Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

luận văn kinh tế luật pháp luật về giao ết hợp đồng cung ứng dịch vụ thực tiễn thực hiện tại công ty cổ phần đầu tư đô thị hòa bình xanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.62 KB, 63 trang )

TÓM LƯỢC
Trước bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia thì phát triển ngành dịch vụ ngày càng trở
thành yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa to lớn, không chỉ trực tiếp tạo động lực phát triển
mà còn có tác động lan tỏa tới mọi lĩnh vực trong nền kinh tế. Thế nhưng, môi trường
kinh doanh của các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ có lành mạnh hay không hoàn toàn
phụ thuộc vào yếu tố pháp luật và quản lý nhà nước về kinh tế. Việc ban hành hệ thống
luật pháp có chất lượng là điều kiện tiên quyết đảm bảo môi trường kinh doanh bình
đẳng cho các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ. Nhìn chung pháp luật về giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ của Việt Nam khá tiến bộ và quán triệt nhưng vẫn còn rải rác,
mâu thuẫn, chồng chéo lên nhau và tồn tại nhiều lỗ hổng. Chính những thiếu sót, bất
cập này đã gây ra không ít khó khăn cho các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ. Vì vậy, việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về giao kết
hợp đồng cung ứng dịch vụ là việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết đối với sự phát
triển kinh tế của một đất nước trên đà hội nhập kinh tế thế giới như Việt Nam ta.
Qua quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh cùng
với những kiến thức được trang bị ở nhà trường, em nhận thấy hợp đồng cung ứng
dịch vụ là công cụ pháp lý quan trọng, không thể thiếu của hoạt động cung ứng dịch
vụ. Vì vậy, em chọn đề tài “Pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ - Thực
tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp.
Đề tài thực hiện thông qua việc tìm hiểu các quy định pháp luật hiện hành điều
chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ và thực trạng thực hiện tại Công ty Cổ
phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh. Khóa luận với kết cấu 3 chương, tập trung nghiên
cứu những vấn đề sau:
Trước tiên, Chương 1 nghiên cứu chi tiết những lý luận cơ bản về pháp luật điều
chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ, đồng thời làm rõ các vấn đề có liên
quan bao gồm: một số khái niệm cơ bản liên quan đến giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ; cơ sở ban hành và các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ.
Tiếp theo, Chương 2 tập trung tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp


luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần
Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh. Từ đó, rút ra những bất cập của pháp luật hiện hành,
những khó khăn còn tồn tại trong giao kết hợp đồng của Công ty.

1


Cuối cùng, Chương 3 đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật, xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ và
một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ của Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh.
Vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại rất rộng lớn. Do
hạn chế về thời gian, kinh nghiệm nghiên cứu và kiến thức thực tiễn, em chưa thể đề
cập được chi tiết mọi khía cạnh của vấn đề nghiên cứu cũng như không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Kính mong thầy cô chỉ bảo, đóng góp ý kiến để đề tài được
hoàn thiện hơn.

2


LỜI CẢM ƠN
Để có được những kiến thức như ngày hôm nay, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành tới Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trường Đại học Thương mại, các thầy cô
giáo khoa Kinh tế - Luật đã tận tình truyền đạt, trang bị cho em những kiến thức bổ
ích, đó chính là những nền tảng cơ bản, là hành trang vô cùng quý giá cho em bước
vào sự nghiệp sau này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo - ThS Nguyễn Thị Nguyệt,
người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo em tận tình trong quá trình hoàn thiện khóa luận
tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám đốc và toàn thể nhân

viên Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh đã giúp đỡ, chỉ bảo và hướng dẫn
em trong quá trình thực tập và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Mặc dù đã nỗ lực hết mình trong quá trình hoàn thành khóa luận nhưng do thời
gian và kiến thức còn hạn chế, hiểu biết của bản thân về vấn đề nghiên cứu còn chưa
thực sự đầy đủ nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, em
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, nhận xét quý báu của thầy cô để khóa
luận được hoàn thiện hơn đồng thời giúp em bổ sung kiến thức phục vụ cho chuyên
ngành sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!

3


MỤC LỤC
TÓM LƯỢC.................................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................................iii
MỤC LỤC................................................................................................................... iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU.........................................................................................vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT....................................................................................vii
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.....................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan....................................................2
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu..................................................................3
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu..........................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................6
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp..................................................................................7
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ...................................................................................8
1.1. Khái quát về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.............................................8
1.1.1. Khái quát về hợp đồng cung ứng dịch vụ...........................................................8

1.1.2. Khái quát về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ...........................................13
1.2. Cơ sở ban hành và các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ...............................................................................................14
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ......................................................................................................................... 14
1.2.2. Các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ......................................................................................................................... 16
1.3. Nguyên tắc pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ......18
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ. THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN ĐẦU TƯ ĐÔ THỊ HÒA BÌNH XANH.........................................................21
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến giao kết hợp đồng cung
ứng dịch vụ.................................................................................................................21
2.1.1. Tổng quan tình hình pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.........21
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.................22
2.2. Giới thiệu chung về Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh.............23
2.3. Thực trạng pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ và
thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh................25
4


2.3.1. Quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.........................25
2.3.2. Quy định về trình tự, thủ tục giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.................27
2.3.3. Quy định về nội dung giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ............................35
2.4. Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu........................................................41
2.4.1. Những thành tựu mà Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh đạt
được trong quá trình giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.......................................41
2.4.2. Một số bất cập trong quá trình giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ của Công
ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh.................................................................42
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH

VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
ĐẦU TƯ ĐÔ THỊ HÒA BÌNH XANH.....................................................................45
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ........................................................................................................................45
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ........................................................................................................................47
3.2.1. Về phía Nhà nước.............................................................................................47
3.2.2. Về phía công ty..................................................................................................52
3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu...................................................53
KẾT LUẬN................................................................................................................53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................55

5


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng
Bảng: Kết quả kinh doanh của công ty trong 3 năm 2015 –
2017

