồn nhân lực cần thiết cho tiến
trình phát triển.
+ CHO VAY VỚI LÃI XUẤT ƯU ĐÃI, THỜI HẠN HOÀN TRẢ VỐN
DÀI HẠN (30-40 NĂM), THỜI GIAN ÂN HẠN DÀI (10 NĂM).
- Hỗ trợ đa phương: là nguồn hỗ trợ gián tiếp của các Chính phủ thông qua
các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế
giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)…Hỗ trợ đa phương có mục đích
chính là vì sự phát triển và tiến bộ chung của toàn thể nhân loại nên nó ít chịu ảnh
hưởng bởi mục đích kinh tế- chính trị của các nước hỗ trợ hơn so với hỗ trợ song
phương.

3.4. Phân theo dạng quản lý và thực hiện:
Tuỳ theo đặc điểm của các nguồn vốn từ các nhà tài trợ song phương, đa phương hoặc từ nguồn phi chính phủ (NGO), hiện có những hình thức
quản lý và thực hiện như sau:
- Các dự án, chương trình chịu sự quản lý qua một cấp: là dạng phổ biến
nhất, bao gồm các chương trình, dự án có Ban quản lý chịu sự điều hành trực tiếp từ
Bộ hay Tỉnh. Ví dụ: dự án cấp nước Gia Lâm của Hà Nội (Nhật Bản); dự án quốc lộ
1A (Ngân hàng thế giới) của Bộ Giao Thông Vận Tải.
- Các chương trình , dự án thuộc Bộ: bao gồm nhiều tiểu dự án thực hiện tại
nhiều địa điểm.
- Dự án qua 2 cấp quản lý: các dự án chịu sự điều hành qua 2 cấp quản lý
như: Bộ- Tổng công ty- Ban Quản lý dự án (PMU) hay Bộ-Liên hiệp- PMU.
- Các dự án do Bộ và địa phương cùng quản lý: Các dự án chịu sự điều hành
từ Bộ và địa phương. Ban Quản lý dự án (QLDA) điều hành tiến độ thực hiện, quan
hệ với đối tác, lập kế hoạch giải ngân… nhưng các tiểu dự án ở các thành phố, thị xã
cũng chịu sự điều hành từ các cơ quan thuộc tỉnh, đôn đốc thực hiện và phân bổ vốn
đối ứng.
- Các chương trình với sự lồng ghép tham gia của nhiều Bộ và địa phương:
bao gồm các chương trình lồng ghép, thực hiện nhiều mục tiêu. Ban điều hành dự án
gồm nhiều ngành, địa phương cùng tham gia thực hiện chương trình trên nhiều địa
bàn khác nhau.
4. Vai trò của ODA
4.1. Đối với các nước nhận hỗ trợ
Phần lớn các nước nhận hỗ trợ ODA là các nước nghèo, các nước đang phát
triển. Ở các nước này, quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước đang diễn ra
mạnh mẽ, khẩn trương và quá trình này cần một lượng vốn đầu tư lớn, mà các nguồn
vật chất trong nước không có hoặc không đủ, để tạo được cơ sở hạ tầng kinh tế vững
chắc phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội.
Ở các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam), nguồn ngân sách Chính
phủ khá hạn hẹp nên nguồn vốn ODA là nguồn trợ giúp có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển của những nước này. Minh chứng cụ thể

cho vai trò quan trọng của nguồn vốn này là sự có mặt của nó ở gần như mọi lĩnh vực
quan trọng cả về mặt kinh tế và xã hội như: năng lượng, giao thông vận tải, thuỷ lợi,
nông lâm nghiệp, thông tin liên lạc, y tế, dân số, giáo dục đào tạo, môi trường môi
sinh, cải thiện cung cấp nước sinh hoạt ở các Thành phố lớn…
Trước hết, ODA góp phần tích cực trong việc tạo điều kiện khai thác triệt để
các tiềm năng kinh tế của đất nước một cách hiệu quả nhằm thu hút các nguồn lực từ
bên ngoài như vốn, công nghệ… tạo điều kiện phát huy nguồn nội lực để nhân nó lên
gấp bội.
