Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

skkn tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học địa lí địa phương lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 118 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, làm thay đổi tất cả các lĩnh
vực, trong đó đặc biệt là khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo…dẫn đến sự
chuyển biến nhanh chóng về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực của nhiều quốc
gia. Điều này đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải có những thay đổi một cách căn
bản, toàn diện từ triết lí, mục tiêu đến nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức
dạy – học…nhằm phát triển cho người học hệ thống năng lực cần thiết để có thể
tham gia hiệu quả vào thị trường lao động trong nước và quốc tế. Vì vậy, phát
triển chương trình giáo dục phổ thông dựa trên tiếp cận năng lực là một lựa chọn
tất yếu khách quan và phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.
Theo đó, việc dạy học không phải là “tạo ra kiến thức”, “truyền đạt kiến
thức” hay “chuyển giao kiến thức” mà phải làm cho người học học cách đáp ứng
hiệu quả các đòi hỏi cơ bản liên quan đến môn học và có khả năng vượt ra ngoài
phạm vi môn học để chủ động thích ứng với cuộc sống lao động sau này. Quan
điểm dạy học tích hợp, dạy học trải nghiệm sáng tạo với mục tiêu phát triển các
năng lực ở người học, giúp họ có khả năng giải quyết và đáp ứng sự biến đổi
nhanh chóng của xã hội hiện đại để đem lại thành công cao nhất trong cuộc sống.

Theo Dự thảo Đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục
phổ thông sau năm 2015 đã nêu: “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo (HĐ TNST)
bản chất là những hoạt động giáo dục (HĐGD) nhằm hình thành và phát triển
cho HS những phẩm chất tư tưởng, ý chí tình cảm, giá trị, kỹ năng (KN) sống
và những năng lực cần có của con người trong xã hội hiện đại. Nội dung của
HĐ TNST được thiết kế theo hướng tích hợp nhiều lĩnh vực, môn học thành các
chủ điểm mang tính chất mở. Hình thức và phương pháp tổ chức đa dạng,
phong phú, mềm dẻo, linh hoạt, mở về không gian, thời gian, quy mô, đối
tượng và số lượng,… để HS có nhiều cơ hội tự trải nghiệm”.

1



Từ quan niệm này cho thấy, HĐ TNST coi trọng các hoạt động thực tiễn
mang tính tự chủ của HS, về cơ bản là hoạt động mang tính tập thể trên tinh
thần tự chủ cá nhân, với sự nỗ lực giáo dục giúp phát triển sáng tạo và cá tính
riêng của mỗi cá nhân trong tập thể. Đây là những HĐGD được tổ chức gắn
liền với kinh nghiệm, cuộc sống để HS trải nghiệm và sáng tạo. Điều đó đòi hỏi
các hình thức và phương pháp tổ chức HĐ TNST phải đa dạng, linh hoạt, HS tự
hoạt động, trải nghiệm là chính. Dạy học thông qua tổ chức hoạt động trải
nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà
giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác
nhau của đời sống nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của
hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát
huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình.
Trong chương trình địa lí THPT, số lượng kiến thức địa lí địa phương là
một tiết thực hành tìm hiểu về môi trường xung quanh nơi HS đang sống đối
với lớp 10, chương trình nâng cao và hai tiết thực hành về tìm hiểu địa lí địa
phương tỉnh Vĩnh Phúc đối với lớp 12, chương trình cơ bản.
Xuất phát từ thực tế, nội dung chương trình kiến thức địa lí địa phương
lớp 12 là các bài thực hành về tìm hiểu tự nhiên, dân cư, các ngành kinh tế của
các tỉnh, thành phố. Đây là kiến thức thực tế của mỗi địa phương liên quan tới
những vấn đề cụ thể thực tế địa phương các em sinh sống, nó không phải là
kiến thức lí thuyết cụ thể như các nội dung khác đòi hỏi giáo viên và học sinh
phải tìm hiểu qua các tài liệu ở địa phương, qua tham quan thực tế…Vì vậy để
học sinh có hiểu biết và vận dụng kiến thức lí thuyết đã học vào tìm hiểu thực
tiễn địa phương mình thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo các em có thế
tiếp cận, làm chủ kiến thức, dễ dàng vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết
tình huống thực tiễn. Chính qua đó, tạo điều kiện phát triển các phương pháp và
kĩ năng cơ bản ở người học như: lập kế hoạch, phân tích, tổng hợp thông tin, đề
xuất các giải pháp một cách sáng tạo …tạo cơ hội kích thích động cơ, lợi ích và


2


sự tham gia vào các hoạt động học, thậm chí với cả học sinh trung bình và yếu
về năng lực học đồng thời giáo dục tình yêu quê hương đất nước, ý thức trách
nhiệm với địa phương.
Qua thực tế giảng dạy ở trường phổ thông nhiều năm, tác giả nhận thấy
nếu vận dụng phương pháp dạy học truyền thống trong địa lí địa phương sẽ
không gây hứng thú từ phía học sinh, các em hiểu biết về địa phương mình rất
hời hợt mang tính lí thuyết, thiếu thực tế. Vì vậy, để học sinh hiểu rõ hơn vấn
đề môi trường ở địa phương mình và các vấn đề về tự nhiên, kinh tế xã hội của
tỉnh Vĩnh Phúc, tác giả đã tổ chức một số hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong
quá trình thiết kế và dạy học địa lí địa phương nhằm nâng cao hứng thú của học
sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức.
Với tất cả những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài: Tổ chức hoạt động trải
nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học địa lí địa phương lớp 12 THPT tỉnh

Vĩnh Phúc.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Vấn đề hoạt động học tập qua trải nghiệm sáng tạo không phải là vấn đề
mới với nhiều nước trên thế giới, nhưng với Việt Nam vấn đề này còn khá mới
mẻ. Đặc biệt chưa có tài liệu nghiên cứu, tác phẩm, luận văn, luận án nào trình
bày cụ thể chi tiết đến tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong dạy
học Địa lí địa phương. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã tham
khảo, tiếp cận các loại tài liệu đề cập đến những vấn đề chung của hoạt động
trải nghiệm sáng tạo như sau:
2.1. Tài liệu nước ngoài
Lý luận về giáo dục đã được nhiều các nhà tâm lí học, giáo dục học quan
tâm nghiên cứu và hoàn thiện từ khá sớm. Hệ thống lý luận về hoạt động trải
nghiệm sáng tạo tuy có nhiều nghiên cứu khác nhau song được trình bày thống

nhất với hệ thống lý luận về hoạt động dạy học. Đầu tiên phải kể đến Lý thuyết
Hoạt động nghiên cứu về bản chất quá trình hình thành con người. Luận điểm

