Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

luận văn kinh tế luật ảnh hƣởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần môi trƣờng đô thị và công nghiệp URENCO 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.32 KB, 50 trang )

TÓM LƯỢC
Suy thoái kinh tế là là một pha tất yếu trong chu kỳ phát triển kinh tế. Mà hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ phát triển kinh tế.
Vì vậy khi kinh tế bị suy thoái tức là tăng trưởng kinh tế giảm sút thì sẽ tác động xấu
đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng mức độ tác động của suy thoái đến
các doanh nghiệp là khác nhau tùy thuộc vào ngành nghề kinh doanh và chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp.Có rất nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc đang đứng
trên bờ vự phá sản, chỉ kinh doanh cầm chừng và hầu hết các doanh nghiệp đều bị sụt
giảm doanh thu và lợi nhuận, bị thu thẹp thị trường kinh doanh.
Tác giả phân tích tình trạng suy thoái trong nước và trên thế giới đồng thời phân
tích các khía cạnh của hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần môi trường đô thị
và công nghiệp URENCO 11 để từ đó đánh giá tác động của suy thoái kinh tế đến
nguồn vốn, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, giá cả, lượng cầu và thị trường tiêu thụ của
Công ty. Bằng việc chia nhỏ các yếu tố hoạt động kinh doanh của Công ty, tác giả có
thể đánh giá được chi tiết ảnh hưởng của suy thoái đến hoạt động kinh doanh của Công
ty và đưa ra được các kết luận và giải pháp để Công ty khắc phục ảnh hưởng của suy
thoái đến hoạt động kinh doanh của mình.

i


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian thực tập Công ty Cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp
URENCO 11, em được tìm hiểu về hoạt động kinh doanh và tình hình thực hiện chi
phí và lợi nhuận của Công ty, cùng với sự hướng dẫn của các thầy cô trong bộ môn
Kinh tế vĩ mô, em quyết định lựa chọn đề tài: “Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến
hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp
URENCO 11” làm khóa luận tốt nghiệp. Với thời gian tìm hiểu thực tế về hoạt động
kinh doanh của Công ty và những kiến thức được học ở trường em đã nghiên cứu và
hoàn thiện đề tài. Nhưng do quỹ thời gian có hạn và kiến thức thực tế cũng như kinh
nghiệm viết đề tài còn thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô


giáo để bài viết được hoàn thiện hơn.
Trong quá trình viết và hoàn thiện đề tài, em xin chân thành cảm ơn:
Ban giám hiệu trường đại học Thương Mại đã tạo điều kiện cho em được học tập
và bổ sung kiến thức để có nền tảng kiến thức nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn
này.
Đồng thời em xin cảm ơn Thạc sĩ Vũ Thị Thanh Huyền - Giảng viên bộ môn
kinh tế học vĩ mô đã hướng dẫn, chỉnh sửa tận tình giúp em hoàn thiện khóa luận tốt
nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các lãnh đạo và cán bộ nhân Công ty Cổ phần môi
trường đô thị và công nghiệp URENCO 11 đã nhiệt tình giúp đỡ em tìm hiểu, nghiên
cứu tình hình kinh doanh thực tế của Công ty.
Hà Nội, ngày tháng
năm 2017
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Lệ Thủy

ii


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

IMF
GDP
DN
DT
FED

KT – XH
CBCNV
CNVC

International Monetary Fund – Quỹ tiền tệ Quốc tế
Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm quốc nội
Doanh nghiệp
Doanh thu
Cục dự trữ liên bang
Kinh tế - Xã hội
Cán bộ công nhân viên
Công nhân viên chức

iii


iv


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 là một cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất mà
trăm năm mới có một lần. Nó bắt nguồn từ cuộc khủng khoảng tín dụng và nhà đất ở
Mỹ sau đó lan rộng ra các nước châu âu và nhiều nước trên thế giới. Cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới đã làm cho nền kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái,
làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn và thị trường lao động và tác
động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội.Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ
chưa được giải quyết xong thì năm 2010 lại xuất hiện cuộc khủng hoảng nợ công châu
Âu với điểm bùng nổ đầu tiên là Hy Lạp đã làm cho nền kinh tế bị suy thoái nặng nề.
Đến năm 2013 tức là đã sáu năm kể từ khi xuất hiện khủng hoảng tài chính ở Mỹ nền

kinh tế thế giới vẫn chưa thoát khỏi suy thoái.
Việt Nam ra nhập WTO vào năm 2007 và từ đó đã hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới. Do đó, khi nền kinh tế thế giới bị suy thoái thì nền kinh tế Việt Nam
cũng không thể thoát khỏi hiện trạng chung của nền kinh tế toàn cầu. Tăng trưởng
GDP qua các năm liên tục giảm, năm 2012 tăng trưởng GDP là 5,03% thấp nhất trong
mười ba năm trở lại đây. Năm 2013 kinh tế bước đầu hồi phục, tăng trưởng GDP là
5,42%, tăng hơn năm 2012 là 0,39% nhưng vẫn thấp so với những năm trước đó nên
vẫn chưa kéo nền kinh tế thoát khỏi suy thoái. Kinh tế Việt Nam trong năm 2014 khả
quan hơn 2013 với ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì vững chắc, tăng trưởng kinh tế
phục hồi rõ nét và đồng đều, thị trường tài chính có những chuyển biến tích cực, cân
đối ngân sách được cải thiện. Khó khăn của của doanh nghiệp và hộ gia đình cũng
giảm bớt.Sang năm 2015 tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục xu thế phục hồi và mục tiêu
tăng trưởng 6,2%. Trong khi đó, môi trường kinh tế vĩ mô có điều kiện để duy trì ổn
định, nhất là đối với mục tiêu kiểm soát lạm phát. Với dự báo giá dầu thế giới trong
năm 2015 giảm 33% và giả định giá xăng dầu trong nước giảm tương ứng, Ủy ban
Giám sát Tài chính Quốc gia ước tính giá thành sản phẩm sản xuất trong nước sẽ giảm
3%. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi do sự cải thiện về tiêu dùng và đầu tư tư nhân, tăng
trưởng trong năm vẫn còn những khó khăn do: kinh tế toàn cầu phục hồi
chậm và không ít bất trắc; giá dầu giảm ảnh hưởng đến cân đối ngân sách và khả
năng đáp ứng vốn cho đầu tư phát triển; giá hàng hóa thế giới giảm, trong khi tốc độ
tăng xuất khẩu đang có xu hướng giảm nhanh, nhất là khu vực nước ngoài.
Cuộc suy thoái kinh tế tác động rất nhiều đến kinh tế và xã hội Việt Nam. Nó làm
cho một số ngân hàng mất khả năng thanh toán, rút lại tín dụng dẫn đến các doanh
nghiệp khó tiếp cận được với nguồn vốn, lãi suất tăng làm tăng chi phí vốn ảnh hưởng
đến sản xuất kinh doanh.Suy thoái còn làm giảm đầu tư vào Việt Nam, giảm xuất
1


khẩu, tăng tỉ lệ thất nghiệp và đặc biệt là có rất nhiều doanh nghiệp bị phá sản.Theo
thống kê đầu năm 2013, cơ quan thường trực của quốc hội là ủy viên ban thường vụ