Thông qua ODA , nhiều công nghệ tiên tiến được chuyển giao góp phần vào
việc tăng lượng thông tin và trình độ công nghệ cho nước tiếp nhận đồng thời góp
phần nâng cao trình độ của những cán bộ sử dụng, vận hành , tạo cho họ điều kiện,
thời cơ học hỏi nắm bắt công nghệ mới để nâng cao kiến thức.
ODA thực hiện dưới hình thức các dự án kỹ thuật (TA) cũng như góp phần tích
cực vào việc tăng cường năng lực cho nhiều cơ quan hữu quan của ta, mở rộng tầm
nhìn và bổ sung kiến thức trên nhiều lĩnh vực công nghệ, quản lý, kinh doanh cho
đông đảo quan chức Chính phủ, các nhà quản lý kinh doanh Việt Nam cả trong khu
vực quốc doanh và tư nhân.
Nguồn vốn ODA còn giúp hỗ trợ (bằng tiền, kinh nghiệm, tri thức) tăng cường
năng lực phát triển thể chế cho nhiều lĩnh vực quan trọng như luật pháp, tài chính,
ngân hàng, cải cách hành chính công, kinh tế vĩ mô, hội nhập khu vực, …
Việc sử dụng ODA đầu tư cho một số lĩnh vực cá biệt mà trước hết là các lĩnh
vực sản xuất trong đó có các dự án góp phần giải quyết các vấn đề sản xuất, tạo công
ăn việc làm cho người lao động. Không những vậy, chất lượng người lao động cũng
được nâng lên rõ rệt. Ngoài ra những học bổng tạo điều kiện cho các cán bộ được đào
tạo, đào tạo lại và đào tạo nâng cao về nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, quản lý
kinh tế, ngân hàng, tài chính, pháp luật thì chính các dự án đang thực hiện cũng là
môi trường quan trọng và cần thiết cho các đối tác thụ hưởng Việt Nam để nâng cao
trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng quản lý hiện đại do có điều kiện trực tiếp làm
việc học hỏi từ các chuyên gia nước ngoài sang làm việc trong chương trình dự án.
Một lĩnh vực nữa hết sức quan trọng chiếm phần lớn nguồn vốn ODA là việc

phát triển cơ sở hạ tầng. Đây là lĩnh vực ưu tiên trong tiến trình công nghiệp hoá-hiện
đại hoá đất nước, cũng là lĩnh vực phải đầu tư lớn và gần như phải cải tạo hoặc xây
dựng mới lại toàn bộ nhưng lại là lĩnh vực khó thu hút các nguồn vốn đầu tư cả trong
và ngoài nước do vốn đầu tư lớn, khó thu hồi vốn nhất là trong điều kiện các cơ chế
chính sách về đầu tư của chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư và
nguồn ngân sách nhà nước thì rất hạn chế. Nguồn vốn ODA trong lĩnh vực này không
chỉ là vấn đề vốn mà một vấn đề cũng quan trọng là các kinh nghiệm và trình độ
trong việc xây dựng các quy hoạch tổng thể để đảm bảo sự phát triển hài hoà của một
khu vực.
Một số nước có được sự phát triển kinh tế cao như hiện nay như Tây Âu, Nhật, Hàn Quốc…đều in đậm dấu ấn của ODA: Sau chiến tranh thế
giới thứ 2 các nước Tây Âu đều bị kiệt quệ, tàn phá sau chiến tranh. Nhưng nhờ viện trợ Marshall của Mỹ mà các nước này dần dần phục hồi và
phát triển kinh tế. Các nước châu á như Nhật Bản, Hàn Quốc đều là đồng minh chiến lược của Mỹ được Mỹ tài trợ nhiều ODA do đó như ngày
nay chúng ta thấy họ đã và đang trở thành cường quốc về kinh tế.