6

Trang
24


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt


Nghĩa của từ viết tắt

1
2
3

BLDS
LTM
TAND

Bộ luật Dân sự
Luật thương mại
Tòa án nhân dân

7


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài khóa luận.
Trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức hiện nay, ngành dịch vụ có vai trò
ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế thế giới và các nền kinh tế quốc gia. Khi nền
kinh tế ngày càng phát triển thì việc cung ứng dịch vụ càng trở nên đa dạng hơn nhằm
phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng như đáp ứng được tốc độ phát
triển của nền kinh tế. Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc mở cửa thị trường (khi gia nhập WTO)
đồng nghĩa với Việt Nam được tiếp cận thị trường dịch vụ của tất cả các nước thành
viên, một thị trường vô cùng rộng lớn, hứa hẹn gặt hái nhiều thành công. Sau nhiều
năm đàm phán, năm 1995 Hiệp định về thương mại dịch vụ ( GATS) đã được ký kết và
trở thành một trong những hiệp định quan trọng nhất của WTO. Có thể thấy, phát triển

và tự do hóa ngành dịch vụ nói chung, phát triển và tự do hóa thương mại dịch vụ nói
riêng đang trở thành chính sách ưu tiên của các nước.
Trong xu thế chung của thế giới, ngành dịch vụ của Việt Nam đã phát triển hết
sức nhanh chóng. Kế đó, pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ cũng ngày càng
hoàn thiện hơn để thích ứng với những đổi thay trong xã hội và cạnh tranh kinh tế.
Nhiều năm qua, ngành dịch vụ Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận,
song còn không ít lỗ hổng và bất cập, vẫn chưa xứng với tiềm năng và yêu cầu của
phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, nhìn chung pháp luật về giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ của Việt Nam khá tiến bộ, quán triệt, thể chế hóa được các chủ
trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước nhưng vẫn còn rải rác,
thiếu tính thống nhất, không đồng bộ, chồng chéo lên nhau và cứng nhắc. Chính những
thiếu sót, bất cập này đã gây ra không ít khó khăn cho các chủ thể khi tham gia giao
kết hợp đồng cung ứng dịch vụ. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải tiến hành
một cuộc cải cách pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ cho thực sự phù
hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang trên đà phát triển sâu rộng, đa dạng và
mạnh mẽ hiện nay.
Xuất phát từ thực tế nêu trên và thực tiễn trong việc giao kết các hợp đồng cung
ứng dịch vụ mà em nhận thấy trong quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị
Hòa Bình Xanh, em đã chọn đề tài: “Pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh” để làm rõ hơn về
điều này. Đề tài góp phần làm sáng rõ những căn cứ, cơ sở cần thiết để xây dựng và hoàn
thiện khung pháp luật điều chỉnh việc giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ ở nước ta và
đưa ra các kiến giải cho việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về vấn đề này.
1


2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan.
Với tầm quan trọng không hề nhỏ đối với khả năng tồn tại, phát triển của các
doanh nghiệp cũng như đối với nền kinh tế, đã có không ít các công trình khoa học,
các đề tài khóa luận, các bài viết, bài báo,... dành mối quan tâm đặc biệt nghiên cứu
các vấn đề về hợp đồng (trong đó có vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ). Các

góc độ, cấp độ khác nhau của những công trình nghiên cứu, các bài viết, bài báo cho
thấy một cái nhìn toàn diện hơn về pháp luật giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trên
nhiều khía cạnh. Nổi bật là những công trình nghiên cứu, các luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp, những bài báo khoa học đăng trên các tạp chí sau:
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Thương mại dịch vụ - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” của GS.TS Hồ Văn Tĩnh – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đề
tài chỉ ra nội dung cơ bản của thương mại dịch vụ và thực tiễn hoạt động thương mại
dịch vụ ở Việt Nam cũng như so sánh với các nước phát triển khác trên thế giới. Từ đó,
giáo sư đưa ra định hướng để phát triển bền vững các ngành nghề dịch vụ thương mại.
Ở nghiên cứu này, giáo sư tìm hiểu về hoạt động thương mại dịch vụ nói chung chứ
không đi sâu vào phân tích lý luận pháp lý của Việt Nam về cung ứng dịch vụ thương
mại cũng như các tình huống thực tiễn về việc áp dụng pháp luật cung ứng dịch vụ.
- Luận văn “Ký kết hợp đồng kinh tế” - tác giả Phạm Mai Phương, bảo vệ thành
công năm 2014. Luận văn nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chế độ pháp lý của hợp
đồng kinh tế, thực trạng ký kết hợp đồng kinh tế và đưa ra một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế. Luận văn chưa phân tích cụ thể, chi
tiết những vấn đề pháp lý, thực trạng, thực tiễn của vấn đề giao kết hợp đồng trong
hoạt động cung ứng dịch vụ ở Việt Nam gắn liền với một vài doanh nghiệp cụ thể.
- Chuyên đề tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Mơ - Khoa luật, Trường đại
học Quốc gia Hà Nội (2011), “Những vấn đề pháp lý về hợp đồng dịch vụ - thực tiễn
giải quyết tranh chấp về hợp đồng dịch vụ”. Ngoài việc tìm hiểu những vấn đề pháp lý
về hợp đồng dịch vụ, đề tài còn đi sâu vào việc phân tích những vụ việc thực tế về giải
quyết tranh chấp hợp đồng dịch vụ.
- Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Yến – Khoa Luật Kinh tế, Viện
đại học mở Hà Nội (2013), “Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch và thực tiễn áp
dụng tại Công ty TNHH nhà nước một thành viên Thăng Long – GTC”. Đề tài tập
trung nghiên cứu pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch, thực tiễn ký kết và thực hiện
hợp đồng này tại công ty TNHH nhà nước một thành viên Thăng Long – GTC. Đề tài
này chỉ đề cập đến pháp luật về cung ứng dịch vụ ở mảng du lịch chứ không đưa ra
những vấn đề pháp lý thuộc phạm vi thương mại.


2


- Bài viết của Th.S Hà Công Bảo Anh (2013) “Hợp đồng thương mại dịch vụ và
vai trò của nó đối với doanh nghiệp”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại. Bài viết đưa ra một
khái niệm mới về thương mại dịch vụ, từ đó phân tích vai trò và tầm quan trọng của
loại hợp đồng này đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
- Bài viết “Pháp luật về hợp đồng kinh tế” của tác giả Lê Thị Bích Ngọc, đăng
trên trang voer.edu.vn ngày 10 tháng 07 năm 2014. Bài viết tập trung nghiên cứu về
các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Ngoài ra còn có các giáo trình gồm:
- Giáo trình Luật Dân sự (2017), NXB Đại học Luật Hà Nội.
- Giáo trình Luật thương mại (2005), NXB khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Hợp Toàn (Chủ biên), “Giáo trình pháp luật kinh tế” (2005), NXB khoa
Luật kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân.
Các công trình trên đã nghiên cứu, đánh giá những vấn đề có liên quan đến hợp
đồng dịch vụ ở những khía cạnh khác nhau và là tài liệu tham khảo hữu ích cho khóa
luận nghiên cứu pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên, do có
những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau nên các tác giả chưa đề cập một
cách toàn diện, chưa đi sâu vào nghiên cứu các quy định của pháp luật về giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ, đặc biệt nghiên cứu tại một doanh nghiệp cụ thể. Hơn nữa, các
công trình nghiên cứu trên có một số bài viết đã trở nên cũ so với nội dung pháp luật
hiện nay khi BLDS 2015 mới đi vào hoạt động và rất nhiều luật khác được thay đổi.
Do đó, em đã chọn đề tài: “Pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ - Thực
tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh” để tiếp tục kế thừa,
phát triển và nghiên cứu sâu hơn pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.
Khóa luận sẽ đi sâu vào nghiên cứu các quy phạm pháp luật về giao kết hợp đồng cung
ứng dịch vụ và thực trạng áp dụng của một vài doanh nghiệp cụ thể cũng như đặc điểm
và vai trò của loại hợp đồng này đối với các doanh nghiệp thương mại để từ đó đề xuất