3


cơ bản của Lý thuyết Hoạt động, đã trở thành nguyên tắc nghiên cứu bản chất
người và quá trình hình thành con người, đó là “Tâm lí hình thành thông qua
hoạt động”. Theo tác giả Phạm Minh Hạc trong bài viết “Phương pháp tiếp
cận hoạt động nhân cách và lý luận chung về phương pháp dạy học” đăng
trong tạp chí nghiên cứu giáo dục thì điều này có nghĩa là, chỉ thông qua hoạt
động của chính bản thân con người, thì bản chất người, nhân cách người đó
mới được hình thành và phát triển. Hoạt động là phương thức tồn tại của con
người. Không có hoạt động, không có con người, do vậy cũng không có xã hội
loài người. Nguyên tắc “Tâm lí hình thành thông qua hoạt động” có ý nghĩa chỉ
đạo, tổ chức các hoạt động giáo dục con người trong nhà trường trong học tập
và giáo dục, rèn luyện, việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo…là hoạt động của
chính người học. Con người có tự lực hoạt động mới biến kiến thức, kinh
nghiệm mà xã hội tích lũy được thành tri thức của bản thân.
Một trong những lý thuyết nghiên cứu trực tiếp đến hoạt động trải
nghiệm sáng tạo trong dạy học là Lý thuyết Học từ trải nghiệm của David A
Kolb. Trong Lý thuyết học từ trải nghiệm, Kolb cũng chỉ ra rằng “Học từ trải
nghiệm là quá trình học theo đó kiến thức, năng lực được tạo ra thông qua việc
chuyển hóa kinh nghiệm. Học từ trải nghiệm gần giống với học thông qua làm
nhưng khác ở chỗ là nó gắn với kinh nghiệm và cảm xúc cá nhân” . Lý thuyết
“Học từ trải nghiệm” là cách tiếp cận về phương pháp học đối với các lĩnh vực
nhận thức. Nếu như mục đích của việc dạy học chủ yếu là hình thành và phát
triển hệ thống tri thức khoa học, năng lực và hành động khoa học cho mỗi cá
nhân thì mục đích hoạt động giáo dục là hình thành và phát triển những phẩm
chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, sự đam mê, các giá trị, kĩ năng sống và những

năng lực chung khác cần có ở con người trong xã hội hiện đại. Để phát triển sự
hiểu biết khoa học, chúng ta có thể tác động vào nhận thức của người học;
nhưng để phát triển và hình thành phẩm chất thì người học phải được trải
nghiệm. Như vậy, trong lý thuyết của Kolb, trải nghiệm sẽ làm cho việc học trở

4


nên hiệu quả bởi trải nghiệm ở đây là sự trải nghiệm có định hướng, có dẫn dắt
chứ không phải sự trải nghiệm tự do, thiếu định hướng.
Từ giữa thế kỉ XX, nhà khoa học giáo dục nổi tiếng người Mĩ, John
Dewey, đã chỉ ra hạn chế của giáo dục nhà trường và đưa ra quan điểm về vai
trò của kinh nghiệm trong giáo dục. Với triết lí giáo dục đề cao vai trò của kinh
nghiệm, Dewey cũng chỉ ra rằng, những kinh nghiệm có ý nghĩa giáo dục giúp
nâng cao hiệu quả giáo dục bằng cách kết nối người học và những kiến thức
được học với thực tiễn. Theo ông học qua trải nghiệm xảy ra khi một người sau
khi tham gia trải nghiệm nhìn lại và đánh giá, xác định cái gì là hữu ích hoặc
quan trọng cần nhớ và sử dụng những điều này để thực hiện các hoạt động
khác trong tương lai. Những quan điểm này chính là cơ sở lý thuyết cho việc
xây dựng hoạt động trải nghiệm trong giáo dục.Vận dụng quan điểm học tập
trải nghiệm sáng tạo, rất nhiều các quốc gia trên thế giới đã đưa học tập trải
nghiệm sáng tạo vào chương trình giáo dục từ rất sớm và đạt được hiệu quả cao
trong giáo dục.Tại Hàn Quốc (một trong những quốc gia có nền giáo dục phát
triển nhất của khu vực), trong cuốn “ Hoạt động trải nghiệm sáng tạo” – Bộ
KH - KT và GD Hàn Quốc, 2009, đã nói tới một trong những chương trình đổi
mới của giáo dục Hàn Quốc là hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Hoạt động trải
nghiệm sáng tạo là những hoạt động nằm ngoài các hệ thống các môn học trong
nhà trường, đó là những hoạt động tự chủ, hoạt động câu lạc bộ, hoạt động từ
thiện và hoạt động định hướng. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo Hàn Quốc
không tách rời hệ thống các môn học trong nhà trường mà có quan hệ tương

tác, bổ trợ nhau để hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí,
kĩ năng sống và năng lực cần có trong xã hội hiện đại. Hoạt động này mang
tính thực tiễn rất cao, gắn bó với đời sống và cộng đồng, có tính tổng hợp nhiều
lĩnh vực giáo dục.
Ở nước Anh, việc học được chia sẻ bởi nhà trường và nhiều tổ chức, cá
nhân, xã hội cùng chung tay gánh vác. Trong “Chương trình giáo dục phổ

5


thông Anh Quốc” ( 2013). Trung tâm Widehorizon thành lập năm 2004 (Chân
trời rộng mở) như là niềm hi vọng của giáo dục ngoài trời trong đó có dạy học
phiêu lưu - mạo hiểm - một hình thức của hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Tầm
nhìn sứ mạng của tổ chức này đơn giản là: “Chúng tôi tin rằng mỗi đứa trẻ đều
có cơ hội trải nghiệm những tri thức về phiêu lưu mạo hiểm như là một phần
được giáo dục trong cuộc đời chúng”. Tầm nhìn chiến lược ấy bắt đầu từ một
hiện thực được cho là khó tin: Hơn 50% trẻ con nước Anh chưa từng biết đến
nông thôn, miền quê là gì, riêng thủ đô London con số này là 35%. Việc nhiều
trẻ em chưa biết đến nông thôn là gì, cùng với sự suy giảm đáng kể cơ hội giáo
dục thông qua các tổ chức tham quan cho trẻ con ở các trường phổ thông là
nguyên nhân lớn của sự lo lắng tương lai trẻ nhỏ,về quyền được kết nối với
thiên nhiên giảm sút và vô số nhưng lợi ích liên quan đến “giáo dục ngoài trời”
- một hình thức của tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Tóm lại, nghiên cứu của các nhà tâm lí học, các nhà giáo dục học, cũng
như mô hình học tập trải nghiệm mà các nước trên thế giới đang tiến hành đều
khẳng định rõ vai trò, tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong
việc hình thành và phát triển năng lực học sinh. Đây chính là nội dung chúng
tôi tiếp cận vận dụng trong dạy học Địa lí địa phương ở Việt Nam nhằm tiếp
cận với nền giáo dục thế giới.
2.2. Trong nước