Đối với Việt Nam, Viện trợ phát triển chính thức được nối lại vào năm 1993 từ
đó đến nay luôn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước đặc biệt
trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Tổng số vốn cam kết của nhà tài trợ tính từ năm 1993-
2001 là 19,94 tỷ USD. Tổng vốn đã được giải ngân tăng từ 413 triệu USD vào năm
1993 lên 1650 triệu USD vào năm 2000 chiếm vào khoảng 65% chi tiêu cơ bản của
Chính phủ. Con số thực tế đó cho thấy ODA ngày càng có vị trí cao. Đặc biệt trong
các năm 1997,1998,1999 khi mà dòng FDI giảm mạnh do cuộc khủng hoảng tài chính
khu vực thì ODA đã khẳng định vai trò của mình trong công cuộc phát triển kinh tế.
Như vậy, tuy lượng vốn ODA không thật lớn khi so với nguồn vốn FDI nhưng
đang ngày càng tỏ rõ tầm quan trọng của mình nhất là khi sự cạnh tranh trong môi
trường thu hút đầu tư ở các nước đang phát triển diễn ra khá gay gắt. Việc tranh thủ
và sử dụng tốt nguồn vốn này đang là yêu cầu đặt ra cho các quốc gia đang phát triển.
4.2 Đối với nước tài trợ
Vốn ODA hoặc là không hoàn lại hoặc là cho vay với những điều kiện quá ưu
đãi thực chất như một khoản cho không đã đặt ra một câu hỏi là các nước tài trợ thu
được bao nhiêu lợi cho việc chi những khoản tiền lớn như vậy? Có thể nói, các mục
tiêu về kinh tế và chính trị là những động lực lớn nhất của các nước cung cấp vốn

ODA
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ thì các
nước đang phát triển với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú còn chưa được khai
thác, nguồn nhân lực dồi dào và giá nhân công rẻ, một thị trường tiêu thụ hàng hoá
đầy tiềm năng và một hệ thống chính sách tương đối cởi mở… đang ngày càng trở
nên hấp dẫn và đầy hứa hẹn. Mặt khác là sự phát triển về công nghệ, sản xuất đang
diễn ra quá nhanh, sự dư thừa tư bản tương đối ở các nước phát triển và các dự án đầu
tư tại các nước đang phát triển thiếu vốn thường đem lại tỷ suất lợi tức cao hơn so với
các dự án đầu tư ở các nước dồi dào vốn cùng với giá lao động trong nước đang tăng
cao là những lý do khiến cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài sôi động và nhộn nhịp
hơn bao giờ kể từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II.
Để có thể tạo điều kiện cho các công ty nước mình hoạt động thuận lợi hơn
ở các nước đang phát triển, Chính phủ các nước chủ đầu tư thường tìm cách tạo
cho nước mình một vị thế và cung cấp ODA là một trong những giải pháp hàng
đầu của họ. Họ thường thông qua ODA với các ràng buộc kèm theo để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá của mình, thúc đẩy mở rộng quan hệ mua
bán, hợp tác với các nước nhận hỗ trợ.
TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU, CÁC DỰ ÁN ODA THƯỜNG TẬP TRUNG
VÀO CÁC LĨNH VỰC NHƯ XÂY DỰNG CƠ SỞ HẠ TẦNG, HỖ TRỢ KỸ
THUẬT, HỢP TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC, HỖ TRỢ GIÁO DỤC, Y
TẾ…MỘT MẶT GIÚP ĐỠ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN KHẮC PHỤC,
GIẢI QUYẾT NHỮNG KHÓ KHĂN, YẾU KÉM, MẶT KHÁC GIÚP HỌ TẠO
DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT BAN ĐẦU.
Ở giai đoạn tiếp theo khi bắt đầu triển khai các dự án thì thông qua thoả thuận
với nước tiếp nhận, nói chung họ thường yêu cầu phải mua và nhập máy móc, nguyên
vật liệu của các công ty của nước mình qua đó giúp các công ty này tiêu thụ sản
phẩm, hàng hoá.