quốc hội đã chính thức thông báo có ít nhất 100000 doanh nghiệp phải giải thể và phá
sản, chiếm 15-20% tổng số doanh nghiệp đăng ký hoạt động.
Ngành môi trường là một trong các ngành chịu ảnh hưởng của cuộc suy thoái
kinh tế. Vì khi nền kinh tế suy thoái làm cho các doanh nghiệp ít chú trọng với việc
bảo vệ môi trường doanh nghiệp cũng như là xử lý chất thải trong khâu sản xuất. Công
ty Cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp URENCO 11 là Công ty chuyên kinh
doanh xử lý chất thải nên nó chịu ảnh hưởng trực tiếp. Cũng giống như các Công ty
khác, suy thoái kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần môi
trường đô thị và công nghiệp URENCO 11 như là khó khăn trong vay vốn, doanh thu
và lợi nhuận giảm, lượng cầu về xử lý chất thải giảm.
Xuất phát từ thực tế trên, em quyết định chọn đề tài “Ảnh hưởng của suy thoái
kinh tế đến hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần môi trường đô thị và công
nghiệp URENCO 11” nhằm phân tích tác động của suy thoái kinh tế đến hoạt động
kinh doanh của Công ty, các giải pháp ứng phó của Công ty trước tác động của suy
thoái kinh tế và đề xuất một số giải pháp nhằm giúp công ty hoạt động có hiệu quả hơn
trong điều kiện suy thoái.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
Suy thoái kinh tế và ảnh hưởng của suy thoái kinh tế là những vấn đề thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứ, các chuyên gia kinh tế cũng như các nhà quản lý
Nhà nước.
Sách “Vượt qua khủng hoảng” của Edwart.Deming năm 2009, NXB Thời Đại
cuốn sách xuất bản lần đầu 1982, tác phẩm Vượt qua khủng hoảng đã đưa ra một lý
thuyết mới về quản lý được xây dựng trên nền tảng 14 luận điểm trong quản lý nổi
tiếng của Deming.vÔng tuyên bố rằng những sai lầm trong việc thiết lập kế hoạch
quản lý trong tương lai chính là nguyên nhân dẫn đến sự thụt giảm của thị trường,
song hành với nó là nạn thất nghiệp bùng nổ. Deming đã cung cấp cho độc giả những
nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất về đổi mới quản lý cùng cách thức để áp dụng
chúng trong môi trường doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng.
Luận văn “Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh của công
ty TNHH nhà nước một thành viên Thực Phẩm Hà Nội” của tác giả Nguyễn Văn Toàn

– Trường Đại học Thương Mại (2013). Trong đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu, phân
tích sự tác động của suy thoái kinh tế tới thị trường đầu ra và thị trường đầu vào của
công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thực phẩm, từ đó đưa ra cái nhìn, đánh

2


giá về ảnh hưởng của suy thoáikinh tế tới hoạt động kinh doanh của công ty và đưa ra
giải pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế.
Luận văn “Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh của Công
ty cổ phần đầu tư và xây dựng hạ tầng đô thị Việt Nam” của tác giả Trần Thị Thùy –
Trường Đại học Thương Mại (2016). Trong luận văn tốt nghiệp, tác giả tập trung
nghiên cứu, phân tích sự tác động của suy thoái kinh tế đến hoạt động của công ty như
tác động đến nguồn vốn, đến doanh thu lợi nhuận cũng như là thị trường tiêu thụ của
Công ty.
Bài viết “Suy thoái kinh tế nguy hiểm của Việt Nam” của Hồng Phúc đăng trên
tạp chí thanh niên ngày 27/11/2012. Nội dung của bài báo nói về những tác động nguy
hiểm của suy thoái kinh tế và các biện pháp can thiệp của chính phủ, chỉ ra các yếu
kém của nhà nước.
Bài viết “Giải pháp nào cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân ở Việt Nam trong
thời kỳ suy thoái kinh tế – góc nhìn từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng” của THS.
Nguyễn Thị Minh Huệ & THS. Tăng Thị Thanh Phúc. Phân tích vị trí vai trò của
doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế quốc dân, thực trạng tiếp cận nguồn vốn của
doanh nghiệp trong thời kỳ suy thoái kinh tế và giải pháp tạo nguồn vốn cho doanh
nghiệp từ vốn tín dụng ngân hàng.
Bài viết “Bản chất của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, cứu vớt chủ nghĩa tư
bản hay xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” của tác giả Đào Thế Tuấn, (2009). Tạp
chí nghiên cứu kinh tế số 370, tháng 3 năm 2009.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nêu trên đã đi sát mục tiêu nghiên cứu,
giải quyết các vấn đề lý luận liên quan đến suy thoái kinh tế. Suy thoái kinh tế là một

vấn đề lớn hiện nay của các nền kinh tế, có rất nhiều các bài báo, bài viết liên quan đến
vấn đề nghiên cứu nhưng chủ yếu đứng trên góc độ vĩ mô, nghiên cứu các ảnh hưởng
của suy thoái đến nền kinh tế nói chung, không đi sâu vào từng doanh nghiệp cụ thể.
Mặt khác một số đề tài nghiên cứu về doanh nghiệp cụ thể, nhưng các lĩnh vực khác
nhau thì tác động và ảnh hưởng là không giống nhau. Công ty cổ phần môi trường đô
thị và công nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ vì thế các ảnh hưởng
của suy thoái kinh tế tới hoạt động kinh doanh của công ty cũng có những khác biệt
nhất định. Vì thế tác giả lựa chọn nghiên cứu các ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới
hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp urenco
11 nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp với công ty, giúp công ty kinh doanh hiệu quả,
vượt qua thời kỳ suy thoái đầy khó khăn và tiếp tục phát triển hơn nữa trong tương lai.

3


3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu trong đề tài
Hiện nay ảnh hưởng suy thoái kinh tế rất nghiêm trọng, nó tác động tới các lĩnh
vực kinh tế xã hội và đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về suy thoái kinh tế và ảnh
hưởng của suy thoái kinh tế. Đề tài nghiên cứu đa dạng như ảnh hưởng của suy thoái
đến xuất khẩu, nhập khẩu, tiêu thụ…Nhưng đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của suy thoái
đến hoạt động kinh doanh còn ít, chưa đa dạng, nhất là về ngành môi trường. Từ trước
tới giờ Công ty Cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp URENCO 11 cũng chưa có
đề tài nào nghiên cứu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh.
Chính vì vậy em tuyên bố đề tài nghiên cứu là “Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến
hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp
URENCO 11”. Để tìm ra giải pháp ứng phó của Công ty trước tác động của suy thoái
kinh tế, đề tài tập trung nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về ảnh hưởng của suy thoái
kinh tế tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần môi
trường đô thị và công nghiệp URENCO 11.
Thứ nhất, đề tài nghiên cứu về suy thoái kinh tế Việt Nam hiện nay cụ thể là biểu

hiện, thực trạng và hậu quả của nó.
Thứ hai, đề tài nghiên cứu về tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ
phần môi trường đô thị và công nghiệp URENCO 11.
Thứ ba, phân tích tác động của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh của
Công ty và đề ra giải pháp khắc phục.
4. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt
động kinh doanh của Công ty Cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp URENCO 11”.
Mục tiêu nghiên cứu đề tài.
Mục tiêu lý luận: hệ thống hóa lý thuyết về vấn đề suy thoái kinh tế, hoạt động
kinh doanh và ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh. Cụ thể là
các khái niệm về suy thoái kinh tế, hoạt động kinh doanh, các lý thuyết liên quan đến
suy thoái, các chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, lý thuyết liên
quan đến ảnh hưởng của suy thoái đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ
thống lý luận rất quan trọng tại vì đây chính là cơ sở, nền tảng để từ đó áp dụng vào
nghiên cứu thực tiễn để đưa ra tác động của ảnh hưởng.
Mục tiêu thực tế: Từ cơ sở lý thuyết đã được xây dựng để đi vào phân tích tình
hình thực tế “Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh của Công ty
Cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp URENCO 11”.