các giải pháp hoàn thiện hơn nữa những quy định pháp luật về vấn đề này.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Hầu hết các công trình nghiên cứu liên quan đến cung ứng dịch vụ trong hoạt
động thương mại chỉ đưa ra những khái quát về hoạt động thương mại dịch vụ, nêu lên
thực trạng tại Việt Nam hay tại các doanh nghiệp Việt Nam và đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thương mại dịch vụ mà chưa có nhiều đề tài đi
sâu nghiên cứu các quy định pháp lý đối với việc giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ
nên các thông tin về pháp luật giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ còn bị hạn chế. Do
đó, có nhiều cách hiểu khác nhau trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về
giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ vào thực tiễn cũng là điều tất yếu.
3


Qua thời gian tìm hiểu thực tế về vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ tại
Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh cho thấy bên cạnh những kết quả đạt
được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Để giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ một cách hiệu quả, thực sự phát huy vai trò của hợp đồng thì cần phải có
những biện pháp để hoàn thiện hơn việc giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ. Trên
cơ sở đó, em chọn đề tài: “Pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ - Thực
tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp.
Qua việc lựa chọn đề tài này, em muốn tập trung nghiên cứu một số vấn đề
pháp lý về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ
phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh, qua đó hiểu rõ hơn pháp luật về giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ. Từ đó, tìm ra những vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải
pháp nhằm góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ đồng thời đưa ra một số đề xuất giúp công ty nâng cao hiệu quả trong việc
giao kết loại hợp đồng này.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là: Các văn bản quy phạm pháp luật của
Việt Nam điều chỉnh về vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ và thực trạng áp
dụng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ tại Công ty Cổ
phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu.
Khóa luận được xây dựng với mục tiêu làm cho người đọc thấy rõ các vấn đề
pháp lý về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ được quy định trong một số văn bản
quy phạm pháp luật của Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật đó
thông qua việc nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng tại một doanh nghiệp cụ thể.
Trên cơ sở phân tích lý thuyết kết hợp phân tích thực tiễn áp dụng tại một doanh
nghiệp cụ thể để tìm ra mặt tích cực, mặt hạn chế, những thiếu sót của hệ thống pháp
luật quy định các vấn đề liên quan đến giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ. Từ đó đưa
ra một số biện pháp, kiến nghị nhằm xây dựng, hoàn thiện một khung pháp lý hoàn
chỉnh nhất về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ, góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt
Nam phát triển mạnh mẽ trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Từ mục đích nghiên cứu trên, khóa luận đặt ra các mục tiêu cụ thể sau:
- Thứ nhất, tìm hiểu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ và nội dung pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.

4


- Thứ hai, phân tích thực trạng các quy định của pháp luật về giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa
Bình Xanh. Từ đó đánh giá những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật,
của công ty.
- Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, khóa luận đưa ra
một số kiến nghị, giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh nói riêng cũng
như của Việt Nam nói chung.

4.3. Phạm vi nghiên cứu.
Do kiến thức còn hạn hẹp và thời gian nghiên cứu không nhiều nên khóa luận
được giới hạn trong phạm vi sau:
a) Về mặt thời gian:
Khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch
vụ kể từ năm 2005 cho đến nay. Bên cạnh đó, khóa luận đề xuất các giải pháp và kiến
nghị từ nay cho đến năm 2020.
b) Về mặt không gian:
Khóa luận sẽ đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ, điển hình tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh và một
số doanh nghiệp khác.
c) Về mặt nội dung:
Khóa luận hướng đến các vấn đề chính sau:
- Chương 1: Khóa luận trình bày những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh
vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ như: khái niệm, đặc điểm của hợp đồng
cung ứng dịch vụ và các nguyên tắc, nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ.
- Chương 2: Nghiên cứu và đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao
kết hợp đồng cung ứng dịch vụ và thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị
Hòa Bình Xanh.
- Chương 3: Đưa ra những định hướng và các giải pháp hoàn thiện khung pháp lý
về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.
d) Nguồn tư liệu:
Khóa luận không giới hạn về nguồn tư liệu. Nguồn tư liệu có thể là các luật và bộ
luật như LTM 2005, BLDS 2015,... các văn bản quy phạm pháp luật, các công trình
khoa học, bài báo, bài viết, sách, tạp chí hay các website,... có liên quan đến vấn đề
giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.

5



5. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như:
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp hay phương
pháp điều tra số liệu. Trong đó:
- Phương pháp phân tích:
Phân chia đề tài nghiên cứu thành các phần lý luận, thực trạng, đánh giá, giúp
cho việc phân tích được dễ dàng và có một cái nhìn khách quan. Dựa trên cơ sở các
khái niệm và các tài liệu đã thu thập được, dùng phương pháp phân tích để phân tích,
đánh giá nội dung các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ
cũng như phân tích rõ vai trò để làm nổi bật lên tầm quan trọng của việc giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ trong Chương 1 và thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ phần
Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh trong Chương 2. Từ đó đánh giá các kết quả đạt được và
những hạn chế để đưa ra các giải pháp giải quyết.
- Phương pháp tổng hợp:
Tổng hợp các quan điểm, các công trình nghiên cứu, các bài viết, bài báo, các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ để có
cái nhìn tổng quan nhất (trong Chương 1). Kế đó, từ những kết quả đã phân tích, tổng
hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về pháp luật giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ và đề xuất các giải pháp hoàn thiện (trong Chương 2 và Chương 3).
- Phương pháp thu thập số liệu:
Dựa trên nguồn thông tin sơ cấp, thứ cấp thu thập được từ các nghiên cứu trước
đây và từ nguồn thông tin có được qua thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Đầu tư
đô thị Hòa Bình Xanh để xây dựng cơ sở luận cứ và làm minh chứng cho các lập luận
đưa ra trong bài.
+ Thu thập các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật và các tài liệu tổng
quan quy định về giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng cung ứng dịch vụ nói riêng
như: LTM 2005, BLDS 2015,... và một số văn bản pháp luật có liên quan. Từ đó đưa
ra một số nội dung pháp lý về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ.
+ Thu thập sổ sách, số liệu có liên quan đến việc giao kết hợp đồng cung ứng

dịch vụ trong Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh để làm rõ thực trạng áp
dụng pháp luật trong quá trình giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ của công ty.
- Phương pháp so sánh:
Phương pháp được sử dụng để so sánh dữ liệu giữa các văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động thương
mại và đối chiếu với các văn bản pháp luật có liên quan. Đồng thời, so sánh kết quả