Sang giai đoạn ba, khi các nước nhận tài trợ đã có được cơ sở vật chất tương
đối thì các nước tài trợ sẽ tiến tới đẩy mạnh đầu tư trực tiếp và chuyển giao công nghệ
kỹ thuật cao như một bộ phận trong chiến lược mở rộng thị quy mô của các công ty

đa quốc gia nhằm chiếm lĩnh thị trường. Nhìn về mặt tổng thể thì điều này mang lợi
ích cho cả hai bên nước nhận và nước cung cấp viện trợ.
Trong quá trình tài trợ đó, các nước tài trợ không chỉ chịu ảnh hưởng về mặt
kinh tế mà còn tăng ảnh hưởng cả về mặt chính trị. Bởi vì trong các dự án ODA ngoài
những sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật còn là những đề xuất về chính sách như: xây dựng
các thể chế, kế hoạch phát triển kinh tế, tài chính, xây dựng quy hoạch… Như vậy,
thực chất các nước tài trợ ODA đã phần nào tham gia vào các kế hoach phát triển
kinh tế xã hội của các nước tiếp nhận ODA, qua đó khuyến khích phát triển quan hệ
song phương phục vụ cho chính sách và công tác đối ngoại của họ. Chính sách ODA
của chính phủ Nhật Bản là một minh chứng cụ thể cho việc này. Việc một nước giàu
như Brunei vẫn nhận được ODA của Nhật Bản chỉ có thể lý giải rằng Brunei có một
vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của Nhật Bản.
Cũng có thể kể đến sự viện trợ mạnh mẽ của Nhật Bản cho khu vực Đông Nam
Á. Đây là khu vực có mức tăng trưởng vào loại nhanh nhất thế giới và đó chính là lý
do cho viện trợ mạnh mẽ của Nhật. Giúp các nước này phát triển cơ sở hạ tầng và đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá ở các nước này cũng là tạo môi trường đầu tư thuận
lợi cho phía Nhật Bản. Thoạt nhìn thì có vẻ như sự hỗ trợ ODA của Nhật Bản chẳng
có mấy liên quan tới sự thống trị của hàng Nhật trên thị trường các nước này (nhất là
trong các lĩnh vực ô tô, hàng điện tử…) nhưng thực ra việc Chính phủ các nước tiếp
nhận phải tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các công ty Nhật là điều kiện tiên quyết
trong việc đàm phán ưu đãi ODA và đây chính là phần hiệu quả từ ODA của Chính
phủ Nhật Bản đưa lại cho chính người Nhật. Mặt khác, sự hỗ trợ ODA của chính phủ
Nhật Bản đã tạo sự yên tâm và đảm bảo cho các doanh nhân Nhật Bản đổ vốn vào
những thị trường này.
Như vậy, ODA vừa mang lại lợi ích cho các bên trực tiếp tham gia vừa góp
phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của toàn thế giới.
II. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA Ở VIỆT
NAM.
1.Những quy định của Việt Nam về quản lý thu hút và sử dụng vốn ODA
Ngay từ Hội nghị đầu tiên của nhà tài trợ dành cho Việt Nam (tháng 11 năm

1993), Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố quan điểm của mình về vấn đề quản lý và sử
dụng ODA: “Điều quan trọng là các nguồn vốn bên ngoài phải được sử dụng có hiệu
quả. Chính phủ Việt Nam sẽ là người gánh chịu các giá phải trả cho sự thất bại nếu
nguồn vốn này không được sử dụng có hiệu quả”.