4


Mục tiêu cụ thể là: Phân tích tình hình suy thoái kinh tế hiện nay. Phân tích tình
hình hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp
URENCO 11. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh của Công ty.
Đưa ra đề suất và kiến nghị để Công ty thoát khỏi khó khăn trong thời kỳ suy thoái.
Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi về mặt không gian: Khóa luận chỉ nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng

của suy thoái kinh tế tới hoạt động sản kinh doanh của Công ty Cổ môi trường đô thị
và công nghiệp URENCO 11 trên thị trường toàn quốc.
Phạm vi về mặt thời gian: Khóa luận nghiên cứu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế
tới hoạt động kinh doanh của Công ty trong vòng 3 năm từ 2014-2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu:
Thu thập dữ liệu là công việc cần thiết cho bất kì công trình nghiên cứu khoa học
nào. Phương pháp thu thập dữ liệu được tác giả áp dụng là thu thập dữ liệu qua các
nguồn thứ cấp. Dữ liệu thứ cấp là những dữ liệu đã qua xử lý nhằm phục vụ mục đích
nghiên cứu.
Tiến hành thu thập dữ liệu từ báo cáo tài chính của công ty, báo cáo kinh doanh,
kế hoạch kinh doanh, bảng lương nhân viên,… từ các phòng ban của công ty như
phòng kế toán, phòng kinh doanh, phòng kế hoạch, phòng hành chính – nhân sự,
phòng marketing.
Ngoài ra còn thu thập một số sách, tài liệu, bài viết, luận văn có liên quan đến đề
tài, tiếp cận các thông tin liên quan đến sản phẩm quần áo từ báo chí, website, bên
cạnh đó tiến hành chọn lọc và nghiên cứu vấn đề ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách kỹ lưỡng để đảm bảo tính
xác thực trong bài khóa luận của mình. Các số liệu về suy thoái kinh tế lấy tự Tổng
cục thống kê: Tốc độ tăng trưởng GDP 2014-2016.
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu:
Thông tin sau khi đã thu thập cần được chọn lọc và xử lý các thông tin đó cho
phù hợp với mục tiêu mà mình hướng tới. Sau khi các thông tin, dữ liệu đã được chọn
lọc và xử lý thì cần được phân tích để phục vụ cho việc nghiên cứu. Trong đề tài sử
dụng một số phương pháp phân tích thông tin như sau:
- Phương pháp tổng hợp thống kê: Gồm 4 bước cơ bản là thu thập dữ liệu và
thiết kế các nghiên cứu định lượng, tóm tắt thông tin, đưa ra các kết luận dựa trên các
số liệu và cuối cùng là định lượng kết quả hiện tại hoặc dự báo tương lai.

5



- Phương pháp đối chiếu so sánh: Phương pháp này giúp cho việc so sánh dữ
liệu giữa các thời kỳ, giữa các doanh nghiệp khác nhau để có thể có những đánh giá
khách quan về tình hình phát triển của doanh nghiệp mình nghiên cứu.
- Phương pháp khác: Phương pháp chỉ số, sử dụng phần mềm trong việc vẽ các
biểu đồ phục vụ cho việc phân tích các số liệu thứ cấp.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục sơ đồ,
hình vẽ, danh mục viết tắt, tài liệu tham khảo và các phụ lục thì khóa luận được kết
cấu như sau:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến hoạt động kinh doanh
của Công ty cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp URENCO 11.
Chương 3: Các đề xuất và kiến nghị nhằm hạn chế sự ảnh hưởng của cuộc suy
thoái kinh tế tới hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần môi trường đô thị và công
nghiệp URENCO 11.

6


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA SUY
THOÁI KINH TẾ ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1.1. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm về suy thoái kinh tế, suy thoái kinh tế toàn cầu
Suy thoái kinh tế được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào quan điểm
của các trường phái khác nhau:
Trong kinh tế học vĩ mô, suy thoái kinh tế được định nghĩa: “Suy thoái kinh tế là
sự suy giảm lượng GDP của một quốc gia, hoặc tăng trưởng âm trong vòng hai quý

liên tiếp trở lên trong một năm”.
Theo quan điểm của cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia Hoa Kỳ cho rằng: “Suy
thoái kinh tế là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng”.
Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế
của toàn bộ hoạt động kinh tế như: việc làm, đầu tư và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với hạ giá cả (giảm phát), hoặc ngược lại, tăng
nhanh giá cả (lạm phát) trong thời kỳ lạm phát.
Sự suy thoái trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng hoảng kinh tế. Sự tan vỡ tàn
phá kinh tế gọi là sự suy sụp, đổ vỡ kinh tế. Việc suy giảm kinh tế của nhiều quốc gia
trong cùng một thời điểm dẫn đến suy thoái kinh tế thế giới, suy thoái kinh tế toàn cầu.
1.1.2. Khái niệm hoạt động kinh doanh
Hiện nay có rất nhiều khái niệm hoạt động kinh doanh, nhưng theo góc độ pháp
lý thì hoạt động kinh doanh được hiểu là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
sản phẩm nhằm mục đích sinh lợi (theo khoản 2 điều 4 luật doanh nghiệp 2005).
Hoạt động kinh doanh trong một số trường hợp được hiểu như hoạt động thương
mại, (theo khoản 1 điều 3 luật thương mại 2005) hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác.
1.2. Một số lý thuyết về suy thoái kinh tế và hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
1.2.1. Lý thuyết về suy thoái kinh tế
1.2.1.1. Chu kỳ phát triển kinh tế
Chu kỳ kinh tế hay còn gọi là chu kì kinh doanh, là biến động của GDP thực tế
theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh. Cũng có những pha
phục hồi thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ có hai pha chính là suy thoái và thịnh
vượng.

7



Hình 1.1: Chu kỳ phát triển kinh tế

(Nguồn: />Các pha của chu kỳ kinh tế:
Suy thoái: là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy
rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm trong hai quý liên tiếp thì
mới gọi là suy thoái.
Phục hồi: là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy
thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ.
Hưng thịnh: là khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước
lúc suy thoái. Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ
pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Từ nghiên cứu trên thấy, nền kinh tế diễn ra theo một chu kỳ đầy đủ với đầy đủ
ba pha kinh tế tuần tự (suy thoái, phục hồi, hưng thịnh). Suy thoái kinh tế là pha đầu
tiên của chu kỳ kinh tế và ngay trước đó là pha hưng thịnh của chu kỳ kinh tế trước,
sau đó là pha phục hồi và hưng thịnh của chu kỳ kinh tế mới. Từ đó cho thấy suy thoái
kinh tế cũng mang tính chu kỳ.
1.2.1.2. Các biểu hiện của suy thoái kinh tế
Tốc độ tăng trưởng chậm lại, tổng sản phẩm quốc dân giảm liên tiếp qua các
năm. Số DN đăng ký mới giảm mạnh trong khi số DN dừng hoạt động lại tăng rất cao.