6


Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh đạt được trong giao kết hợp đồng cung
ứng dịch vụ với mục tiêu ban đầu mà công ty đã đề ra (trong chương 2).
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, đề tài còn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu khác như: phương pháp quan sát, phương pháp suy luận, phương pháp
phỏng vấn và phương pháp liệt kê (liệt kê các hệ thống và các văn bản có liên quan để
làm căn cứ cho lý luận),...
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.
Với mục tiêu và phạm vi nghiên cứu như đã nêu ở trên, đề tài ngoài tóm lược, lời
cảm ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục từ viết tắt, lời mở đầu, danh mục tài
liệu tham khảo và kết luận thì khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng dịch
vụ. Thực tiễn áp dụng tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp
đồng cung ứng dịch vụ tại Công ty Cổ phần Đầu tư đô thị Hòa Bình Xanh.

7



CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
CUNG ỨNG DỊCH VỤ
1.1. Khái quát về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ
1.1.1. Khái quát về hợp đồng cung ứng dịch vụ
Hợp đồng cung ứng dịch vụ trước hết là một hợp đồng, vì vậy muốn hiểu rõ về
hợp đồng cung ứng dịch vụ trước tiên cần hiểu rõ khái niệm hợp đồng.
Hợp đồng là một khái niệm xuất hiện từ rất lâu và hiện nay có nhiều cách hiểu
khác nhau về nó. Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống pháp
luật cũng khác nhau.
Ngay từ thời La Mã cổ đại hợp đồng đã chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong
pháp luật về nghĩa vụ dân sự. Những quy định của người La Mã cổ đại về hợp đồng
dân sự đã trở thành kim chỉ nam cho các nhà làm luật của nhiều nước trên thế giới.
Trong pháp luật La Mã, hợp đồng được coi là “ hình thức thể hiện ý chí của các giao
dịch song phương và việc xác lập chúng có thể trực tiếp làm xác lập, thay đổi hay
chấm dứt quyền và nghĩa vụ” 1.
Theo quy định tại Điều 1.101, Chương I, những quy định mở đầu về hợp đồng và
nghĩa vụ hợp đồng trong BLDS Cộng Hòa Pháp thì: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa
các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc
chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó” 2. Theo định nghĩa
này, hợp đồng chính là sự thống nhất ý chí giữa hai hoặc nhiều người, không giới hạn
số người tham gia vào quan hệ hợp đồng, trong đó liên quan tới việc mua bán một vật
hoặc không được làm một việc gì đó.
Trong khi đó, Điều 1.378 Chương II, Mục 1, Quyển 5 về các nghĩa vụ dân sự,
BLDS Qué bec (Canada) quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí về việc một hoặc
một số người nhận thực hiện nghĩa vụ đối với một hoặc một số người khác”.
Theo quy định tại Điều 1.201 Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ thì: “Hợp
đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự “thỏa thuận” của các bên…”.
Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc 1999 quy định: “Hợp đồng theo quy định
của luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân

sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên, các tổ chức khác…” 3. Như vậy, cũng giống
như pháp luật La Mã, khái niệm hợp đồng trong pháp luật Trung Quốc được nhìn nhận
như một căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể. Tuy nhiên, điều khác biệt
1 Đinh Thị Mai Phương, Thống nhất luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, 2005, trang 8.
2 Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ luật Dân sự nước cộng hòa Pháp , Nxb Chính trị Quốc gia, 1998, trang 34.
3 Đinh Thị Mai Phương, Thống nhất luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, 2005, trang 14.

8


là BLDS Trung Quốc nhấn mạnh yếu tố bình đẳng giữa các chủ thể (cá nhân, pháp
nhân,...) của hợp đồng.
Tương tự như cách định nghĩa về hợp đồng của BLDS Pháp, khoản 1 Điều 420
BLDS Nga (1994) quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về
việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”4.
Dưới góc độ pháp luật thực định, khái niệm hợp đồng tại Việt Nam được quy
định tại Điều 385 BLDS 2015, theo đó: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Như vậy, các định nghĩa trên tuy có cách thể hiện khác nhau phù hợp cách thức
lập pháp của từng quốc gia nhưng nói chung đều chỉ rõ bản chất của hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các chủ thể, hay nói cách khác yếu tố thống nhất ý chí của các bên.
Khi đối chiếu với định nghĩa hợp đồng của BLDS 2015 của Việt Nam thì có thể nói,
khái niệm hợp đồng của BLDS 2015 có nhiều điểm giống BLDS Nga, Trung Quốc
nhưng thể hiện tính ngắn gọn, súc tích và đầy đủ.
Có thể nói, thuật ngữ “hợp đồng” là một phạm trù đa nghĩa và có thể được xem
xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm “hợp đồng”
theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, “hợp
đồng” là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các “quy
phạm pháp luật được quy định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
(chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các

chủ thể với nhau”. Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng “là sự ghi nhận kết quả của việc
cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết hợp đồng” hay “là kết quả của việc thỏa
thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về
quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện”.
Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận, là kết quả của quá trình
thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật có quy
định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Xét về vị trí và
vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, là căn cứ
pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Một hợp đồng
phải xuất phát từ yếu tố thoả thuận nhưng không phải mọi thoả thuận đều là hợp đồng.
Chỉ những thoả thuận làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các
bên mới tạo nên quan hệ hợp đồng.
Như vậy có thể hiểu: Hợp đồng là phương tiện pháp lý, là sự thể hiện ý chí của
các bên để làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Hợp đồng là loại hành vi pháp lý cơ
4 Nguyễn Ngọc Khánh, chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, 2005, trang 35.