TRƯỚC NĂM 1993, VIỆC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
VAY VÀ TÀI TRỢ QUỐC TẾ NÓI CHUNG VÀ ODA NÓI RIÊNG ĐƯỢC
ĐIỀU TIẾT BỞI TỪNG QUYẾT ĐỊNH RIÊNG LẺ CỦA THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI TỪNG CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN VÀ NHÀ TÀI
TRỢ CỤ THỂ. THIẾU CÁC VĂN BẢN PHÁP QUY CÓ TÍNH CHẤT
ĐỒNG BỘ CHO PHÉP QUẢN LÝ CHU TRÌNH DỰ ÁN TỪ KHÂU VẬN
ĐỘNG, KÝ KẾT CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ ODA, TỔ CHỨC THỰC
HIỆN ĐẾN KHÂU THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
DỰ ÁN ĐÃ LÀ MỘT CẢN TRỞ TRONG VIỆC ĐIỀU PHỐI CÁC NGUỒN
TÀI TRỢ ĐỂ PHỤC VỤ CÁC MỤC TIÊU ƯU TIÊN CỦA CÔNG CUỘC
PHÁT TRIỂN.
Tại hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã cam
kết phát triển cơ sở hạ tầng pháp lý để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay
và tài trợ quốc tế. Ngày 30/08/1993 Chính phủ đã ban hành nghị định 58/CP về quy
chế vay và trả nợ nước ngoài và ngày 15/03/1994 Chính phủ đã ban hành nghị định
số 20/CP về quy chế quản lý và sử dụng ODA. Đây là những văn kiện pháp lý đầu
tiên của Chính phủ về thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế.
Nghị định 58/CP và nghị định 20/CP ra đời đã góp phần đưa công tác quản lý
và sử dụng nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế đi vào nền nếp, đồng thời đáp ứng sự
trông đợi của nhà tài trợ. Hai nghị định này bước đầu đã có tác dụng thúc đẩy hình
thành cơ cấu tổ chức quản lý nguồn vốn vay và tài trợ tập trung vào một đầu mối. Các
đơn vị đầu mối quản lý đầu tư đã được hình thành ở các Bộ (các Vụ Kế hoạch và Đầu
tư), các tỉnh và Thành phố trực thuộc trung ương (các Sở Kế hoạch và Đầu tư).
Căn cứ vào tình hình thực tế thi hành Nghị định 58 và Nghị định 20, lắng nghe
ý kiến của cộng đồng tài trợ quốc tế, Chính phủ Việt Nam nhận thấy, bên cạnh những
mặt tích cực hai Nghị định này cũng bộc lộ những yếu điểm cần bổ sung, hoàn chỉnh.

Do vậy, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu và bổ sung hoàn
chỉnh hai Nghị định nêu trên.
Ngày 05/08/1997 Chính phủ đã ban hành Nghị đinh 87/CP về quy chế quản lý
và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA thay thế Nghị định 20/CP và
ngày 07/11/1998 Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 90/CP về quy chế vay và
trả nợ nước ngoài thay thế cho Nghị định 58/CP. Cùng với việc ban hành Nghị định
này, các Bộ và các Ngành đã ban hành các thông tư hướng dẫn về việc quản lý và sử
dụng nguồn vốn ODA, như thông tư số 15/1997/TT-BKH ngày 24/10/1997 hướng
dẫn thực hiện quy chế quản lý và sử dụng ODA, ban hành kèm theo Nghị định
87/CP…
Ngày 04/05/2001 Nghị định số 17/2001/NĐ-CP về việc ban hành quy chế quản
lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức và Nghị định số 52/1999/NĐ-CP về
việc ban hành quy chế quản lý và đầu tư xây dựng ra đời đã một bước nữa hoàn thiện
thêm khung pháp lý về quản lý và sử dụng ODA của Việt Nam.
Mục tiêu của các Nghị định này là tạo ra một môi trường pháp lý thông thoáng
và linh hoạt hơn cho nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế để một mặt tăng cường trách
nhiệm mở rộng quyền hạn của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc
Chính phủ, các tỉnh thành phố trực thuộc TW trong việc quản lý và sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế, mặt khác duy trì sự quản lý tập trung của Chính
phủ đối với nguồn lực quan trọng này.