Xác định tầm quan trọng của hoạt động TNST trong dạy học, Nghị quyết
Hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo có đề cập đến vấn đề tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh
như là một phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học. Hoạt động
trải nghiệm sáng tạo bản chất là những hoạt động giáo dục nhằm hình thành và
phát triển cho học sinh phẩm chất tư tưởng, ý chí tình cảm, giá trị và kĩ năng
sống và những năng lực cần có của con người trong xã hội hiện đại. Nội dung
của hoạt động trải nghiệm sáng tạo được thiết kế theo hướng tích hợp nhiều

6


lĩnh vực, môn học thành các chủ điểm mang tính chất mở. Hình thức và
phương pháp tổ chức đa dạng, phong phú, mềm dẻo, linh hoạt, mở về không
gian thời gian, quy mô, đối tượng và số lượng…để học sinh có nhiều cơ hội tự
trải nghiệm và phát huy tối đa khả năng sáng tạo của các em.
Trong Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể Việt Nam sau
2015, cũng đề cập đến 8 lĩnh vực học tập chủ chốt và hoạt động giáo dục với
tên gọi hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Trong đó, hoạt động trải nghiệm sáng
tạo là hoạt động mới với cả 3 cấp học, được phát triển từ các hoạt động tập thể,
hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khóa của chương trình hiện hành, được thiết
kế thành các chuyên đề tự chọn nhằm giúp học sinh phát triển các năng lực, kỹ
năng, niềm tin, đạo đức…nhờ vận dụng những tri thức, kiến thức, kỹ năng đã
học được từ nhà trường và những kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc
sống một cách sáng tạo thông qua các hình thức và phương pháp chủ yếu như:
tham quan, thực địa, câu lạc bộ, hoạt động xã hội/tình nguyện, diễn đàn, giao
lưu, hội thảo, trò chơi, cắm trại, thực hành lao động. Điều này cho thấy tầm
quan trọng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo cũng như định hướng đổi mới
mạnh mẽ hoạt động này ở trường phổ thông trong giai đoạn tới [13]
Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu về lí luận dạy học cũng đề

cập đến vấn đề tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo. Người đầu tiên
nghiên cứu phát triển ứng dụng Lý thuyết Hoạt động vào nhà trường chính là
GS.VS. Phạm Minh Hạc. Theo ông, thông qua hoạt động của chính cá nhân,
bản thân mới được hình thành và phát triển. Như vậy, trong học tập và giáo
dục, rèn luyện, việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, lĩnh hội các giá trị xã hội
là hoạt động của người học. Con người có tự hoạt động mới biến kiến thức,
kinh nghiệm mà xã hội tích lũy được thành tri thức của bản thân.
Trong nước, thời gian qua cũng có nhiều bài báo, bài nghiên cứu khoa
học về tình hình học tập trải nghiệm sáng tạo như: Kỉ yếu hội thảo: “Tổ chức
hoạt đông trải nghiệm sáng tạo cho học sinh phổ thông và mô hình phổ thông

7


gắn với sản xuất kinh doanh tại địa phương” của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã
thu hút rất nhiều bài viết của các tác giả trong cả nước. Đã có 19 bài của 21 tác
giả gửi đến hội thảo, trong số đó có một số bài viết hay, đã đề cập ở mức độ
nóng vấn đề tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh như:Trong bài
viết “Một số vấn đề về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo
dục phổ thông mới”, PGS.TS Lê Huy Hoàng, trường Đại học Sư phạm Hà Nội
có đề cập tới quan niệm về hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Tác giả cũng đề cập
đến nội dung, đặc điểm của hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Bài viết của PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống nghiên cứu “Hoạt động trải
nghiệm sáng tạo – kinh nghiệm quốc tế và vấn đề của Việt Nam”. Trong đó, tác
giả giới thiệu kinh nghiệm tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong giáo
dục phổ thông nước Anh và Hàn Quốc. Đây đều là những nước đã đưa hoạt
động trải nghiệm sáng tạo vào chương trình đào tạo từ sớm và đạt được những
kết quả to lớn. Hoạt động trải nghiệm diễn ra với nhiều hình thức như: hoạt
động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã
ngoại, hội thi, tổ chức sự kiện, hoạt động giao lưu hay hoạt động chiến dịch,

hoạt động nhân đạo…
Bài viết của PGS.TS Đinh Thị Kim Thoa, ĐHGD - ĐHQGHN “ Hoạt động
trải nghiệm sáng tạo góc nhìn từ lí thuyết và học từ trải nghiệm ” có đề cập đến sự
khác biệt giữa học đi đôi với hành, học thông qua làm và học từ trải nghiệm.
Trong đó, “học từ trải nghiệm gần giống với học thông qua làm nhưng khác ở chỗ
là nó gắn với kinh nghiệm và cảm xúc cá nhân”. Tác giả cũng đưa ra mô hình và
chu trình học từ trải nghiệm của David Kolb và vận dụng lý thuyết “Học từ trải
nghiệm” của Kolb vào việc dạy học và giáo dục trong trường học. Theo tác giả, để
phát triển sự hiểu biết khoa học, chúng ta có thể tác động vào nhận thức của người
học; nhưng để phát triển và hình thành năng lực (phẩm chất) thì người học phải
trải nghiệm. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục thông qua sự
trải nghiệm và sáng tạo của cá nhân trong việc kết nối kinh nghiệm học được

8


trong nhà trường với thực tiễn cuộc sống, nhờ đó các kinh nghiệm được tích
lũy thêm và dần chuyển hóa thành năng lực…
Trong tài liệu tập huấn mới nhất của bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2015, “ Kĩ
năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường trung
học”, đã tập hợp đầy đủ và hệ thống những nghiên cứu của các nhà giáo dục đầu
ngành về hoạt động trải nghiệm sáng tạo như: PGS. TS. Nguyễn Thúy Hồng,
PGS.TS. Đinh Thị Kim Thoa, TS. Ngô Thị Thu Dung, ThS. Bùi Ngọc Diệp, ThS.
Nguyễn Thị Thu Anh. Tài liệu đề cập những vấn đề chung của hoạt động trải
nghiệm như khái niệm, đặc điểm; xác định mục tiêu, yêu cầu, xây dựng nội dung
và cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường phổ thông; đánh
giá hoạt động trải nghiệm với phương pháp và công cụ cụ thể.