9


bản và thông dụng nhất. Ý chí của các bên đóng vai trò quan trọng trong hợp đồng, khi
sự thống nhất của các ý chí là thực chất và không trái pháp luật thì nó sẽ làm phát sinh
nghĩa vụ ràng buộc các bên.
Khái niệm hợp đồng cung ứng dịch vụ:
Quan hệ cung ứng dịch vụ được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý
là hợp đồng cung ứng dịch vụ. Hợp đồng cung ứng dịch vụ mang bản chất chung của
hợp đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ trong quan hệ cung ứng dịch vụ.
Dịch vụ xuất hiện từ khá lâu, ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan trọng
trong đời sống kinh tế - xã hội. Ngày nay, có thể dễ dàng nhận thấy nhiều loại hình

dịch vụ trong đời sống thường ngày như: dịch vụ ăn uống, giặt là, cắt tóc, dịch vụ giáo
dục, dịch vụ vận chuyển hàng hóa,...Tuy nhiên, hiện nay tồn tại nhiều khái niệm khác
niệm khác nhau về dịch vụ.
Theo Luật giá năm 2012: “Dịch vụ là hàng hóa có tính vô hình, quá trình sản
xuất và tiêu dùng không tách rời nhau, bao gồm các loại dịch vụ trong hệ thống ngành
sản phẩm Việt Nam theo quy định của pháp luật”. Tính vô hình của dịch vụ thể hiện ở
chỗ sản phẩm dịch vụ không có kiểu dáng, kích cỡ rõ ràng như sản phẩm hàng hóa nên
không nhận biết được bằng các giác quan ( ngửi, xem, sờ,...). Tính vô hình của dịch vụ
biểu hiện ở các mức độ khác nhau, nói cách khác, sự pha trộn giữa phần hiện hữu và
không hiện hữu trong các dịch vụ là khác nhau.
Trong từ điển Wikipedia, dịch vụ trong kinh tế học được hiểu là những thứ tương
tự như hàng hoá nhưng phi vật chất, bản chất của dịch vụ là sự cung ứng để đáp ứng
nhu cầu như: dịch vụ du lịch, thời trang, chăm sóc sức khoẻ...và mang lại lợi nhuận.
Về bản chất, dịch vụ là sản phẩm được tạo ra để thỏa mãn nhu cầu khác nhau của con
người. Khi sử dụng dịch vụ, nhất là dịch vụ thương mại, người sử dụng phải trả một
khoản tiền nhất định cho bên cung ứng dịch vụ, tức là dịch vụ cũng có giá trị và giá trị
sử dụng như là hàng hóa. Chỉ có điều, dịch vụ là sản phẩm hàng hóa vô hình, người sử
dụng không sở hữu dịch vụ mà chỉ được hưởng những tiện ích từ dịch vụ mang lại. Do
vậy, dịch vụ cũng là hàng hóa nhưng là hàng hóa vô hình.
Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên
cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán;
bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung
ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
Như vậy, có thể hiểu cung ứng dịch vụ là việc mà một bên sẽ thực hiện công việc
nào đó theo yêu cầu của khách hàng và sẽ nhận lại được thanh toán cho việc của mình.

10


Theo đó, hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại được hiểu như sau: “Hợp

đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện, cung cấp dịch vụ cho bên sử
dụng dịch vụ (khách hàng), còn bên sử dụng dịch vụ phải thanh toán cho bên cung
ứng dịch vụ”. Hợp đồng cung ứng dịch vụ là hình thức pháp lý của quan hệ cung ứng
dịch vụ, nó gắn liền với hoạt động cung ứng dịch vụ.
Đặc điểm của hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại:
Hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại cũng mang những đặc điểm pháp
lý cơ bản của hợp đồng dịch vụ trong dân sự.
Thứ nhất, hợp đồng cung ứng dịch vụ là hợp đồng song vụ: Bên cung ứng dịch
vụ và bên sử dụng dịch vụ đều có quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó quyền của bên
này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Mỗi bên trong hợp đồng đều bị
ràng buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên
kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong hợp đồng cung ứng dịch vụ tồn tại hai
nghĩa vụ chính mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: bên cung ứng
dịch vụ phải thực hiện các hành vi pháp lí theo yêu cầu của bên sử dụng dịch vụ còn
bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ tiếp nhận kết quả công việc và trả tiền công cho bên
cung ứng dịch vụ. Ví dụ như trong hợp đồng vận chuyển tài sản thì bên vận chuyển có
nghĩa vụ vận chuyển hàng hóa đến đúng nơi quy định hoặc được thỏa thuận, còn bên
thuê vận chuyển có nghĩa vụ thanh toán cước phí cho bên vận chuyển. Khi các bên đã
thoả thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện nghĩa vụ của mình
khi đến hạn; không được hoãn thực hiện với lý do bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối
với mình, trừ trường hợp tài sản của bên kia đã bị giảm sút nghiêm trọng đến mức
không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã cam kết cho đến khi bên kia có khả năng
thực hiện được nghĩa vụ hoặc có người bảo lãnh; hoặc nếu bên thực hiện nghĩa vụ
trước chưa thực hiện nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Trong trường hợp các bên không
thoả thuận bên nào thực hiện nghĩa vụ trước thì các bên phải đồng thời thực hiện nghĩa
vụ đối với nhau; nếu nghĩa vụ không thể thực hiện đồng thời thì nghĩa vụ nào khi thực
hiện mất nhiều thời gian hơn thì nghĩa vụ đó phải được thực hiện trước.
Thứ hai, hợp đồng cung ứng dịch vụ là hợp đồng ưng thuận: Quyền và nghĩa vụ
của bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ phát sinh ngay sau khi các bên đã

thỏa thuận với nhau xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng. Trong hợp đồng cung
ứng dịch vụ, dù rằng các bên chưa trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết nhưng
đã phát sinh quyền yêu cầu của bên này đối với bên kia trong việc thực hiện hợp đồng.
Hay nói cách khác, hợp đồng cung ứng dịch vụ là hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực
của nó được xác định tại thời điểm giao kết.
11


Ngoài những đặc điểm trên, với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ cung
ứng dịch vụ, hợp đồng cung ứng dịch vụ còn có những đặc điểm riêng nhất định, xuất
phát từ bản chất thương mại của hành vi cung ứng dịch vụ:
Thứ nhất, đối tượng của hợp đồng là một loại hình dịch vụ nào đó, tính chất của
hợp đồng sẽ tùy thuộc vào từng loại hình dịch vụ. Cụ thể là việc thực hiện công việc
theo yêu cầu của bên sử dụng dịch vụ. Đó có thể là những dịch vụ đơn giản (dịch vụ
gửi giữ tài sản, dịch vụ dịch thuật,…) hay những dịch vụ phức tạp hơn (dịch vụ tư vấn,
dịch vụ quảng cáo, dịch vụ chuyên chở, dịch vụ ngân hàng,…). Bên cung ứng dịch vụ
bằng khả năng của mình phải thực hiện công việc mà bên sử dụng dịch vụ yêu cầu,
còn bên sử dụng dịch vụ được hưởng những lợi ích từ việc thực hiện dịch vụ của bên
cung ứng dịch vụ mang lại. Do vậy, đối tượng của quan hệ cung ứng dịch vụ khác với
đối tượng của quan hệ mua bán hàng hóa; bởi vì quan hệ mua bán hàng hóa hướng tới
đối tượng là hàng hóa hữu hình có thể nhìn thấy còn quan hệ cung ứng dịch vụ thương
mại hướng tới đối tượng hàng hóa vô hình hay thực hiện, không thực hiện công việc
nhất định. Tuy nhiên các dịch vụ này phải là các dịch vụ có thể thực hiện được, không
bị pháp luật cấm và không trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, chủ thể của hợp đồng là bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ
(khách hàng). Bên cung ứng dịch vụ bắt buộc phải là thương nhân, có đăng kí kinh
doanh để cung cấp dịch vụ thương mại theo quy định của pháp luật. Bên sử dụng dịch
vụ thương mại có thể là thương nhân, có thể không phải thương nhân, có nhu cầu sử
dụng dịch vụ thương mại của bên cung ứng dịch vụ. Ví dụ, bên cung ứng dịch vụ có
thể là một công ty viễn thông cho khách hàng là cá nhân. Cũng như có trường hợp bên