Ngày 26/04/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số
64/2001/QĐ-TTg về quản lý và sử dụng nguồn viện trợ phi chính phủ nước ngoài,
thay thế Quyết định số 28/199/ QĐ-TTg ngày 23/02/1999. Ngày 04/2001/TT-BKH
hướng dẫn thi hành Quyết định trên.
Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã góp phần đưa
công tác quản lý nhà nước về nguồn viện trợ phi chính phủ nước ngoài lâu nay bị
buông lỏng vào nề nếp, đồng thời làm rõ trách nhiệm của các cấp trong quá trình
quản lý và sử dụng nguồn tài trợ này.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên Bộ số
02/2003/TTLT/BKH-BTC ngày 17/03/2003 hướng dẫn lập kế hoạch tài chính đối với

các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Tuy
ban hành chậm, song hy vọng rằng Thông tư liên tịch này sẽ góp phần cải thiện kế
hoạch tài chính của các dự án ODA, góp phần thúc đẩy giải ngân trong những năm
tới.
Như vậy đặc điểm quan trọng nhất của các dự án ODA hiện nay là được quản
lý và thực hiện theo Nghị định 52/CP và Nghị đinh 17/CP. Theo hai Nghị định này
thì việc thu hút, quản lý và sử dụng ODA được tiến hành theo các bước sau:
1.Xây dựng danh mục các chương trình, dự án ưu tiên vận động và sử dụng
ODA
Trước quý IV hàng năm, cơ quan chủ quản thông báo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư văn bản danh mục chương trình dự án ưu tiên vận động
ODA, kèm theo đề cương cho từng chương trình, dự án trong đó nêu rõ sự cần thiết, tính phù hợp với quy hoạch mục tiêu, kết quả dự kiến đạt
được, các hoạt động chủ yếu, dự kiến thời gian thực hiện, dự kiến mức vốn ODA và vốn đối ứng.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Văn
phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, các Bộ và cơ quan quản lý xem xét, tổng hợp danh
mục dự án ưu tiên vận độn ODA của các cơ quan chủ quản, lập danh mục chương
trình dự án ưu tiên đưa vào báo cáo của Chính phủ để vận động ODA tại Hội nghị
thường niên Nhóm tư vấn các nhà tài trợ.
2. Vận động ODA
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối của Chính phủ trong việc chuẩn bị
Hội nghị CG và các diễn đàn quốc tế về ODA cho Việt Nam. Cơ quan cấp bộ, ngành
chủ trì chuẩn bị và tổ chức hội nghị điều phối ODA theo ngành với sự phối hợp, đồng
chủ trì của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì tổ chức hội nghị
vận động ODA theo lãnh thổ với sự hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Cơ quan
đại điện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài chủ động tiến hành vận động ODA
theo sự hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3. Đàm phán, ký kết điều ước quốc tế khung về ODA.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Văn
phòng chính phủ và các cơ qan có nhu cầu ODA chuẩn bị nội dung và tiến hành đàm
phán, ký kết với Nhà tài trợ các điều ước quốc tế khung về ODA.
Việc ký kết các điều ước quốc tế khung về ODA thực hiện theo quy định của

Pháp lệnh về ký kết và Thực hiện điều ước quốc tế.
4. Thông báo điều ước quốc tế khung về ODA.
Sau khi điều ước quốc tế khung về ODA đã được ký kết, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư thông báo bằng văn bản cho Cơ quan chủ quản về chương trình, dự án được nhà tài
trợ đồng ý xem xét tài trợ trong từng thời kỳ để tiến hành các bước chuẩn bị tiếp theo.
5. Chuẩn bị văn kiện chương trình, dự án ODA.
Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo chính thức
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về danh mục các chương trình, dự án ODA đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt và Nhà tài trợ đồng ý xem xét tài trợ, Thủ tướng Cơ quan
chủ quản ra quyết định thành lập ban chuẩn bị chương trình, dự án, bổ nhiệm Trưởng
ban và một số cán bộ chủ chốt của Ban. Trong thành phần của Ban chuẩn bị chương
trình, dự án phải có một số cán bộ đủ năng lực và điều kiện để làm nòng cốt cho Ban
quản lý chương trình dự án giai đoạn sau. Ban chuẩn bị chương trình, dự án có nhiệm
vụ lập kế hoạch chuẩn bị chương trình dự án trình Cơ quan chủ quản phê duyệt.