8


Ngày 20-4, báo cáo về tình hình kinh tế, xã hội những tháng đầu năm 2012 tại phiên
họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Bùi Quang Vinh cho
rằng việc sản xuất công nghiệp đình trệ, hàng hóa tồn kho lớn, nhiều DN phá sản, thu
ngân sách giảm, tăng trưởng khó đạt mức 6%... cho thấy nền kinh tế đang bắt đầu có
biểu hiện suy thoái.
Nhu cầu của thị trường giảm mạnh kéo theo GDP thực tế tiếp tục giảm sút.

Thống kê của Chính phủ cho thấy hiện sức mua giảm, tiêu thụ chậm, chỉ số hàng hóa
tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 34,9% so với cùng kỳ. chỉ số
CPI giảm mạnh khi chỉ tăng khoảng 2,55%, thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ nhiều
năm trước đó.
Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, nhu cầu về lao động giảm, sản xuất đình trệ, đầu tư bị
hạn chế, cắt giảm nhân công lao động. Năm 2012 cả nước giảm 6% số lượng DN
thành lập mới và giảm 10% về số vốn đăng ký. Đáng lo ngại là hiện có tới trên 2.400
DN đã làm thủ tục giải thể và khoảng trên 11.600 DN đăng ký ngừng hoạt động có
thời hạn hoặc dừng thực hiện các nghĩa vụ thuế. Chính vì điều này đã khiến cho tỷ lệ
thất nghiệp ngày càng gia tăng.
Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh. Ngân hàng bị ảnh hưởng và khắt
khe trong việc vay vốn làm cho các doanh nghiệp khó khăn trong vốn kinh doanh.
Các hoạt động đầu tư ngưng trệ và chỉ mang tính chất cầm chừng. Do các doanh
nghiệp giải thể hàng loạt đồng thời tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký mới giảm dẫn đến các
doanh nghiệp vẫn đang hoạt động trên thị trường giảm đầu tư. Hơn nữa, do chỉ số giá
tiêu dùng CPI giảm mạnh, nhu cầu của thị trường giảm mạnh khiến các doanh nghiệp
có hành động đầu tư chỉ mang tính chất cầm chừng.
1.2.1.3. Sơ lược về các cuộc suy thoái kinh tế trong lịch sử
Khủng hoảng tài chính ở Mỹ được đánh dấu bằng sự đổ vỡ với hệ thống ngân
hàng ở đây. Tình trạng thua lỗ, phá sản thường chỉ xảy ra trong các ngân hàng nhỏ và
trung bình ở Mỹ. Nhưng kể từ tháng 8/2008, tình trạng này đã lan sang các ngân hàng
có tầm ảnh hưởng lớn trong hệ thống tài chính toàn cầu. Fredtic mac và frannic max là
hai tập đoàn cho vay thế chấp khổng lồ của Mỹ. Nếu hai tập đoàn này sụp đổ thì hệ
thống tài chính toàn cầu sẽ rơi vào một cú sốc lớn. Vì thế để tạm thời ngăn chặn sự
việc này, ngày 07/09/2008, Chính phủ Mỹ đã phải bỏ ra 25 tỷ USD để tiếp quản hai
tập đoàn này.
Hàng loạt các ngân hàng có quy mô tài sản hảng tỷ USD và vài trăm triệu USD
lần lượt rơi vào tình trạng tồi tệ. Theo công bố của FED, đã có 25 ngân hàng Mỹ bị
giải thể trong năm 2008. Theo các chuyên gia thì con số này sẽ tăng lên trong năm


9


2009 do khủng hoảng tài chính chưa chịu buông tha hệ thống tài chính nước này và
viễn cảnh kinh tế nói chung còn tiếp tục u ám.
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ nửa cuối năm 2008 kéo dài sang năm
2009 lan rộng trên toàn thế giới đã khiến GDP toàn cầu năm 2009 giảm 5.826 tỷ USD
so với năm 2008 (đây là lần đầu tiên GDP toàn cầu tăng trưởng âm trong vòng 20 năm
trở lại đây), kéo tốc độ phát triển trung bình của toàn giai đoạn đi xuống, từ
4,04%/năm cho giai đoạn 2001 đến 2007, xuống còn 3,2% cho cả giai đoạn 20012010. Trong năm 2010, ước tính kinh tế thế giới đã bước đầu phục hồi với tốc độ tăng
trưởng là 4,8% tuy nhiên tốc độ tăng trưởng này được dự báo sẽ giảm xuống 4,2%
trong năm 2011 và tăng trở lại vào năm 2012 (IMF).
Tốc độ tăng trưởng GDP trong thời kỳ này có biên độ biến động rộng hơn hẳn so
với thời kỳ trước. Mặc dù đạt những mốc tăng trưởng cao như 5,2% vào năm 2007,
kinh tế thế giới cũng có những đợt giảm sâu từ 4,7% năm 2000 giảm xuống 2,2% năm
2001 (giảm 2,5%) hay từ 5,2% năm 2007 giảm xuống 3,2% năm 2008 (giảm 2%) và
-1,3% năm 2009 (giảm 4,5%), trong khi mức giảm sâu nhất của giai đoạn 1990- 2000
chỉ là 1,5% ( từ 4% năm 1997 xuống 2,5% năm 1998). Biên độ biến động rộng của tốc
độ tăng trưởng cho thấy cùng với quá trình phát triển nhanh, có nhiều nhân tố rủi ro
tiềm ẩn, cùng kinh tế thế giới ngày càng trở nên khó dự báo và kiểm soát.
Trong đó Hoa Kỳ là nước có tỷ trọng GDP luôn ở mức đứng đầu, đạt 14441.42 tỷ
USD năm 2008 (trước khi rơi xuống đáy suy thoái vào năm 2009), chiếm 23.79% tổng
GDP của thế giới, gấp 2.94 lần GDP của Nhật Bản (nước đứng thứ 2) và 3.33 lần GDP
của Trung Quốc (nước đứng thứ 3). Tuy nhiên tỷ trọng của GDP của Hoa Kỳ trong
tổng GDP của toàn thế giới đã giảm từ 32.44% năm 2001 xuống chỉ còn 23.79% năm 2008.
Khủng hoảng ở Châu Âu:
Các ngân hàng ở Anh chịu ảnh hưởng lớn nhất của cuộc khủng hoảng tài chính
Mỹ. Ngày 29/09/2008, nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng chịu thua lỗ lớn, không
có khả năng trụ vững do liên quan đến cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, Bộ tài chính
Anh đã tuyên bố quốc hữu hóa tập đoàn cho vay kinh doanh bất động sản lớn nhất là

Bradford Pic.
Tại Nga, hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính, chứng khoán cũng bị ảnh
hưởng nghiêm trọng. Tính đến ngày 07/10/2008, thị trường chứng khoán Nga đã 2 lần
tạm thời đóng cửa và chỉ số chứng khoán giảm mạnh. Để hỗ trợ cho các ngân hàng,
ngày 08/10/2008, Tổng thống Nga công bố kế hoạch cho vay với thời hạn 5 năm với
tổng giá trị là 950 tỷ rúp, tương đương 36.4 tỷ USD.
Sự lan tỏa của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế Châu Á:

10


Nhật Bản trong năm 2008 sản lượng công nghiệp giảm tới 8.1%, lợi nhuận các
công ty giảm mạnh và tỷ lệ thất nghiệp đã tăng thêm 3.9%. Ngoài ra, sự lên giá mạnh
của đồng Yên so với USD cũng gây áp lực không nhỏ cho các nhà xuất khẩu của Nhật.
Tại Hàn Quốc, theo thông tin tài chính quốc tế Hàn Quốc, từ tháng 6 đến tháng
9/2008, các nhà đầu tư nước ngoài đã rút 15 tỷ USD ra khỏi thị trường chứng khoán
Hàn Quốc. Tình trạng tương tự cũng đã diễn ra tại các thị trường chứng khoán lớn
trong khu vực như: Đài Loan, Philippin, Thái Lan, Ấn Độ, Indonexia.
Cơ cấu xuất nhập khẩu theo khu vực cho thấy, các nền kinh tế mới nổi và các
nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng thương mại quốc tế cao hơn hẳn (trung
bình 7,4%/năm so với 5,4%/năm của nhóm các nước phát triển), tuy nhiên các nước
phát triển vẫn chiếm đến trên 70% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn thế giới.
Năm 2008, Trung Quốc đã vươn lên trở thành nước đứng đầu về xuất khẩu hàng hóa
với cán cân thương mại liên tục được duy trì ở trạng thái thặng dư còn Hoa Kỳ vẫn
tiếp tục là thị trường nhập khẩu lớn nhất với cán cân thương mại liên tục ở trạng thái
thâm hụt. Sự mất cân bằng thương mại thế giới được xem là một trong những nguyên
nhân gốc rễ của cuộc khủng hoảng. Suy thoái kinh tế làm cơ cấu xuất nhập khẩu của
Việt Nam ảnh hưởng, trở thành nước xuất siêu, nhập khẩu giảm mạnh trong giai đoạn
2008-2010.
Bức tranh màu xám của tăng trưởng được ghi nhận ở hầu hết các nhóm nước. Tại

các nền kinh tế phát triển, tăng trưởng chuyển biến hết sức chậm chạp trong hai năm
đầu 2011 – 2012, và chỉ bắt đầu có dấu hiệu lấy lại đà phục hồi từ năm 2013, tuy nhiên
quá trình phục hồi vẫn còn khá mong manh. Đối với các nền kinh tế đang phát triển và
mới nổi, tình hình dường như cũng không mấy sáng sủa hơn. Nếu như giai đoạn 2010
trở về trước, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế này được coi là động lực cho quá
trình phục hồi của kinh tế toàn cầu, thì đến giai đoạn này tốc độ tăng trưởng đã bắt đầu
chậm lại.

11


Bảng 1.1: Tăng trưởng GDP của kinh tế thế giới giai đoạn 2010-2015
(Đơn vị tính: %)
Tăng trưởng GDP

2010 2011 2012 2013
5,1
3,9
3,2
3,2
3,1
1,6
1,3
1,3
3
1,8
2,8
1,9
1,8
1,7 -0,7 -0,5

4
-0,5 1,4
1,5

2014
3,6
1,8
2,8
1,1
1,4

2015
3,9
2,4
3
1,5
1

Thế giới
Các nền kinh tế phát triển
Mỹ
EU
Nhật Bản
Các nền kinh tế đang phát triển và mới
7,3
6,2
5,0
4,7
4,9
5,3

nổi
Trung Quốc
10,3 9,3
7,7
7,7
7,5
7,3
Ấn độ
10,1 6,3
4,7
4,4
5,4
6,4
ASEAN
4,5
6,2
5
4,8
5,2
Khu vực Đông Âu
-0,9 2,4
0,7
2,7
Khu vực Châu Mỹ La tinh Caribe
2,7
2,6
1,3
2,4
(Nguồn: World Economic Outlook, IMF)
1.2.1.4. Nguyên nhân của suy thoái kinh tế

Thứ nhất, suy thoái do sự suy giảm tổng cầu:
Theo lý thuyết Keynes, trong ngắn hạn sản lượng thực tế có thể thấp hơn so với
mức sản lượng tự nhiên của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế mở tổng cầu bao gồm
các yếu tố: tiêu dùng cảu các hộ gia đình, đầu tư tư nhân, chi tiêu của Chính phủ và
xuất khẩu ròng là chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Hình 1.1: Sự dịch chuyển của đường tổng cầu

Sự suy giảm của tổng cầu được biểu diễn bằng sự dịch trái của đường AD (AD
=>AD’). Khi đó nền kinh tế sẽ di chuyển theo đường tổng cung (AS) từ trạng thái cân
bằng E đến trạng thái cân bằng mới E’. Tại trạng thái cân bằng mới, sản lượng của nền
12


kinh tế giảm từ Y xuống Y’ tương ứng với mức giá giảm từ P đến P’. Như vậy sự suy
giảm của tổng cầu dẫn đến giảm sản lượng của nền kinh tế và giảm giá cả khiến nền
kinh tế lâm vào trạng thái suy giảm.
Thứ hai, suy thoái do sự suy giảm về tổng cung:
Những thay đổi trong sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế gắn chặt với
những thay đổi trong việc sử dụng lực lượng lao động của nền kinh tế. Nói cách khác,
khi GDP thực tế giảm thì tỷ lệ thất nghiệp tăng. Điều này không có gì đáng ngạc
nhiên: khi các doanh nghiệp sản xuất ít hàng hoá và dịch vụ hơn, họ sa thải bớt công
nhân và số người thất nghiệp tăng. Trong mỗi đợt suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên
rất cao. Khi suy thoái kết thúc và sản lượng bắt đầu tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm dần.

Sự suy giảm của tổng cung được biểu diễn bằng sự dịch trái của đường AS (AS
=>AS’). Khi đó nền kinh tế sẽ di chuyển theo đường tổng cầu (AD) từ trạng thái cân
bằng E đến trạng thái cân bằng mới E’. Tại trạng thái cân bằng mới, sản lượng của nền
kinh tế giảm từ Y xuống Y’ tương ứng với mức giá tăng từ P đến P’. Như vậy sự suy
giảm của tổng cung dẫn đến giảm sản lượng của nền kinh tế và giá cả leo thang khiến
nền kinh tế lâm vào trạng thái suy giảm.