cung ứng dịch vụ là một cá nhân (chuyên gia pháp lý) cung ứng dịch vụ tư vấn pháp lý
cho một tổ chức (công ty, doanh nghiệp).
Thứ ba, nội dung của hợp đồng là quyền và nghĩa vụ của hai bên, trong đó bên
cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ chủ yếu là thực hiện dịch vụ cho bên kia, còn bên sử
dụng dịch vụ có nghĩa vụ chủ yếu là thanh toán phí sử dụng dịch vụ (phí dịch vụ). Bên
sử dụng dịch vụ hướng tới mục tiêu thỏa mãn nhu cầu của mình về dịch vụ và hưởng
những lợi ích nhất định từ việc thực hiện dịch vụ của người cung ứng dịch vụ mang
lại. Đối với bên cung ứng dịch vụ thương mại, mục tiêu lớn nhất của họ là khoản tiền
thù lao hay lợi nhuận phát sinh từ việc thực hiện công việc cụ thể.
Thứ tư, hình thức của hợp đồng cung ứng dịch vụ có thể bằng lời nói, bằng văn
bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng cung ứng dịch
vụ mà pháp luật quy định phải được thiết lập bằng văn bản thì phải tuân theo các quy
định đó. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một số loại hợp đồng cung ứng dịch
vụ sau đây phải được lập dưới hình thức văn bản hay một hình thức pháp lý tương
12


đương: hợp đồng dịch vụ khuyến mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại, hợp
đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại,… Có thể thấy, với đa số
hợp đồng cung ứng dịch vụ, pháp luật Việt Nam đều yêu cầu hợp đồng được lập dưới
hình thức văn bản (trong khi các hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung thì không có
yêu cầu này). Điều này cho thấy tính chất phức tạp của hợp đồng cung ứng dịch vụ so
với hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, dù dưới hình thức nào, hợp đồng cung
ứng dịch vụ thương mại cũng thể hiện sự thỏa thuận giữa các bên về các quyền, nghĩa
vụ phát sinh từ việc thực hiện một công việc cụ thể theo yêu cầu.
1.1.2. Khái quát về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ
Khái niệm giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ:
Giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ có thể hiểu là quá trình bày tỏ, thống nhất ý
chí giữa các bên theo hình thức, nội dung, nguyên tắc, trình tự nhất định, được pháp
luật thừa nhận nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau. Thực chất, đó là

quá trình mà hai bên “mặc cả” về những điều khoản trong nội dung của hợp đồng cung
ứng dịch vụ. Quá trình này diễn ra thông qua hai giai đoạn là đề nghị giao kết hợp
đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng.
Bản chất của giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ:
Bản chất của giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ là sự thỏa thuận. Trong đó, các
bên bày tỏ và thống nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích nhất định. Việc giao kết
hợp đồng cung ứng dịch vụ cũng được xác lập trên cơ sở của sự thỏa thuận, thống nhất
ý chí giữa các bên. Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ là một quá
trình được thể hiện qua việc các bên đàm phán, thượng lượng để sửa đổi, bổ sung các
điều kiện và điều khoản của hợp đồng. Quá trình giao kết hợp đồng diễn ra với hai yếu
tố: sự bày tỏ ý chí và sự chấp nhận ý chí. Quá trình này có thể diễn ra nhanh chóng hay
kéo dài, đơn giản hay phức tạp, diễn ra đồng thời hay tiến triển ở nhiều giai đoạn khác
nhau, phụ thuộc vào các yếu tố như: ý chí của các bên về nội dung, hình thức biểu hiện
của hợp đồng,... Các bên có thể sử dụng phương thức giao kết trực tiếp (gặp nhau, trao
đổi đàm phán, thương lượng,..) hoặc phương thức giao kết gián tiếp (thông qua công
văn, các phương tiện điện tử,...) để thỏa thuận, thống nhất nội dung của hợp đồng.
Thỏa thuận chính là một trong những điều kiện quan trọng tạo nên hợp đồng
cung ứng dịch vụ. Thỏa thuận là sự thể hiện ý chí làm phát sinh các quan hệ pháp lý.
Khi một bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng và bên còn lại chấp thuận đề nghị đó thì
đã cấu thành nên một sự thỏa thuận giữa các bên. Như vậy, khi các bên không có sự
gặp nhau ở những ý định và đi đến thống nhất ý chí đối với các điều kiện và điều
khoản liên quan đến hợp đồng cung ứng dịch vụ thì hợp đồng sẽ không được ký kết.
Trong hợp đồng cung ứng dịch vụ, yếu tố quan trọng nhất chính là sự thỏa hiệp giữa
13


các ý chí, tức là có sự ưng thuận giữa các bên với nhau liên quan đến các điều kiện và
điều khoản của hợp đồng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, yếu tố thỏa thuận trong giao kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ được đề cao. Tất cả các hợp đồng cung ứng dịch vụ có hiệu lực pháp

luật đều là hệ quả sự thỏa thuận cho dù sự thỏa thuận đó được thể hiện ở hình thức này
hay hình thức khác. Tuy nhiên, không thể suy luận ngược lại là mọi sự thỏa thuận của
các bên đều là hợp đồng, bởi sự thỏa thuận chỉ được coi là hợp đồng nếu những thỏa
thuận đó phù hợp với ý chí của các bên, tức là có sự ưng thuận đích thực của các bên.
Khi xem xét về yếu tố thỏa thuận trong hợp đồng cung ứng dịch vụ có thể thấy, ngoài
yếu tố mục đích mà các bên hướng tới khi giao kết hợp đồng, thì cần phải xem xét
thấu đáo đến hai yếu tố cơ bản cấu thành lên sự thỏa thuận đó là tự do ý chí và sự ưng
thuận. Thông thường, một bên của hợp đồng (bên đề nghị) sẽ đưa ra ý chí của mình
trước, bên còn lại (bên được đề nghị) tiếp xúc với ý chí đó, nếu có sự gặp gỡ giữa ý chí
của các bên thì kết quả sẽ tạo ra một thỏa thuận. Quá trình vừa rồi chính là quá trình
của sự thỏa thuận. Chính vì vậy, ý chí chính là nguyên liệu, là tiền đề và sự ưng thuận
chính là một quá trình chế biến nguyên liệu đó để tạo ra một thỏa thuận, một hợp đồng
cung ứng dịch vụ. Để một hợp đồng cung ứng dịch vụ được giao kết thì ý chí giữa các
bên, sự trao đổi giữa các bên là vô cùng quan trọng và sự ưng thuận muốn đạt được
hiệu quả cao thì thiện chí của các bên giao kết hợp đồng là nhân tố có ý nghĩa quyết
định. Các bên càng bình đẳng, thiện chí trong giao dịch, càng hiểu rõ về nhau thì hợp
đồng cung ứng dịch vụ được giao kết sẽ càng giảm thiểu được những rủi ro cũng như
tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai.
1.2. Cơ sở ban hành và các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết
hợp đồng cung ứng dịch vụ
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng cung
ứng dịch vụ
Pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ trong thương mại là
tập hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc
thừa nhận, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa bên cung ứng dịch vụ và bên sử
dụng dịch vụ trong hợp đồng cung ứng dịch vụ nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại.
Quan hệ cung ứng dịch vụ được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý
là hợp đồng cung ứng dịch vụ. Hợp đồng cung ứng dịch vụ có bản chất chung của hợp
đồng, là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ

trong quan hệ cung ứng dịch vụ. Quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập bởi hợp
đồng giữa các bên và quy định của pháp luật. Để đảm bảo lợi ích của cả bên cung ứng
14


dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng ngừa
các tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình giao kết hợp đồng thì việc xác lập những
quy tắc chung trong quá trình giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ là yếu tố rất quan
trọng. Do vậy, việc thiết lập pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ trở thành yếu tố
tiên quyết nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế được phát triển ổn định và bền vững.
Với đặc trưng của nền kinh tế thị trường, dịch vụ là cầu nối giữa yếu tố đầu vào
và yếu tố đầu ra trong quá trình sản xuất. Từ đó, dịch vụ góp phần nâng cao hiệu quả
kinh tế, đảm bảo sự thuận tiện trong giao dịch, mua bán cũng như nâng cao văn minh
cho các lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần của con người. Ngày nay, hoạt động
cung ứng dịch vụ được thực hiện thường xuyên, liên tục và rộng khắp với một hệ
thống thị trường ngày càng phát triển đa dạng, mạnh mẽ. Các đối tác hoạt động trong
nền kinh tế thị trường đều theo đuổi lợi ích của mình; lợi ích cá nhân trở thành động
lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế và tự do cạnh tranh là thuộc tính của nền kinh tế
thị trường chính là động lực thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế
hiện nay, hầu hết những giao dịch nhằm thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng
hoá, dịch vụ, nghiên cứu,... đều liên quan đến việc thiết lập quan hệ hợp đồng – một
thoả thuận ràng buộc về mặt pháp lý thì có thể khẳng định rằng, những điều kiện ra đời
của dịch vụ cũng chính là những điều kiện ra đời của hợp đồng cung ứng dịch vụ.
Trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang trên đà phát triển sâu rộng, mạnh
mẽ và Việt Nam đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao
sức cạnh tranh quốc gia như hiện nay thì phát triển ngành dịch vụ ngày càng trở thành
yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa to lớn, không chỉ trực tiếp tạo động lực phát triển mà còn
có tác động lan tỏa tới mọi lĩnh vực trong nền kinh tế. Thêm vào đó, ở nước ta, kể từ
khi Đảng và Nhà nước thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường với nhiều thành phần sở hữu, phát triển bình đẳng, có sự quản lý của Nhà

nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch
của mình, các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải dựa vào các quan
hệ hợp đồng. Để thực hiện chức năng của mình, Nhà nước luôn chú ý đến việc điều
chỉnh vấn đề pháp lý các hoạt động kinh tế của các đơn vị kinh tế, trong đó việc điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng cung ứng dịch vụ là một nội dung hết sức quan trọng.
Trước sự vận hành của nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường thì việc đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế là cần thiết và hợp lý. Vì thế, Nhà nước đã ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng cung ứng dịch vụ nói
riêng nhằm mục đích đưa hoạt động cung ứng dịch vụ đi đúng hướng; các chủ thể
trong quan hệ cung ứng dịch vụ được tự do nhưng trong khuôn khổ pháp luật, thúc đẩy

15


kinh tế; đồng thời tạo điều kiện để Nhà nước dễ dàng quản lý hoạt động cung ứng dịch
vụ của các chủ thể trong nền kinh tế.
1.2.2. Các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng
dịch vụ
Theo pháp luật Việt Nam trước đây, hợp đồng cung ứng dịch vụ chịu sự điều
chỉnh của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Hiện nay, pháp luật điều chỉnh hợp
đồng cung ứng dịch vụ là BLDS 2015, LTM 2005 cùng một số nghị định, thông tư,...
Pháp luật điều chỉnh quan hệ cung ứng dịch vụ trong thương mại ghi nhận và bảo vệ
quyền tự do giao kết hợp đồng của mọi chủ thể. Các chủ thể được toàn quyền thỏa
thuận mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng sao cho không vi phạm các quy định của
pháp luật và trái đạo đức xã hội. Vì vậy, hợp đồng cung ứng dịch vụ trong hoạt động
thương mại đã trở thành một công cụ đắc lực phục vụ cho hoạt động kinh doanh, lưu
thông hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế thị trường.
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 không quy định riêng về vấn đề giao
kết hợp đồng cung ứng dịch vụ mà quy định về vấn đề giao kết hợp đồng kinh tế
nói chung tại Chương II của Pháp lệnh. Với 13 điều, từ Điều 9 – Điều 21, Pháp

lệnh quy định cụ thể về chủ thể, căn cứ, nội dung và hình thức giao kết của hợp
đồng kinh tế nói chung.
Cùng điều chỉnh quan hệ hợp đồng cung ứng dịch vụ với Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế năm 1989 trong khoảng thời gian này ở nước ta còn có BLDS 1995. BLDS
1995 đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình lập pháp của nước ta. Bộ luật này
có tầm quan trọng chỉ sau Hiến pháp, điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội biến thiên
không ngừng với mức độ ngày càng phức tạp. Trong BLDS 1995, với 15 điều, từ Điều
394 – Điều 408, vấn đề giao kết hợp đồng dân sự nói chung được quy định khá cụ thể
tại phần I, mục 7 thuộc chương I những quy định chung. Bên cạnh đó, hợp đồng cung
ứng dịch vụ là một trong những hợp đồng thông dụng được quy định chi tiết tại mục 7,
chương II quy định về những hợp đồng dân sự thông dụng.
Bên cạnh BLDS 1995, LTM 1997 ra đời, đã tác động tích cực đến đời sống kinh
tế - xã hội của Việt Nam, từng bước đưa hoạt động thương mại vào nề nếp; khuyến
khích, phát triển hoạt động thương mại hợp pháp; ngăn chặn và xử lý hành vi bất hợp
pháp gây ảnh hưởng xấu đến môi trường thương mại. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế Việt Nam, LTM 1997 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đòi hỏi
phải sửa đổi vì nhiều lý do, trong đó có thể kể đến lý do cơ bản như: LTM 1997 có
phạm vi điều chỉnh hẹp, chỉ xác định hoạt động thương mại bao gồm 14 hành vi
thương mại. LTM 1997 không quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ nói chung và
hợp đồng cung ứng dịch vụ nói riêng - một trong những hoạt động thương mại
16