Ở Việt Nam, trong những năm qua hầu hết các nhà trường đã triển khai
các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,

chủ động, tự học, phát triển năng lực học sinh. Trong đó, nhiều trường đã triển
khai các mô hình trường học gắn với cộng đồng, tổ chức hoạt động học tập trải
nghiệm sáng tạo. Mặc dù là một hình thức dạy học khá mới mẻ, song đã có một
số trường ở nước ta đưa mô hình học tập này vào thực hiện và bước đầu đạt kết
quả tốt: Trường phổ thông vùng cao Việt Bắc, trường THPT Tuyên Quang,
trường THPT Thực Nghiệm, THPT Nguyễn Tất Thành…Ở mỗi trường với đặc
thù ở địa phương và thực tiễn của nhà trường, mô hình học tập trải nghiệm
được đưa ra phù hợp. Ở trường phổ thông Vùng caoViệt Bắc đã tổ chức yêu
cầu tổ nhóm nghiên cứu tổng thể chương trình SGK THPT ba năm nhằm tìm ra
điểm hạn chế cần khắc phục, xây dựng kế hoạch chi tiết cho từng môn theo
định hướng phát triển năng lực học sinh dựa trên nguyên tắc: phù hợp, phát huy
được năng lực học sinh. Đảm bảo tính logic, tính thống nhất giữa các môn học,
đảm bảo thời lượng của các môn học. Còn trường THPT Nguyễn Tất Thành đã
xây dựng và thực hiện đề án “Xây dựng trường phổ thông thực hành Nguyễn
Tất Thành theo mô hình phát triển năng lực chung” của chương trình quốc gia,

9


lựa chọn hình thức phù hợp với thực tiễn nhà trường đáp ứng yêu cầu phát triển
năng lực học sinh. Hình thức tổ chức dạy học đa dạng gồm: dạy học dự án, dạy
học trải nghiệm…Hình thức tổ chức dạy học này tạo điều kiện cho học sinh
được trải nghiệm, được khám phá, qua đó góp phần hình thành năng lực tự học,
năng lực giải quyết vấn đề, khả năng hợp tác và khát vọng học tập suốt đời.
Nhà trường, ngoài hình thức học tập trên lớp, nhà trường còn tiến hành những
hoạt động ngoài lớp giúp cho không gian lớp học được mở rộng thêm. Các hoạt
động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh đã được nhà trường tổ chức như:
- Các hoạt động tập thể “Chào học sinh lớp 10” dành cho khối THPT,
“Vui tết trung thu” cho học sinh khối THCS, các chương trình tham quan, dã
ngoại, học tập thực tế, chương trình dạy kĩ năng sống, Học kì quân đội….

- Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ đề: cuộc thi
“Hùng biện tiếng Anh”, “Cuộc thi Sách và Tôi”, triển lãm tranh , cuộc thi “tạo
hình bản đồ Việt Nam”…
Các mô hình học tập trải nghiệm trên đây không chỉ là sợi dây gắn kết
người học – người dạy, người học với nhà trường mà còn là cầu nối giúp học
sinh phát triển năng lực, những kĩ năng sống cần thiết để có hành trang vững
bước vào đời. Mô hình học tập trải nghiệm này cũng đã rút ra rất nhiều kinh
nghiệm cho việc xây dựng chương trình trong thời gian tới đây.
Đối với bộ môn địa lí, luận văn tốt nghiệp của Dương Thị Thùy Dung,
trường ĐHSP Hà Nội đã nghiên cứu học tập thông qua hoạt động trải nghiệm
sáng tạo trong chương trình địa lí 10 – THPT.
Như vây, các nguồn tài liệu trong nước và thế giới đều đề cập đến vai trò
của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học nhằm phát triển năng lực học
sinh. Các tài liệu này cũng làm rõ khái niệm, nội dung, hình thức tổ chức, …
của hoạt động trải nghiệm nhưng chưa có tài liệu nào đề cập cụ thể đến hoạt
động học tập trải nghiệm trong phần địa lí địa phương. Môn học Địa lí với
những đặc trưng riêng, hình thành và phát triển năng lực chuyên biệt của học

10


sinh cần được nghiên cứu, tiếp cận theo những đặc trưng riêng biệt.
Với việc kế thừa và phát huy các công trình đã công bố, luận văn sẽ đi
sâu nghiên cứu về cơ sở lí luận và thực tiễn về tổ chức hoạt động trải nghiệm
sáng tạo trong dạy học địa lí địa phương lớp 12 .Đây là hướng nghiên cứu mới
chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khẳng định vai trò và ý nghĩa của hoạt động học tập trải nghiệm sáng
tạo, từ đó đưa ra các hình thức và biện pháp tổ chức hoạt động học tập trải

nghiệm trong dạy học Địa lí địa phương tỉnh Vĩnh Phúc.
Phân tích hiệu quả của việc nâng cao chất lượng và tăng hứng thú học
tập địa lí địa phương thông qua việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo
trong dạy học Địa lí
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo như
khái niệm, nội dung, yêu cầu, các hình thức tổ chức học tập trải nghiệm sáng tạo.

- Nghiêm cứu cơ sở thực tiễn của hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo.
- Nghiên cứu nội dung chương trình môn Địa lí THPT, phần Địa lí địa
phương của Vĩnh Phúc để xác định nội dung tiến hành hoạt động học tập trải
nghiệm sáng tạo.
- Đề xuất một số hình thức và biện pháp tổ chức hoạt động học tập trải
nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học Địa lí địa phương ở trường THPT
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khả thi của đề tài.
4. Cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Dựa trên lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đổi mới phương pháp
dạy học Địa lí.

11


- Quan điểm thực tiễn: Thực tiễn giáo dục là nguồn gốc, là động lực, là
tiêu chuẩn và là mục đích của quá trình nghiên cứu khoa học giáo dục, quan
điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học giáo dục cho phép ta nhìn thấy sự
xuất hiện, sự phát triển, diễn biến và kết thúc của các sự vật hiện tượng trong
thực tiễn, phát hiện quy luật tất yếu của sự phát triển đối tượng, giúp các nhà
khoa học kiểm tra kết quả nghiên cứu trong hoạt động thực tiễn giáo dục, cải

tạo thực tiễn giáo dục.
- Quan điểm hệ thống: Nghiên cứu theo quan điểm hệ thống cho phép
nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về hiện tượng giáo dục, thấy được
mối quan hệ của hệ thống với các đối tượng khác trong hệ thống lớn, từ đó xác
định được các con đường tổng hợp, tối ưu để nâng cao chất lượng giáo dục.
- Quan điểm tích hợp: Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học giáo dục,
quan điểm tiếp cận tích hợp là chỉ một quan niệm GD toàn diện con người,
chống lại hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Tích
hợp còn có nghĩa là thành lập một loại hình nhà trường mới, bao gồm các thuộc
tính trội của các loại hình nhà trường vốn có.
- Quan điểm lịch sử: Trong nghiên cứu cho phép ta nhìn thấy toàn cảnh
sự xuất hiện, sự phát triển, diến biến và kết thúc của các sự vật hiện tượng, mặt
khác giúp ta phát hiện qui luật tất yếu của sự phát triển đối tượng, giúp các nhà
khoa học nghiên cứu và hoạt động thực tiễn giáo dục tránh được những sai lầm
không đáng có.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lí thuyết: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết là phương
pháp thu thập thông tin thông qua đọc sách báo, tài liệu nhằm mục đích tìm
chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở cho lý luận của đề tài, hình
thành giả thuyết khoa học, dự đoán những thuộc tính của đối tượng nghiên
cứu xây dựng những mô hình lý thuyết hay thực nghiệm ban đầu.
Trong đề tài này tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết trên cơ sở

