Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tăng cường quản lý thu, chi ngân sách nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.97 KB, 12 trang )

A. MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu, chi ngân sách nhà nước và
quản lý nợ công. Công tác thu, chi ngân sách nhà nước và quản lý nợ công đã có
những đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xử lý các vấn đề cấp
bách về thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và
đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về thu,
chi ngân sách nhà nước và quản lý nợ công từng bước được hoàn thiện theo hướng
công khai, minh bạch, tiếp cận với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đáp ứng yêu cầu
chỉ đạo, điều hành vĩ mô của đất nước trong từng giai đoạn.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác thu, chi ngân sách nhà nước và quản lý
nợ công vẫn còn hạn chế: Quy mô thu ngân sách so với tổng sản phẩm trong nước
(GDP) giảm nhanh, cơ cấu thu chưa hợp lý, thiếu bền vững; các nguồn lực đất đai,
tài nguyên, công sản chưa được huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả; tình
trạng trốn thuế, thất thu và nợ thuế còn nghiêm trọng. Cân đối ngân sách nhà nước
khó khăn, bội chi cao, phải vay đảo nợ; nhiều địa phương chưa có khả năng cân
đối ngân sách và điều tiết về ngân sách Trung ương. Nợ công và nghĩa vụ trả nợ
tăng nhanh, áp lực trả nợ trong ngắn hạn lớn, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng
chưa được kiểm soát chặt chẽ; nợ đọng xây dựng cơ bản và ứng trước ngân sách
còn lớn; việc quản lý, sử dụng vốn vay còn bất cập; thiếu gắn kết giữa quyết định
đầu tư với cân đối nghĩa vụ trả nợ. Việc sử dụng ngân sách và vốn đầu tư công còn
lãng phí, thất thoát, kém hiệu quả;…
Để giải quyết tình trạng này cần có giải pháp hữu hiệu để cơ cấu lại ngân sách
nhà nước đảm bảo phát triển ổn định, bền vững.
Với tính cấp thiết trên, tôi chọn vấn đề “Tăng cường quản lý thu, chi ngân
sách nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm bài thu hoạch kết thúc
môn Quản lý kinh tế của Lớp hoàn chỉnh Chương trình cao cấp lý luận chính trị
Khóa 4.

1




B. NỘI DUNG
1. Một số vấn đề chung về ngân sách nhà nước
1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Các nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển cho rằng: NSNN là một văn kiện tài
chính mô tả các khoản thu, chi của Chính phủ được thiết lập hàng năm. Nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế hiện đại thì cho rằng NSNN là bảng liệt kê các khoản thu chi
bằng tiền mặt trong một giai đoạn nhất định của Nhà nước.
Luật ngân sách Nhà nước 2015 định nghĩa: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ
các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết
định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước”.
1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Một là, hoạt động thu chi của NSNN luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất
định. Đặc điểm này là nội dung, mức độ và cơ cấu các khoản thu, chi của NSNN
phải được các cơ quan Nhà nước cao nhất quyết định và trở thành các chỉ tiêu pháp
lý yêu cầu các chủ thể trong xã hội phải thực hiện.
Hai là, hoạt động NSNN là hoạt động phân phối lại các nguồn lực tài chính,
nó thể hiện ở hai lĩnh vực thu và chi của Nhà nước để thực hiện các chức năng
quản lý và điều hành nền KT - XH của Nhà nước.
Ba là, đằng sau những hoạt động thu, chi tài chính của Nhà nước luôn chứa
đựng những nội dung kinh tế - xã hội nhất định và chứa đựng những quan hệ lợi
ích nhất định.
Bốn là, quỹ NSNN luôn được phân chia thành các quỹ tiền tệ nhỏ hơn trước
khi đưa vào sử dụng.
1.3. Vai trò của ngân sách nhà nước
Có thể nhìn nhận vai trò của NSNN trên hai phương diện:
Một là, huy động các nguồn tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước và thực hiện sự cân đối tài chính Nhà nước. Nhà nước có nhiều chức năng,

nhiệm vụ, để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đó Nhà nước cần có lực lượng vật
chất nhất định. Một trong đó là NSNN. Đối với bất kỳ quốc gia nào, NSNN luôn