Ngoài ra, còn chịu ảnh hưởng từ một số nguyên nhân khác đó là:
• Sự hình thành và đổ vỡ của bong bóng nhà đất, các khoản cho vay dưới chuẩn.
Ở Mỹ, hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lãi lẫn vốn
trong một thời gian dài sau đó. Do đó, một số sự liên kết rất chặt chẽ giữa tình hình lãi
suất và tình hình của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn được
chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng bất động thì người ta đổ xô đi
mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao làm cho bong bóng nhà đất hình thành, đẩy giá nhà
xuống thấp. Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các
khoản vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh
mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc
phát mại tài sản càng tăng làm cho giá bất động sản càng giảm, điều này có nghĩa giá

13


trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng. Vòng xoáy
khủng hoảng cứ tiếp tục vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Các ngân hàng
đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp duy
trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt
ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.
• Hệ thống tín dụng đổ vỡ: sự co lại của thị trường tín dụng, sự đổ vỡ của các thị
trường các công cụ phái sinh như CDS có mức độ ảnh hưởng còn lớn hơn sự đổ vỡ của
bong bóng nhà đất rất nhiều. Trong cho vay nhà đất lẫn trong thị trường nợ việc dùng
đòn bẩy tài chính là hết sức quan trọng. Một doanh nghiệp có thể đi vay ba nếu có vốn
riêng là một, như vậy được gọi là sử dụng đòn bẩy bằng ba lần. Các doanh nghiệp hoạt
động trong nền kinh tế thực nếu có đòn bẩy tài chính không lớn hơn ba thì được coi là
bình thường. Với hình thức này, trong trường hợp rủi ro người đi vay sẽ chịu rủi ro đầu
tiên và khi đòn bẩy càng cao thì tức là rủi ro càng lớn. Khi cho vay, các ngân hàng
thường chú ý tới hệ số đòn bẩy này bởi vì nếu hệ số đòn bẩy quá cao, thì khi có lãi
người vay được lợi, khi thua lỗ thì ngân hàng gánh chịu. Trên thị trường tài chính, các

ngân hàng sử dụng đòn bẩy cao hơn, có khi lên tới hàng trăm lần do các ngân hàng đầu
tư, các công ty tài chính không có quy định nghiêm ngặt về vấn đề này.
• Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ: các ngân hàng thương mại chịu sự quản lý,
giám sát của các cơ quan nhà nước, còn các ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính
chịu giám sát ít hơn. Các cơ quan quản lý lỏng lẻo, không theo kịp hoạt động của tất cả
các tổ chức tài chính ngân hàng dẫn đến những rủi ro khôn lường. Có tiền, các công ty
thoải mái cho khách hàng vay bằng tiền của các ngân hàng đầu tư cung cấp thông qua
việc mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân hàng này, trên cơ sở các
danh mục cho vay vừa mua lại, sẽ phát hành chứng khoán để vay tiền. Như vậy, rủi ro
trong việc cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính sang ngân hàng
đầu tư.
• Khủng hoảng niềm tin: theo giáo sư Joseph Stiglitz, trường Đại học tổng hợp
Colombia, người dành được Giải thưởng Nobel kinh tế năm 2001, thì cuộc khủng
hoảng bắt nguồn từ sự sụp đổ thảm khốc niềm tin. Các ngân hàng đánh đổ lẫn nhau về
mức độ cho vay cũng như tài sản. Những giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi
ro và che giấu những trượt giá giá trị tài sản thực của ngân hàng. Thị trường tài chính
xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó nếu bị xuống cấp sẽ làm giảm
tổng cầu, gây ra sự sụt giảm tổng sản phẩm quốc dân.
1.2.1.5. Tác động của khủng hoảng kinh tế
Hậu quả lớn nhất và nặng nề nhất là phá hủy lực lượng sản xuất, đẩy lùi sự phát
triển kinh tế thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế làm cho sản xuất suy thoái, thất
14


nghiệp tăng lên. Cuộc khủng hoảng làm phá sản hàng loạt ngân hàng và công ty tài
chính, kể cả những ngân hàng và công ty tài chính hàng đầu nước Mỹ. Từ Mỹ, cuộc
khủng hoảng làm chao đảo thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, làm phá sản
nhiều ngân hàng, công ty tài chính, nhiều tập đoàn kinh tế lớn ở nhiều nước trên thế
giới gây suy giảm nghiêm trọng các quan hệ thương mại, tài chính, đầu tư quốc tế và
kinh doanh thế giới nói chung.

Sau khủng hoảng, tại nước Mỹ và trên thế giới, chính sách kinh tế của chính phủ
sẽ cân bằng hơn giữa điều tiết của thị trường và điều tiết của nhà nước, sự can thiệp,
điều tiết kinh tế của nhà nước đối với nền kinh tế sẽ nhiều hơn, sự giám sát của nhà
nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiêp, nhất là đối với hệ thống tài
chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán sẽ chặt chẽ hơn hiện nay. Cuộc khủng hoảng
cũng tạo sức ép và cơ hội cho các nước đánh giá lại các mặt mạnh yếu trong nền kinh
tế của mình, xem xét việc đổi mới hoàn thiện thể chế kinh tế và cơ cấu kinh tế, đổi mới
thiết bị công nghệ, phát triển những nguồn năng lượng mới ... nâng cao chất lượng,
hiệu quả và phát triển bền vững của nền kinh tế.
1.2.2. Lý thuyết về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các nhân tố vĩ mô:
- Nhân tố thuộc môi trường kinh doanh:
Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh là các yếu tố khách quan mà doanh
nghiệp không thể kiểm soát được. Môi trường kinh doanh tác động liên tục tới hoạt
động của doanh nghiệp theo những hướng khác nhau, vừa tạo ra cơ hội vừa hạn chế
khả năng thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
- Môi trường văn hóa, xã hội:
Các yếu tố văn hóa xã hội luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng, có ảnh
hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, các yếu tố trong nhóm này tác
động mạnh đến quy mô và cơ cấu thị trường.
Dân số quyết định qui mô của nhu cầu và tính đa dạng của nhu cầu. Tiêu thức
này ảnh hưởng đến dung lượng thị trường có thể đạt đến, thông thường thì dân số càng
lớn thì quy mô thị trường càng lớn, nhu cầu về tiêu dùng tăng, khối lượng tiêu thụ một
số sản phẩm nào đó lớn, khả năng đảm bảo hiệu quả kinh doanh càng cao, cơ hội kinh
doanh càng lớn.
Còn các yếu tố dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, nền văn hóa phản ánh quan
điểm và cách thức sử dụng sản phẩm, vừa yêu cầu đáp ứng riêng biệt về nhu cầu vừa
tạo ra cơ hội đa dạng hóa khả năng đáp ứng của doanh nghiệp cho nhu cầu.
- Môi trường chính trị , pháp luật:

15


Các yếu tố thuộc môi trường chính trị, pháp luật chi phối mạnh mẽ sự hình thành
cơ hội kinh doanh và khả năng thực hiện mục tiêu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Sự ổn
định của môi trường chính trị được xác định là một trong những tiền đề quan trọng cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống chính sách, luật pháp hoàn thiện,
nền chính trị ổn định tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị
trường, hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật như buôn lậu, trốn thuế, hàng giả. Mức
độ hoàn thiện, sự thay đổi và thực thi pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến
việc hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
- Môi trường kinh tế và công nghệ:
Các yếu tố thuộc môi trường này quy định cách thức doanh nghiệp và toàn bộ
nền kinh tế trong việc sử dụng tiềm năng của mình và qua đó tạo ra cơ hội kinh doanh
cho từng doanh nghiệp. Các chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng là:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế: có ảnh hưởng trực tiếp tốc độ của những cơ hội và
mối de dọa mà công ty đang phải đối mặt. Tăng trưởng kinh tế cao đưa đến khả năng
tiêu dùng cao hơn, vì thế mà giảm bớt áp lực cạnh tranh cho công ty. Ngược lại, tốc độ
tăng trưởng kinh tế thấp sẽ làm giảm việc tiêu dùng tăng áp lực về cạnh tranh, đe dọa
đến lợi nhuận của doanh nghiệp, điều này dẫn đến chiến tranh về giá giữa các doanh
nghiệp.
+ Lãi suất: mức độ về tỷ lệ lãi suất quyết định mức độ nhu cầu đối với các sản
phẩm của doanh nghiệp, hơn nữa tỷ suất lãi suất ảnh hưởng tới chi phí vốn cho việc
đầu tư của công ty, và chi phí là một yếu tố quan trọng để quyết định xem chiến lược
đầu tư có hiệu quả hay không.
+ Các chính sách của nhà nước: trong thời kỳ suy thoái, chính sách ổn định kinh
tế vĩ mô kiềm chế lạm phát được ưu tiên hơn là tăng trưởng kinh tế. Nhà nước sẽ ban
hành những chính sách tiền tệ, chính sách lãi suất, các gói kích cầu để hạn chế tác
động của suy thoái kinh tế và doanh nghiệp là đối tượng trực tiếp bị ảnh hưởng bởi các
chính sách này.