12


thu thập, phân loại, tổng hợp các sách báo, tài liệu, luận văn, luận án có liên
quan đến tâm lý học sinh THPT và một số phương pháp dạy học tích cực sử
dụng trong dạy học tích hợp.
Phương pháp điều tra: Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối

tượng trên một diện rộng nhằm phát hiện các quy luật phân bố, trình độ phát
triển, đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Kết quả của phương pháp điều tra là
những thông tin quan trọng về đối tượng nghiên cứu làm cơ sở thực tiễn để đề
xuất các giải pháp. Trong đề tài này chúng tôi dùng phương pháp điều tra bằng
bảng hỏi với các câu hỏi đóng, mở khác nhau về mức độ để học sinh THPT trả
lời. Các câu hỏi điều tra thực trạng về việc học sinh học tập Địa lí địa phương
thông qua phương pháp dạy học tích hợp của giáo viên.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm :Tiến hành thực nghiệm sư phạm để
đánh giá kết quả của những giải pháp đề ra nhằm mục đích cho học sinh tích
cực, chủ động hơn khi bày tỏ chính kiến của mình.
Phương pháp xử lý số liệu thực nghiệm bằng toán thống kê: Sử dụng
một số công thức toán học để xử lý thống kê và đánh giá kết quả điều tra, kết
quả thực nghiệm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là vấn đề cách thức tổ chức hoạt
động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh lớp 12 THPT trong dạy học Địa
lí địa phương tỉnh Vĩnh Phúc
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: đi sâu nghiên cứu các hình thức và biện pháp tổ chức
hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh THPT trong dạy học Địa lí
địa phương tỉnh Vĩnh Phúc
Phạm vi thực nghiệm: chúng tôi tiến hành thực nghiệm tại một số trường
THPT trên địa bàn huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc

13


6. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu vận dụng đúng cách thức tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm

sáng tạo cho học sinh THPT trong dạy học Địa lí địa phương tỉnh Vính Phúc
theo đúng đề tài thì sẽ góp phần nâng cao kết quả học tập và sự say mê học tập
môn Địa lí của học sinh.
7. Đóng góp của đề tài
Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, luận văn góp phần:
Khẳng định vai trò, ý nghĩa của hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo
trong dạy học Địa lí.
Phản ánh được thực trạng dạy và học Địa lí, thực trạng của việc tổ chức
hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo ở trường phổ thông.
Đề xuất một số hình thức và biện pháp tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm
sáng tạo trong chương trình Địa lí địa phương ở trường trung học phổ thông.

8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
8.1. Ý nghĩa khoa học
Làm phong phú thêm lí luận phương pháp dạy học Địa lí nói chung và phương
pháp dạy học trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Địa lí địa phương nói riêng

8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học
Sư phạm, giáo viên môn Địa lí và bản thân tác giả luận văn vận dụng trong quá
trình dạy học Địa lí ở trường phổ thông.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn cấu
trúc thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của hoạt động trải nghiệm sáng tạo
trong dạy học địa lí ở trường trung học phổ thông.
Chương 2: Một số hình thức và biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm
sáng tạo cho học sinh trong dạy học địa lí địa phương lớp 12 tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.


14


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRONG DẠY
HỌC ĐỊA LÝ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1.Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm thuật ngữ cơ bản
* Trải nghiệm
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường xuyên nhắc đến thuật ngữ
trải nghiệm, chính vì mức độ phổ biến của thuật ngữ này nên cũng có nhiều
quan niệm khác nhau về trải nghiệm
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Trải có nghĩa là “đã từng qua, từng biết,
từng chịu đựng”, còn nghiệm có nghĩa là “kinh qua thực tế nhận thấy điều đó
đúng”. Như vậy, trải nghiệm có nghĩa là quá trình chủ thể được trực tiếp tham
gia hoạt động và rút ra những kinh nghiệm cho bản thân .
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “trải nghiệm” được diễn dải theo hai
nghĩa. Trải nghiệm theo nghĩa chung nhất “là bất kì một trạng thái có màu sắc
xúc cảm nào được chủ thể cảm nhận, trải qua, đọng lại thành bộ phận (cùng
với tri thức, ý thức…) trong đời sống tâm lí của từng người”. Theo nghĩa hẹp
trải nghiệm “ là những tín hiệu bên trong, nhờ đó các sự kiện đang diễn ra đối
với cá nhân được ý thức chuyển thành ý kiến cá nhân, góp phần lựa chọn tự
giác các động cơ cần thiết, điều chỉnh hành vi của cá nhân”.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa Trải nghiệm hay kinh nghiệm
là tổng quan khái niệm bao gồm tri thức, kĩ năng trong quan sát sự vật hoặc sự
kiện đạt được thông qua tham gia vào hoặc tiếp xúc đến sự vật hoặc sự kiện đó.
Lịch sử của từ “trải nghiệm” gần nghĩa với khái niệm “thử nghiệm”. Thực tiễn cho
thấy trải nghiệm đạt được thường thông qua thử nghiệm. Trải nghiệm thường đi
đến một tri thức về sự hiểu biết đến sự vật, hiện tượng, sự kiện.


15


* Sáng tạo
Khái niệm sáng tạo được sử dụng đồng nghĩa với nhiều thuật ngữ khác
như: sự sáng tạo, tư duy hay óc sáng tạo…Các thuật ngữ này đều có liên quan
đến một thuật ngữ gốc Latin “Crear” và mang một nghĩa chung là “sự sản xuất,
tạo ra, sinh ra một cái gì đó mà trước đây chưa hề có, chưa tồn tại” [11].
Ngoài ra, sáng tạo cũng được hiểu “là tạo ra những giá trị mới về vật
chất hoặc tinh thần. Tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ
thuộc vào cái đã có. Có thể sáng tạo trong bất kì lĩnh vực nào: khoa học, nghệ
thuật, sản xuất – kĩ thuật, kinh tế, chính trị v.v…”
Như vậy, dù quan niệm như thế nào thì sáng tạo chính là việc tạo ra cái
mới. Sáng tạo là tiềm năng có ở mọi người bình thường và được huy động
trong từng hoàn cảnh sống cụ thể. Mỗi người khi tạo ra cái mới cho cá nhân,
thì sáng tạo đó được xem xét trên bình diện cá nhân, còn tạo ra cái mới liên
quan đến cả một nền văn hóa thì sáng tạo đó được xét trên bình diện xã hội.
* Năng lực
Năng lực là một phạm vi trung tâm của tâm lí học và đã được nhiều tác giả
tiến hành nghiên cứu. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất
về năng lực. Nhưng rất nhiều tác giả có chung quan điểm về định nghĩa năng lực.