6. Thẩm định, phê duyệt nội dung chương trình, dự án ODA.
Chương trình, dự án ODA trình cấp có thẩm quyền thẩm định phải có trong
danh mục được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Nhà tài trợ thoả thuận tài trợ.
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các chương trình, dự án ODA nhóm A như:
các chương trình tín dụng, hỗ trợ cán cân thanh toán, dự án phát triển cấp quốc gia,
cấp ngành hoặc liên quan vùng lãnh thổ, các dự án có mục tiêu liên quan đến thể chế
và chính sách nhà nước, pháp luật, cải cách hành chính, văn hoá thông tin, an ninh,
quốc phòng, dự án có mức đầu tư theo quy định hiện hành về quản lý đầu tư và xây
dựng, các chương trình hỗ trợ kỹ thuật có mức vốn từ 1 triệu USD trở lên.
Thủ trưởng cơ quan chủ quản phê duyệt các chương trình, dự án ODA không
thuộc nhóm A.
Trong thời hạn 20 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm định,
Thủ tướng Chính phủ ra quyết định phê duyệt đối với chương trình, dự án ODA
thuộc nhóm A. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo
thẩm định, Thủ trưởng cơ quan chủ quản ra quyết định phê duyệt đối với các chương
trình, dự án ODA thuộc thẩm quyền của mình.

7. Đàm phán, ký kết, phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước quốc tế về ODA
*Chủ trì đàm phán ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA sẽ do các cơ quan
sau đảm trách.
ODA không hoàn lại do Cơ quan chủ quản
ODA vốn vay do Bộ Tài Chính
ODA do các tổ chức tài chính quốc tế tài trợ do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
Trong những trường hợp cần thiết theo yêu cầu của Nhà tài trợ, Thủ tướng
chính phủ giao cho một số cơ quan thích hợp đàm phán.
*Ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA
Sau khi kết thúc đàm phán, Cơ quan chủ trì đàm phán phải thông báo bằng văn
bản cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên
quan kết quả đàm phán điều ước quốc tế cụ thể về ODA.
Đối với các chương trình dự án sử dụng ODA vốn vay và các chương trình do
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, sau khi có ý kiến của các cơ quan có liên quan, cơ
quan chủ trì đàm phán trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kết quả đàm phán và
quyết định người được uỷ quyền thay mặt Chính phủ ký kết điều ước cụ thể về ODA
với nhà tài trợ.
Đối với chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA không hoàn lại do Thủ
trưởng cơ quan chủ quản chủ trì phê duyệt, sau khi có ý kiến của cơ quan liên quan,
Thủ tướng Chính phủ chủ trì đàm phán được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền ký kết
điều ước quốc tế cụ thể về ODA với Nhà tài trợ.
Trường hợp điều ước quốc tế cụ thể về ODA phải được ký kết với danh nghĩa
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch
nước xem xét, quyết định.
Việc ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA thực hiện theo quy định của Pháp
lệnh về Ký kết và Thực hiện điều ước quốc tế, trường hợp có quy định khác trong
thoả thuận giữa cấp có thẩm quyền của Việt Nam với Nhà tài trợ thì thực hiện theo
thoả thuận với nhà tài trợ.
8. Thực hiện chương trình, dự án ODA.

Chỉ định chủ dự án: Cơ quan cấp Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan
hành chính sự nghiệp trực thuộc được phép làm chủ dự án đối với các chương trình
dự án thuộc diện Nhà nước cấp phát, nhưng không được làm chủ dự án đối với các
chương trình, dự án ODA thuộc diện Nhà nước cho vay lại, trừ trường hợp đặc biệt
có chương trình dự án thuộc diện vừa được cấp phát vừa phải vay lại thì Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét,
quyết định.