quan trọng mà chỉ quy định các dịch vụ gắn liền với mua bán hàng hoá như dịch
vụ giao nhận, giám định hàng hoá, môi giới thương mại, gia công trong thương
mại,... Bên cạnh đó, một số nội dung của LTM 1997 chưa phù hợp, không thể hiện
kịp thời các quy định của WTO, thiếu cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế nói chung.
Theo quy luật kinh tế khách quan, khi kinh tế thay đổi với những thành tựu to lớn
của sự phát triển kinh tế của các thành phần kinh tế dẫn đến Pháp lệnh Hợp đồng kinh

tế được ban hành năm 1989, BLDS 1995 và LTM 1997 bộc lộ rõ nhiều bất cập. Trong
thực tế thì việc phân định rõ ràng giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự là rất khó
và đã gây nhiều khó khăn cho công tác áp dụng pháp luật và thẩm quyền xét xử. Hơn
nữa, pháp luật về hợp đồng không thống nhất, các quy định còn nằm rải rác trong
nhiều văn bản khác nhau, tạo ra lỗ hổng pháp lý khiến cho người áp dụng và các cơ
quan tài phán gặp khó khăn khi áp dụng các văn bản pháp luật về hợp đồng. Trong
điều kiện đó, việc hoàn thiện đổi mới các quy định của pháp luật về hợp đồng là vấn
đề đặt ra hết sức cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hơn nữa giao lưu
kinh tế cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì thế, BLDS 2005, LTM
2005 được Quốc hội khóa 11 thông qua, thay thế cho BLDS 1995, Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế 1989 và LTM 1997.
Trong BLDS 2005, bên cạnh những quy định về giao kết hợp đồng nói chung tại
mục 7, chương XVII thì quy định riêng dành cho hợp đồng cung ứng dịch vụ là từ
Điều 518 đến Điều 526 của chương XVIII. Với tổng cộng 9 điều luật dành cho hợp
đồng dân sự thông dụng này, các quy định pháp luật đã tạo nên một khung pháp lý cơ
bản dành cho hợp đồng cung ứng dịch vụ. Tuy nhiên, trên góc nhìn đối chiếu với các
thuộc tính dịch vụ cho thấy một số điểm còn chưa phù hợp như không quy định về thời
điểm thực hiện dịch vụ, chưa quy định về nghĩa vụ tiền hợp đồng dành cho các nhà
cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp (như nghĩa vụ cung cấp thông tin, tài liệu,...), chưa
quy định về tiêu chuẩn dịch vụ nói chung,... Vì vậy, việc sửa đổi nhằm nâng cao tính
khả thi của bộ luật, tạo điều kiện cho các hoạt động thương mại phát triển là hết sức
cần thiết.
Hiện nay, vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ ở Việt Nam được điều
chỉnh bởi hai văn bản pháp luật chính là LTM 2005 và BLDS 2015. Hai văn bản pháp
luật này được ban hành trong điều kiện đất nước đang hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ cũng như các
hoạt động thương mại khác phát triển, góp phần giúp cho môi trường kinh doanh ở
Việt Nam thông thoáng và hiệu quả hơn. Sau khi BLDS 2015 và LTM 2005 ra đời thì
BLDS 2005 và LTM 1997 đã được bãi bỏ.
17



BLDS 2015 với vai trò luật chung đã quy định chi tiết về vấn đề giao kết hợp
đồng nói chung tại mục 7, chương XV và quy định cụ thể về hợp đồng dịch vụ nói
riêng từ Điều 513 đến Điều 521. Về vấn đề giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ,
BLDS 2015 quy định đầy đủ về nguyên tắc, đối tượng, trình tự thủ tục, hình thức và
nội dung giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ. Bên cạnh đó, BLDS 2015 cũng đưa ra
những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cung ứng dịch vụ để
đảm bảo lợi ích hợp pháp của các bên và hạn chế tranh chấp xảy ra.
LTM 2005 với vai trò là luật chuyên ngành, đã mở rộng phạm vi điều chỉnh so
với LTM 1997, không chỉ điều chỉnh các hoạt động mua bán hàng hóa mà còn điều
chỉnh các hoạt động cung ứng dịch vụ. Hoạt động cung ứng dịch vụ nói chung và hợp
đồng cung ứng dịch vụ nói riêng được quy định trong chương III của Luật này.
Chương này gồm hai mục, nêu ra các quy định chung đối với hoạt động cung ứng dịch
vụ và quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cung ứng dịch vụ. Đối với hoạt
động cung ứng dịch vụ, Luật đưa ra quy định về hình thức của hợp đồng cung ứng
dịch vụ, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện làm
cơ sở quản lý nhà nước về thương mại dịch vụ. Song song với điều này, Luật cũng đã
có những quy định cơ bản về quyền cung ứng và quyền sử dụng dịch vụ của thương
nhân được xây dựng trên cơ sở phù hợp với quy định về thương mại dịch vụ của
WTO. Về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cung ứng dịch vụ, ngoài việc
quy định chung về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ và khách hàng, Luật còn đưa ra
các quy định đặc thù về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ tùy theo tính chất của loại
dịch vụ là dịch vụ theo kết quả công việc hay dịch vụ theo nỗ lực cao nhất.
1.3. Nguyên tắc pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng cung ứng dịch vụ
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng, được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền
nhân thân và tài sản
Quan hệ hợp đồng là quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng với nhau. Nguyên tắc
bình đẳng trước pháp luật còn được gọi là nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên. Quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể bao giờ cũng tương xứng với nhau,

quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Điều này thể hiện ở chỗ khi
đàm phán để ký kết hợp đồng cung ứng dịch vụ, các bên đều có quyền đưa ra những
yêu cầu của mình và đều có quyền chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của bên
kia. Không bên nào có quyền ép buộc bên nào. Quan hệ hợp đồng cung ứng dịch vụ
chỉ hình thành khi các bên thống nhất với nhau về các điều khoản trong hợp đồng cung
ứng dịch vụ.
Thứ hai, nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận nhưng không được vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội
18


×