Trong tài liệu tập huấn “Kỹ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo trong trường trung học”, năng lực được hiểu “là tổ hợp các
thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với yêu cầu của một hoạt động nhất
định, đảm bảo cho hoạt động đó có hiệu quả; Hay nói cách khác, năng lực là
khả năng vận dụng các kiến thức, kỹ năng, thái độ, niềm tin, giá trị… vào việc
thực hiện các nhiệm vụ trong những hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn”[11].
Trong cuốn “Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh” của tác giả

Đỗ Hương Trà (chủ biên), các tác giả đã định nghĩa năng lực là “khả năng huy
động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính tâm lí cá nhân khác như
hứng thú, niềm tin, ý chí…để thực hiện thành công một loại công việc trong

16


một bối cảnh nhất định”[27].
* Hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học và hoạt động TNST
Theo nghĩa rộng hoạt động giáo dục là “những hoạt động có chủ đích,
có kế hoạch hoặc có sự định hướng của nhà giáo dục, được thực hiện thông
qua những cách thức phù hợp để chuyển tải nội dung giáo dục tới người học
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục” [8]. Hoạt động giáo dục này bao gồm: hoạt
động dạy học và hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp.
Hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp được hiểu là những hoạt động có chủ
đích, có kế hoạch, do nhà giáo dục định hướng, thiết kế, tổ chức trong và ngoài
giờ học, trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục theo
nghĩa hẹp, hình thành ý thức, phẩm chất, giá trị sống, hay các năng lực tâm lý
xã hội…[8].
Hoạt động dạy học là quá trình người dạy tổ chức và hướng dẫn hoạt
động học của người học nhằm giúp người học lĩnh hội tri thức khoa học, kinh
nghiệm của xã hội loài người để phát triển trí tuệ và hoàn thiện nhân cách
người học [8]
Như vậy, hoạt động dạy học chủ yếu nhằm phát triển mặt trí tuệ, hoạt
động giáo dục theo nghĩa hẹp chủ yếu nhằm phát triển mặt phẩm chất đạo đức,
đời sống tình cảm. Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, hoạt
động giáo dục (nghĩa hẹp) thực hiện các mục tiêu giáo dục thông qua một loạt
các hoạt động như hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể…
Theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới, hoạt động giáo dục
(theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và các mục tiêu của hoạt động giáo dục

(nghĩa hẹp) nói trên sẽ được thực hiện chỉ trong một hoạt động có tên gọi là hoạt
động trải nghiệm sáng tạo. Như vậy, hoạt động TNST sẽ thực hiện tất cả các mục tiêu
và nhiệm vụ của các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể,... và
thêm vào đó là những mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục của giai đoạn mới. Vậy khái
niệm hoạt động học tập TNST trong nhà trường phổ thông có thể được hiểu là “các

17


hoạt động giáo dục thực tiễn được tiến hành song song với hoạt động dạy học trong
nhà trường. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một bộ phận của quá trình giáo dục,
được tổ chức ngoài giờ học các môn văn hóa trên lớp và có mối quan hệ bổ sung, hỗ
trợ cho hoạt động dạy học. Thông qua các hoạt động thực hành, những việc làm cụ
thể và các hành động của học sinh, hoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ khai thác kinh
nghiệm của mỗi cá nhân, tạo cơ hội cho các em vận dụng một cách tích cực những
kiến thức đã học vào thực tế và đưa ra được những sáng kiến của mình, từ đó phát
huy và nuôi dưỡng tính sáng tạo của mỗi cá nhân của học sinh”[13].

Từ khái niệm này cho thấy, so với các hoạt động ngoài giờ lên lớp đang
được tiến hành hiện nay trong trường phổ thông thì hoạt động TNST sẽ phong
phú hơn cả về nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động. Đặc biệt mỗi
hoạt động phải phù hợp với mục tiêu phát triển những phẩm chất, năng lực nhất
định của học sinh.
Hiệp hội “Giáo dục trải nghiệm” quốc tế định nghĩa về học qua trải
nghiệm “là một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy
khuyến khích người học tham gia các trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh,
tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển kĩ năng, định hình các giá trị
sống và phát triển các năng lực bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng
đồng và xã hội” [13]
Hoạt động hoc tập trải nghiệm sáng tạo còn được hiểu là “hoạt động

giáo dục, trong đó, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn
trong môi trường nhà trường cũng như môi trường gia đình và xã hội dưới sự
hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức,
phẩm chất nhân cách, các năng lực…, từ đó tích luỹ kinh nghiệm riêng cũng
như phát huy tiềm năng năng sáng tạo của cá nhân mình” [11].
Các khái niệm này đều khẳng định vai trò định hướng, hướng dẫn của
nhà giáo dục (không phải là hoạt động trải nghiệm tự phát). Nhà giáo dục
không tổ chức, phân công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hỗ trợ, giám sát.

18


Học sinh được trực tiếp, chủ động tham gia các hoạt động. Phạm vi các chủ đề
hay nội dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất và
tiềm năng sáng tạo; và hoạt động là phương thức cơ bản của sự hình thành và
phát triển nhân cách con người.
Từ những kết quả nghiên cứu các lí thuyết trên có thể thấy học tập trải
nghiệm sáng tạo là phương thức hoạt động chỉ sự tương tác, sự tác động của
chủ thể với đối tượng xung quanh và ngược lại. Hoạt động ở đây là hoạt động
của chính bản thân chủ thể. Những hoạt động này vừa mạng tính trải nghiệm,
thử và sai, vừa là cách thức nhận thức, tác động của riêng mỗi chủ thể. Qua
hoạt động giải quyết vấn đề mà thu nhận những giá trị cần thiết cho bản thân đó
chính là quá trình mang tính trải nghiệm. Học tập trải nghiệm sáng tạo nhấn
mạnh đến sự trải nghiệm, thúc đẩy năng lực sáng tạo của người học. Trong đó
“trải nghiệm” là phương thức giáo dục và “sáng tạo” là mục tiêu giáo dục.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động trải nghiệm sáng tạo
Nội dung của hoạt động trải nghiệm sáng tạo rất đa dạng và mang tính tích
hợp, tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực hoạt động và
giáo dục như: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục
giá trị sống, giáo dục thẩm mĩ, nghệ thuật, giáo dục lao động, giáo dục an toàn

giao thông…..Nội dung giáo dục của hoạt động trải nghiệm sáng tạo

thiết thực và gần gũi với cuộc sống thực tế, đáp ứng được nhu cầu hoạt động
của học sinh, giúp các em vận dụng những hiểu biết của mình vào trong cuộc
sống một cách dễ dàng, thuận lợi. Các nội dung của hoạt động trải nghiệm sáng
tạo thường thuộc 4 nhóm sau đây:
+ Nhóm các hoạt động xã hội
+ Nhóm các hoạt động học thuật
+ Nhóm các hoạt động nghệ thuật và thể thao
+ Nhóm các hoạt động định hướng nghề nghiệp (tìm hiểu thông tin về
hướng phát triển tương lai, tìm hiểu bản thân).