Ban quản lý chương trình dự án ODA: Cơ quan chủ quản ban hành quyết định
thành lập Ban Quản lý dự án ngay sau khi văn kiện chương trình, dự án ODA được
cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Ban quản lý chương trình dự án ODA( sau đây gọi tắt là Ban Quản lý dự án) là
cơ quan đại diện cho Chủ dự án, được toàn quyền thay mặt Chủ dự án thực hiện các
quyền hạn và nhiệm vụ được giao từ khi bắt đầu thực hiện cho đến khi kết thúc dự án,
kể cả việc quyết toán, nghiệm thu, bàn giao đưa dự án vào khai thác sử dụng.
Vốn đối ứng chuẩn bị thực hiện và thực hiện dự án ODA:
Vốn đối ứng chuẩn bị thực hiện và thực hiện dự án ODA thuộc diện Ngân sách
Nhà nước cấp do Cơ quan chủ quản bố trí đầy đủ, kịp thời, phù hợp với tiến độ quy
định trong văn kiện dự án ODA đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, phù hợp với
quy định của pháp luật về Ngân sách Nhà nước và điều ước quốc tế về ODA đã ký
kết.
Các dự án ODA thuộc diện Nhà nước cho vay lại từ Ngân sách và các dự án
một phần cấp phát một phần cho vay thì Chủ dự án phải lo toàn bộ vốn đối ứng và
phải giải trình đầy đủ về khả năng và kế hoạch đảm bảo vốn đối ứng trước khi ký hợp
đồng vay lại. Trong trường hợp này, Chủ dự án được ưu tiên vay từ các nguồn tín
dụng của Nhà nước hoặc từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Trường hợp gặp khó khăn đột xuất
về vốn đối ứng, Chủ dự án phải báo cáo Cơ quan chủ quản để có biện pháp giải
quyết.
Đối với các dự án ODA không kịp bố trí vốn đối ứng trong kế hoạch ngân sách
hàng năm hoặc có nhu cầu đột xuất về vốn đối ứng, Chủ dự án và Cơ quan chủ quản
phải có văn bản gửi Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính yêu cầu xem xét, quyết

định tạm ứng vốn đối ứng từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương và sau đó sẽ khấu
trừ vào kế hoạch vốn đối ứng của kỳ kế hoạch tiếp theo.
Thuế đối với các dự án ODA:
Thuế áp dụng đối với các chương trình, dự án ODA được thực hiện theo quy
định hiện hành. Các khoản lãi tiền vay từ nguồn ODA vốn vay không thuộc diện phải
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy
định khác về thuế liên quan đến việc thực hiện các dự án ODA thì thực hiện theo quy
định của điều ước quốc tế đó.
Giải phóng mặt bằng:
Việc đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cự trong các chương trình dự án
ODA thực hiện theo quy định hiện hành của Nhà nước. Trường hợp điều ước quốc tế
về ODA đã được ký kết giữa Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam có quy định liên
quan đến giải phóng mặt bằng, tái định cư khác với quy định của Việt Nam thì thực
hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó.
Đấu thầu:
Việc đấu thầu đối với các chương trình dự án ODA được thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Quản lý xây dựng, nghiệm thu, bàn giao, quyết toán:
Việc thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán, cấp giấy phép xây
dựng, quản lý chất lượng công trình, nghiệm thu, bàn giao, bảo hành, bảo hiểm công
trình xây dựng thuộc chương trình, dự án ODA đều được thực hiện theo quy định của
Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng.
9. Theo dõi, đánh giá, nghiệm thu, quyết toán và bàn giao kết quả chương
trình, dự án ODA.
Theo dõi chương trình, dự án ODA là hoạt động thường xuyên và định kỳ
cập nhật tình hình thực hiện chương trình, dự án.
Đánh giá chương trình, dự án là hoạt động thường xuyên định kỳ nhằm
phân tích làm rõ tương quan kết quả đạt được trên thực tế so với mục tiêu cần đạt

×