+ Tỷ giá: một trong những lĩnh vực chịu tác động trực tiếp của tỷ giá là xuất nhập
khẩu. Hầu hết các nước trên thế giới để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế ngoài việc
dựng lên những rào cản bảo hộ sản xuất trong nước thường chủ trương duy trì đồng
tiền yếu để tăng lợi thế xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất.
+ Biến động giá cả: khi giá cả các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất như giá
nguyên vật liệu, giá nhiên liệu, giá thuê lao động tăng sẽ kéo theo rất nhiều chi phí của
doanh nghiệp tăng theo. Trong hoàn cảnh suy thoái kinh tế, doanh nghiệp cần dự báo
được tình hình biến động của giá cả để có các chính sách ứng phó phối hợp như cắt
giảm chi phí, đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa thị trường, thay đổi cơ cấu sản xuất.
16


Các nhân tố vi mô:
- Khách hàng:
Là những người tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp và quyết định trực tiếp
đến doanh thu của doanh nghiệp. Khách hàng có thể là khách hàng cá nhân hoặc tổ
chức. Khách hàng tạo ra một áp lực lớn đối với doanh nghiệp, họ là những người có
nhiều lựa chọn, có thể so sánh các doanh nghiệp với nhau để đưa ra lựa chọn cuối
cùng là sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp nào. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp
cần phải tìm hiểu thị hiếu khách hàng để thỏa mãn được những nhu cầu của họ thì mới
kinh doanh và phát triển được.
- Đối thủ cạnh tranh:
Trên thị trường có rất nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại mặt hàng và
việc cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Vì muốn bán được nhiều sản phẩm, kinh
doanh phát triển mà các doanh nghiệp phải đưa ra những lợi thế mình có mà doanh
nghiệp đối thủ không có để lấy lợi thế cạnh tranh thu hút khách hàng về phía mình.
Đối thủ tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như đối thủ
cạnh tranh thu hút được nhiều khách hàng thì doanh nghiệp sẽ bị mất khách, làm giảm
doanh thu và lợi nhuận. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có chiến lược cạnh tranh
phù hợp để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng ngành.

- Nhà cung ứng:
Nhà cung ứng là nơi cung cấp sản phẩm cho doanh nghiệp. Một nhà cung ứng có
thể cung ứng sản phẩm cho nhiều doanh nghiệp nên nếu doanh nghiệp nào được nhà
cung ứng ưu ái hơn, giá nhập hàng thấp hơn thì sẽ có cạnh tranh hơn về giá. Các doanh
nghiệp thương mại cũng liên quan trực tiếp tới nhà cung ứng về đánh giá của khách
hàng, thị hiếu để nhà cung ứng điều chỉnh sao cho đáp ứng nhu cầu khách hàng, có lợi
cho việc kinh doanh của cả hai bên.
- Vốn, công nghệ:
Không một doanh nghiệp nào có thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh
mà không có vốn. Vốn có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định trực tiếp tới hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn trong doanh nghiệp được hình thành từ 3
nguồn chính: Vốn tự có, vốn ngân sách nhà nước cấp và vốn vay: được phân bổ dưới
hai hình thức là vốn cố định và vốn lưu động. Tuỳ đặc điểm của từng doanh nghiệp,
doanh nghiệp nhà nước thì vốn ngân sách nhà nước cấp là chủ yếu, doanh nghiệp tư
nhân vốn chủ sở hửu và vốn vay là chủ yếu.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Chỉ tiêu kết quả:

17


Chỉ tiêu doanh thu: doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ số tiền bán sản
phẩm hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản chiết
khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bị trả lại, thu từ phần trợ giá của nhà nước khi
thực hiện việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu của nhà nước và các
nguồn khác. Doanh thu của công ty gồm có:
+ Doanh thu về bán hàng: doanh thu bán sản phẩm hàng hóa thuộc hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+Doanh thu thuần từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ số tiền bán hàng hóa, cung
cấp dịch vụ sau khi trừ đi các khoản giảm trừ (chiết khấu hàng bán, giảm giá hàng bán,

hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu) và được khách chấp nhận
thanh toán
DT= PxQ
DT doanh thu tiêu thụ trên các thị trường
P Giá bán trung bình cho một đơn vị sản phẩm trên các thị trường
Q Tổng khối lượng sản phẩm tiêu thụ trên các thị trường
Chi phí kinh doanh: bao gồm chi phí hoạt động kinh doanh và chi phí cho hoạt
động khác. Chi phí này được xác định trên cơ sở tổng chi phí với số lượng hàng hóa
bán ra.
Sản lượng bán và giá bán: sản lượng và giá bán có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh
thu của doanh nghiệp. Nếu một trong hai yếu tố này giảm thì dẫn đến doanh thu giảm.
Lợi nhuận: là phần chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động kinh doanh và chi phí
từ hoạt động kinh doanh, thể hiện phần lợi ích mà doanh nghiệp đạt được.
Chỉ tiêu hiệu quả:
Doanh thu trên chi phí: chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ
trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này cao khi tổng chi phí thấp
và doanh thu cao do vậy có ý nghĩa khuyến khích các doanh nghiệp tìm ra các biện
pháp giảm chi phí để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Doanh thu trên chi phí=
Doanh thu trên tổng vốn kinh doanh: chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp sẽ tạo ra được bao nhiêu doanh thu. Do đó, nó có ý nghĩa
khuyến khích các doanh nghiệp trong việc quản lý vốn chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm và
có hiệu quả đồng vốn kinh doanh.
Doanh thu trên đồng vốn=

18


Tỷ suất lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA)
Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, một đồng vốn tạo

ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh trình độ sử dụng ¯ếu tố vốn của doanh
nghiệp, ROA càng cao thì càng tốt vì doanh nghiệp đang kiếm được nhiều tiền hơn
trên lượng đầu tư ít hơn:
ROA=
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí
Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ tạo ra
đượcbao nhiêu đồng lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí=
Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ đồng
doanh thu, giảm chi phí hoặc tốc độ tăng doanh thu phải lớn hơn tốc độ tăng chi phí
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần=