19


Cụ thể, học sinh sẽ được trải nghiệm:
Khám phá định hướng nghề nghiệp: Khách mời là những chuyên gia
trong các lĩnh vực nghề đa dạng, hoặc những người thành công trong một lĩnh
vực nghề nào đó, họ sẽ có những lời chia sẻ và lời khuyên bổ ích cho các em
học sinh. Các em có thể trực tiếp đến thăm cơ sở làm việc của những khách
mời đó, từ đó các em nhìn nhận lại khả năng bản thân và cụ thể hóa định hướng
nghề nghiệp cho mình
Thủ công mỹ nghệ: Gốm, sứ, mộc và các loại hình thủ công khác
Hát, múa dân gian: Là hoạt động trải nghiệm về văn hóa rất thú vị. Học
sinh giữa các khối dường như không còn khoảng cách, tất cả cùng hòa chung
lời ca điệu nhạc mang đậm tính truyền thống..
Khám phá khoa học: Phòng đọc sách, phòng viết văn, thí nghiệm khoa
học, toán học.. Có rất nhiều hoạt động mà học sinh có thể lựa chọn tham gia
theo sở thích của mình.
Hoạt động nghệ thuật: Phát hiện và phát triển khả năng đặc biệt của học

sinh thông qua các hoạt động như diễn kịch, đóng phim, đóng vai các tuyên
truyền viên, cán bộ xã, huyện…
Việc lựa chọn nội dung cụ thể nào cho hoạt động trải nghiệm, các nhà
trường có thể tự quyết định, song cần đảm các nguyên tắc sau:
- Mục tiêu: nội dung lựa chọn phải có ưu thế để đạt được mục tiêu năng
lực đề ra
- Phù hợp: nội dung lựa chọn cần phù hợp với độ tuổi học sinh, trình độ
học sinh. Không nên xây dựng các chủ đề trải nghiệm vượt quá xa nội dung
kiến thức của học sinh nhằm tạo cho học sinh tin tưởng vào năng lực của chính
bản thân mình. Ngoài ra, phù hợp với điều kiện địa phương, điều kiện nhà
trường…
- Khoa học – giáo dục: nội dung phải đảm bảo tính lôgic và khoa học,
tính thẩm mỹ và tính đạo đức

20


- Thời sự: nội dung lựa chọn cần đáp ứng với những yêu cầu của xã hội
ở thời điểm giáo dục. Chủ đề thường gắn chặt với những vấn đề môi trường, xã
hội, kinh tế, khoa học kĩ thuật đang là vấn đề giải quyết ở địa phương nơi tập
thể học sinh sống và học tập
- Gắn kết: gắn với đời sống thực tiễn địa phương, đất nước và hòa nhập
quốc tế.
Các chủ đề HĐTNST cần có sự đóng góp và tham gia của tập thể học
sinh với sự hướng dẫn và tham gia của giáo viên, cán bộ quản lý, cán bộ
chuyên môn…ở địa phương nhằm thông qua hoạt động, học sinh không chỉ giải
quyết vấn đề đặt ra mà còn rèn luyện các kỹ năng sống cho mình.
1.1.3. Các hình thức, phương pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo
trong nhà phổ thông
* Hoạt động câu lạc bộ (CLB)

Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh
cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu,… dưới sự định hướng của những nhà giáo
dục nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với
nhau và giữa học sinh với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Hoạt động
của CLB tạo cơ hội để học sinh được chia sẻ những kiến thức, hiểu biết của
mình về các lĩnh vực mà các em quan tâm, qua đó phát triển các kĩ năng của
học sinh như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe và biểu đạt ý kiến, kĩ năng
trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kĩ năng viết bài, kĩ năng chụp ảnh, kĩ năng hợp tác,
làm việc nhóm, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề,… CLB là nơi để
học sinh được thực hành các quyền trẻ em của mình như quyền được học tập,
quyền được vui chơi giải trí và tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật;
quyền được tự do biểu đạt; tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin,… Thông
qua hoạt động của các CLB, nhà giáo dục hiểu và quan tâm hơn đến nhu cầu,
nguyện vọng mục đích chính đáng của các bạn học sinh. CLB hoạt động theo
nguyên tắc tự nguyện, thống nhất, có lịch sinh hoạt định kì và có thể được tổ

21


chức với nhiều lĩnh vực khác nhau như: CLB học thuật; CLB thể dục thể thao;
CLB văn hóa nghệ thuật; CLB võ thuật; CLB hoạt động thực tế; CLB trò chơi
dân gian…
* Tổ chức trò chơi
Trò chơi là một loại hình hoạt động giải trí, thư giãn; là món ăn tinh thần
nhiều bổ ích và không thể thiếu được trong cuộc sống con người nói chung, đối
với học sinh nói riêng. Trò chơi là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với
nội dung kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục “chơi
mà học, học mà chơi”.
Trò chơi có thể được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau của
HĐTNST như làm quen, khởi động, dẫn nhập vào nội dung học tập, cung cấp

và tiếp nhận tri thức; đánh giá kết quả, rèn luyện các kĩ năng và củng cố những
tri thức đã được tiếp nhận,… Trò chơi giúp phát huy tính sáng tạo, hấp dẫn và
gây hứng thú cho học sinh; giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức mới; giúp
chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo được bầu không khí
thân thiện; tạo tác phong nhanh nhẹn.
* Tổ chức diễn đàn
Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy
sự tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý
kiến của mình với đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những
người lớn khác có liên quan. Diễn đàn là một trong những hình thức tổ chức
mang lại hiệu quả giáo dục thiết thực. Thông qua diễn đàn, học sinh có cơ hội
bày tỏ suy nghĩ, ý kiến, quan niệm hay những câu hỏi, đề xuất của mình về một
vấn đề nào đó có liên quan đến nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng của các bạn.
Đây cũng là dịp để các bạn biết lắng nghe ý kiến, học tập lẫn nhau. Vì vậy, diễn
đàn như một sân chơi tạo điều kiện để học sinh được biểu đạt ý kiến của mình
một cách trực tiếp với đông đảo bạn bè và những người khác. Diễn đàn thường
được tổ chức rất linh hoạt, phong phú và đa dạng với những hình thức hoạt

22


động cụ thể, phù hợp với từng lứa tuổi học sinh.
* Sân khấu tương tác
Sân khấu tương tác (hay sân khấu diễn đàn) là một hình thức nghệ thuật
tương tác dựa trên hoạt động diễn kịch, trong đó vở kịch chỉ có phần mở đầu
đưa ra tình huống, phần còn lại được sáng tạo bởi những người tham gia. Phần
trình diễn chính là một cuộc chia sẻ, thảo luận giữa những người thực hiện và
khán giả, trong đó đề cao tính tương tác hay sự tham gia của khán giả. Mục
đích của hoạt động này là nhằm tăng cường nhận thức, thúc đẩy để học sinh
đưa ra quan điểm, suy nghĩ và cách xử lí tình huống thực tế gặp phải trong bất

kì nội dung nào của cuộc sống. Thông qua sân khấu tương tác, sự tham gia của
học sinh được tăng cường và thúc đẩy, tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện những
kĩ năng như: kĩ năng phát hiện vấn đề, kĩ năng phân tích vấn đề, kĩ năng ra
quyết định và giải quyết vấn đề, khả năng sáng tạo khi giải quyết tình huống và
khả năng ứng phó với những thay đổi của cuộc sống,…
* Tham quan, dã ngoại
Tham quan, dã ngoại là một hình thức tổ chức học tập thực tế hấp dẫn
đối với học sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các bạn học sinh
được đi thăm, tìm hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các di tích lịch sử,
văn hóa, công trình, nhà máy… ở xa nơi các bạn đang sống, học tập, giúp các
bạn có được những kinh nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống
của chính các bạn.
Nội dung tham quan, dã ngoại có tính giáo dục tổng hợp đối với học sinh
như: giáo dục lòng yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, giáo dục truyền thống
cách mạng, truyền thống lịch sử, truyền thống của Đảng, của Đoàn, của Đội Thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Các lĩnh vực tham quan, dã ngoại có thể được tổ
chức ở nhà trường phổ thông là: Tham quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch
sử, văn hóa; Tham quan các công trình công cộng, nhà máy, xí nghiệp; Tham quan
các cơ sở sản xuất, làng nghề; Tham quan các Viện bảo tàng; Dã ngoại theo

23


các chủ đề học tập; Dã ngoại theo các hoạt động nhân
đạo… * Hội thi / cuộc thi
Hội thi/cuộc thi là một trong những hình thức tổ chức hoạt động hấp dẫn,
lôi cuốn học sinh và đạt hiệu quả cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và
định hướng giá trị cho tuổi trẻ. Hội thi mang tính chất thi đua giữa các cá nhân,
nhóm hoặc tập thể luôn hoạt động tích cực để vươn lên đạt được mục tiêu
mong muốn thông qua việc tìm ra người/đội thắng cuộc. Chính vì vậy, tổ chức

hội thi cho học sinh là một yêu cầu quan trọng, cần thiết của nhà trường, của
giáo viên trong quá trình tổ chức HĐTNST.
* Tổ chức sự kiện
Tổ chức sự kiện trong nhà trường phổ thông là một hoạt động tạo cơ hội
cho học sinh được thể hiện những ý tưởng, khả năng sáng tạo của mình, thể
hiện năng lực tổ chức hoạt động, thực hiện và kiểm tra giám sát hoạt động.
Thông qua hoạt động tổ chức sự kiện học sinh được rèn luyện tính tỉ mỉ, chi
tiết, đầu óc tổ chức, tính năng động, nhanh nhẹn, kiên nhẫn, có khả năng thiết
lập mối quan hệ tốt, có khả năng làm việc theo nhóm, có sức khỏe và niềm đam
mê. Khi tham gia tổ chức sự kiện học sinh sẽ thể hiện được sức bền cũng như
khả năng chịu được áp lực cao của mình. Ngoài ra, các bạn còn phải biết cách
xoay xở và ứng phó trong mọi tình huống bất kì xảy đến. Các sự kiện học sinh
có thể tổ chức trong nhà trường như: Lễ khai mạc, lễ nhập học, lễ tốt nghiệp, lễ
kỉ niệm, lễ chúc mừng,…; Các buổi triển lãm, buổi giới thiệu, hội thảo khoa
học, hội diễn nghệ thuật; Các hoạt động đánh giá thể lực, kiểm tra thể hình, thể
chất của học sinh; Đại hội thể dục thể thao, hội thi đấu giao hữu; Hoạt động học
tập thực tế, du lịch khảo sát thực tế, điều tra học thuật; Hoạt động tìm hiểu về di
sản văn hóa, về phong tục tập quán; Chuyến đi khám phá đất nước, trải nghiệm
văn hóa nước ngoài…
* Hoạt động giao lưu
Giao lưu là một hình thức tổ chức giáo dục nhằm tạo ra các điều kiện cần

24


thiết để cho học sinh được tiếp xúc, trò chuyện và trao đổi thông tin với những
nhân vật điển hình trong các lĩnh vực hoạt động nào đó. Qua đó, giúp các bạn
có tình cảm và thái độ phù hợp, có được những lời khuyên đúng đắn để vươn
lên trong học tập, rèn luyện và hoàn thiện nhân cách. Hoạt động giao lưu rất
phù hợp với các HĐTNST theo chủ đề. Hoạt động giao lưu dễ dàng được tổ

chức trong mọi điều kiện của lớp, của trường.
* Hoạt động chiến dịch
Hoạt động chiến dịch là hình thức tổ chức không chỉ tác động đến học
sinh mà tới cả các thành viên cộng đồng. Nhờ các hoạt động này, học sinh có
cơ hội khẳng định mình trong cộng đồng, qua đó hình thành và phát triển ý
thức “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Việc học sinh tham gia các hoạt
động chiến dịch nhằm tăng cường sự hiểu biết và sự quan tâm của học sinh đối
với các vấn đề xã hội như vấn đề môi trường, an toàn giao thông, an toàn xã
hội,… giúp học sinh có ý thức hành động vì cộng đồng; tập dượt cho học sinh
tham gia giải quyết những vấn đề xã hội; phát triển ở học sinh một số kĩ năng
cần thiết như kĩ năng hợp tác, kĩ năng thu thập thông tin, kĩ năng đánh giá và kĩ
năng ra quyết định.
Mỗi chiến dịch nên mang một chủ đề để định hướng cho các hoạt động
như: Chiến dịch giờ trái đất; Chiến dịch làm sạch môi trường xung quanh
trường học; Chiến dịch ứng phó với biến đổi khí hậu; Chiến dịch bảo vệ môi
trường, bảo vệ rừng ngập mặn; Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn; Chiến
dịch tńh nguyện hè, Chiến dịch ngày thứ 7 tńh nguyện…
* Hoạt động nhân đạo
Hoạt động nhân đạo là hoạt động tác động đến trái tim, tình cảm, sự
đồng cảm của học sinh trước những con người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Thông qua hoạt động nhân đạo, học sinh biết thêm những hoàn cảnh khó khăn
của người nghèo, người nhiễm chất độc da cam, trẻ em mồ côi, người tàn tật,
khuyết tật, người già cô đơn không nơi nương tựa, người có hoàn cảnh đặc biệt

25


×