1.3. Các ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
1.3.1. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế tới nguồn vốn của doanh nghiệp
Hiện nay, ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
Việt Nam là vấn đề về nguồn vốn kinh doanh. Nguồn vốn kinh doanh của doanh
nghiệp cũng có thể là vốn tự có, vốn vay ngân hàng hoặc của các tổ chức tín dụng
khác. Nhưng phần lớn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp là vay vốn ngân hàng. Sự
biến đổi lãi suất cho vay trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Suy thoái kinh tế đã tác động lớn đến hệ thống ngân hàng, gây ra
tình trạng doanh nghiệp đói vốn nhưng ngân hàng vẫn không cho vay. Suy thoái làm
rất nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng, có nguy cơ phá sản
nhưng lại không tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. Lãi suất giảm có thể giúp doanh
nghiệp vực dậy được trong cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong khi đó, do có nhiều
doanh nghiệp phá sản nên tình trạng nợ xấu của các ngân hàng tăng cao đến mức báo
động, các ngân hàng đặt ra các điều kiện cho vay rất khắt khe để đảm bảo khả năng chi

19



trả nợ của doanh nghiệp mà các doanh nghiệp đang gặp khó khăn thì đến tài sản thế
chấp cũng là một vấn đề chứ chưa nói đến các điều kiện ngân hàng đưa ra.
1.3.2. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến khối lượng tiêu thụ sản phẩm và
doanh thu của doanh nghiệp
Trong thời kỳ suy thoái, DN gặp nhiều khó khăn nhưng cho rằng khó khăn quan
trọng nhất đó là sức mua của thị trường giảm sút một cách nghiêm trọng. Điều này đã
làm giảm lượng cầu gây khó khăn cho vấn đề giải quyết đầu ra của DN. Đây có thể
còn là tác động lớn nhất của suy thoái kinh tế tới tiêu thụ sản phẩm. Các khó khăn
khác mang tính chất nội tại trong DN chiếm tổng số ít hơn. Bên cạnh đó, DN cũng
chịu áp lực không nhỏ về giá bán. Áp lực này đến từ cả hai phía đó là tăng giá bán đối
với DN và giảm giá bán đối với khách hàng. Đối với DN, vì giá đầu vào tăng lên gần
20%, để đảm bảo lợi nhuận cho các nhà đầu tư và cho cả quá trình tái sản xuất mở
rộng, DN phải chịu áp lực không nhỏ là phải tăng giá bán. Đối với khách hàng, trong
thời kỳ kinh tế khó khăn, với nguồn ngân quỹ tăng lên với tốc độ giảm hoặc thấp hơn
so với thời kỳ trước. Vì vậy, để có thể bán được hàng hóa, DN phải giảm giá, đây là
một áp lực rất lớn. Để giải quyết áp lực về giá bán trong thời kỳ STKT, chiến lược ổn
định giá bán được nhiều DN lựa chọn. Điều này được thể hiện thông qua những chính
sách hạn chế điều chỉnh giá bán, cố gắng duy trì ở mức trước thời kỳ suy thoái. Giá
bán được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng ngân quỹ chi tiêu của khách hàng chứ không
phải là lợi nhuận mục tiêu hay tốc độ tăng của giá cả NVL đầu vào.
1.3.3. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến chi phí kinh doanh của doanh
nghiệp
Để tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có đầy đủ yếu tố cơ
bản là: lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Quá trình sử dụng các yếu tố
cơ bản trong kinh doanh cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải chi ra những
chi phí kinh doanh tương ứng: chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí bảo quản,
chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Do đó
nếu không có chi phí thì doanh nghiệp không thể tồn tại và tiến hành các hoạt động

sản xuất kinh doanh được. Chi phí thì không ngừng tăng do tăng giá điện, giá xăng và
chi phí quản lý nên doanh nghiệp thương mại buộc phải tăng giá bán dịch vụ. Nhưng
trong tình trạng suy thoái, cầu của người dân thấp mà tăng giá nhiều thì không bán
được sản phẩm nên dù chi phí có tăng nhưng các doanh nghiệp cũng không tăng giá
nhiều. Như vậy, suy thoái kinh tế làm cho chi phí đầu vào tăng lên dẫn đến làm giảm
doanh thu của doanh nghiệp.

20


1.3.4. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Trong thời kỳ suy thoái, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn quan trọng nhất đó là
sức mua của thị trường giảm sút một cách nghiêm trọng. Điều này làm giảm lượng cầu
gây khó khăn cho vấn đề giải quyết đầu ra của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng chịu áp lực không nhỏ về giá bán. Áp lực này
đến từ cả hai phía đó là tăng giá bán đối với doanh nghiệp và giảm giá bán đối với
khách hàng. Đối với doanh nghiệp, vì giá đầu vào tăng lên để đảm bảo lợi nhuận cho
các nhà đầu tư và cho cả quá trình tái sản xuất mở rộng, doanh nghiệp phải chịu áp lực
không nhỏ là phải tăng giá bán.
Suy thoái kinh tế gây áp lực lên doanh nghiệp: chi phí đầu vào thì tăng trong khi
đó muốn bán được hàng thì phải giảm giá bán đối với khách hàng, nếu bán với giá cao
thì không tiêu thụ được sản phẩm, tức là doanh thu giảm mà chi phí tăng dẫn đến lợi
nhuận của doanh nghiệp giảm. Để giải quyết áp lực về giá bán trong thời kỳ suy thoái
kinh tế, chiến lược ổn định giá bán được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Điều này được
thể hiện thông qua những chính sách hạn chế điều chỉnh giá bán, cố gắng duy trì ở
mức trước thời kỳ suy thoái hoặc tăng không đáng kể.
Suy thoái kinh tế diễn ra, tác động đến mọi mặt của kinh tế xã hội. Mặc dù chính
phủ đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp như giảm lãi suất, gia
hạn thuế nhưng rất nhiều doanh nghiệp không tiếp cận được với nguồn vốn vay lãi
thấp nhưng phải chấp nhận vay ở mức lãi cao để hoạt động kinh doanh làm tăng chi

phí kinh doanh. Doanh nghiệp vẫn phải mất chi phí quản lý, lương nhân viên .... trong
khi không tiêu thụ được sản phẩm lợi nhuận của doanh nghiệp giảm.
1.3.5. Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến thị trường tiêu thụ của doanh
nghiệp.
Thị trường tiêu thụ: do suy thoái kinh tế mà cầu của người dân giảm, doanh thu
của các thị trường giảm và cơ cấu thị trường cũng thay đổi. Các doanh nghiệp thường
đưa hàng về khu vực nông thôn để tiêu thụ. Khu vực nông thôn mới và ngoại thành là
khu vực đang trên đà phát triển, xuất hiện nhiều khu công nghiệp nên phù hợp với các
doanh nghiệp trong tình trạng suy thoái nền kinh tế.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan trong, mang tinh chất sống còn của
mỗi doanh nghiệp. Thông qua hoạt động mua bán trên thị trường,các doanh nghiệp đạt
được mục tiêu chính của mình là tìm kiếm lợi nhuận. Thị trường càng lớn thì hàng hóa
tiêu thụ càng nhiều, còn thị trường bị thu hẹp hay doanh nghiệp bị mất thị trường thì
doanh nghiệp không thể tồn tại lâu được, có thể đứng trên bờ vực phá sản. Khi suy
thoái kinh tế xảy ra, thị trường cạnh tranh khốc liệt hơn bao giờ hết, nếu doanh nghiệp
không có kế hoạch kịp thời thì thị phần kinh doanh của công ty sẽ giảm.
21


×