2


có vị trí quan trọng trong việc đảm bảo nguồn tài chính cho sự thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Hai là, NSNN là một công cụ kinh tế vĩ mô quan trọng tác động vào nền kinh
tế. NSNN là nguồn lực đầu tư quan trọng giúp cho nền kinh tế phát triển, điều
chỉnh cơ cấu kinh tế; thúc đẩy quá trình đô thị hoá, động viên mọi thành viên trong
xã hội tham gia vào quá trình phát triển; ngân sách cùng với các công cụ khác hỗ
trợ sự hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, đồng thời tham gia
khắc phục các thất bại của chính nền kinh tế thị trường, đảm bảo môi trường kinh
doanh lành mạnh, bảo đảm tính công bằng và hiệu quả kinh tế - xã hội.
NSNN có vai trò quan trọng, quốc gia nào cũng xây dựng một hệ thống ngân
sách hợp lý, với các chính sách nhằm mục tiêu phân phối và sử dụng có hiệu quả
nhất. Với vai trò của mình, NSNN là công cụ của Nhà nước để cùng với thị trường
tác động tích cực vào nền kinh tế, tạo động lực khuyến khích mọi thành phần kinh tế
phát triển; hạn chế cơ chế quản lý trực tiếp, mệnh lệnh hành chính; mở rộng và tăng
cường sử dụng tích cực các công cụ tài chính tiền tệ, sửa đổi bổ sung các chính sách
tài chính phù hợp với quy luật kinh tế thị trường. NSNN cần ưu tiên lựa chọn mục
tiêu trung tâm, trọng điểm, đào tạo nhân lực, phát triển nội lực, thu hút, huy động và
chuyển hoá ngoại lực thành nội lực nhằm phát triển nhanh nền KT- XH.
1.4. Nội dung của ngân sách nhà nước
Nội dung chủ yếu của NSNN bao gồm thu, chi NSNN:
* Về thu NSNN: Đứng về phương diện pháp lý thu NSNN bao gồm những
khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước. Tuy nhiên về thực chất, thu NSNN chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà
nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực

tiếp cho đối tượng nộp. Phần lớn các khoản thu NSNN đều mang tính cưỡng bức,
phần còn lại là các khoản thu khác của Nhà nước (thu ngoài thuế).
Dựa vào nội dung kinh tế, các khoản thu NSNN bao gồm:
- Thu từ thuế, phí, lệ phí;
- Từ các hoạt động cho thuê tài sản;
- Bán tài nguyên;
- Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
- Đóng góp của các tổ chức, cá nhân;
3


- Các khoản viện trợ;
- Các khoản vay nợ;
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Các khoản thu trên được dùng để đáp ứng nhu cầu chi trong năm ngân sách
nên gọi là các khoản thu trong cân đối NSNN. Ngoài ra còn có các khoản do Nhà
nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân đối NSNN.
* Về chi NSNN: Chi NSNN thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá
trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang trải cho các chi phí bộ máy nhà
nước và thực hiện các chức năng KT - XH mà nhà nước đảm nhận theo những
nguyên tắc nhất định.
Căn cứ vào nội dung kinh tế, các khoản chi NSNN chia thành:
- Chi thường xuyên: là khoản chi nhằm để đảm bảo cho bộ máy nhà nước tồn tại
và hoạt động, các khoản chi này không trực tiếp tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng
cho tương lai mà nó dùng cho tiêu dùng hiện tại đối với từng cá nhân, từng bộ phận.
- Chi đầu tư phát triển: là những khoản chi nhằm tạo ra cơ sở sản xuất vật chất
và làm tăng sản phẩm quốc nội (GNP). Các khoản chi này có tác dụng góp phần
làm cho nền kinh tế tăng trưởng. Trên ý nghĩa đó người ta gọi các khoản chi này là
khoản chi tích lũy.
- Chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay.

- Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
- Chi khác theo quy định của pháp luật.
Việc cân đối NSNN là một nguyên lý xuyên suốt trong quá trình quản lý và
điều hành NSNN. Cân đối NSNN yêu cầu các khoản chi ngân sách phải có nguồn
thu đảm bảo. Theo quan điểm hiện nay, NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số
thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và đảm bảo số tích lũy
ngày càng cao để chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải
nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển; tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.
2. Thực trạng thu, chi ngân sách nhà nước và nợ công ở Việt Nam hiện nay
Sau khi Hiến pháp năm 2013 chính thức có hiệu lực (từ 1/1/2014), công tác
hoàn thiện thể chế quản lý ngân sách nhà nước nhằm cụ thể hóa Hiến pháp 2013 và
các nghị quyết của Quốc hội về NSNN đã được chú trọng hơn. Các văn bản quy
phạm pháp luật được hoàn thiện theo đúng lộ trình và có chất lượng. Hệ thống luật
4


pháp về kinh tế - tài chính đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Hiến pháp.
Hệ thống thể chế chặt chẽ phù hợp đã tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho công
tác quản lý, giám sát và điều hành NSNN những năm vừa qua,…
Thực trạng thu, chi NSNN và nợ công ở Việt Nam có thể phân tích trên một
số khía cạnh sau:
* Về thu NSNN:
Trong những năm qua, chính sách thu NSNN đã góp phần tăng quy mô và tỷ
lệ động viên GDP vào NSNN. Cụ thể, tỷ lệ huy động NSNN thông qua thuế, phí đã
đạt khoảng 21% GDP/năm, gần sát với mục tiêu Nghị quyết của Quốc hội đề ra
(không quá 22% - 23% GDP/năm) nhưng có phần suy giảm so với giai đoạn trước
(giai đoạn 2006 - 2011 là 24,8% GDP, giảm 3,8% GDP).
Trong cơ cấu thu NSNN, tỷ trọng thu nội địa đã tăng cao hơn (từ 58,9% giai
đoạn 2006 - 2010 lên khoảng 68% giai đoạn 2011 - 2015), do nền kinh tế tiếp tục
tăng trưởng dương và duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý để thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế. Cơ cấu thu theo các sắc thuế cũng có sự thay đổi: Tỷ lệ thuế gián thu có xu
hướng tăng dần (giai đoạn 2001 - 2005 khoảng 46%; giai đoạn 2006 - 2010 khoảng
50%; giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 54%) nhưng chậm so với quy mô phát triển
của nhiều dịch vụ.
Tỷ trọng thuế trực thu tuy có giảm do chính sách miễn, giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp (TNDN) và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) nhưng cũng cho thấy,
hiệu quả của nền kinh tế được cải thiện. Cơ cấu các khoản thu giữa ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương được phân định rành mạch theo quy định của Luật
NSNN, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tại địa phương và khuyến khích các
địa phương tăng cường quản lý thu thuế.
* Về chi NSNN
Quy mô chi NSNN tăng khá cao (năm 2016 tăng trên 70% so với năm 2010)
nhưng cũng chỉ mới đáp ứng nhu cầu chi tối thiểu của nhiều ngành, lĩnh vực. Cân
đối NSNN ngày càng khó khăn hơn do nợ công sắp đến giới hạn cho phép; nhu cầu
chi đầu tư phát triển (ĐTPT) vẫn còn rất lớn.
- Đối với chi đầu tư phát triển (ĐTPT): Tỷ trọng bình quân bố trí dự toán chi
ĐTPT giai đoạn 2011 - 2015 chiếm khoảng 18% tổng chi NSNN, thấp hơn so với
giai đoạn 2006 - 2010 (bình quân 24,4%). Nếu tính cả nguồn trái phiếu chính phủ,
5


xổ số kiến thiết thì con số này là 24% tổng chi NSNN. Điều này cho thấy, tình
trạng ngày càng khó khăn trong việc bố trí NSNN cho ĐTPT.
- Đối với chi thường xuyên: Thực hiện điều chỉnh tăng lương cơ sở (năm
2011, 2012 tiền lương tối thiếu). Điều chỉnh tăng tiền lương cơ sở 3 lần, 1 lần thực
hiện phụ cấp công vụ 25%, 1 lần điều chỉnh tăng 8% đối với lương hưu, trợ cấp ưu
đãi người có công và tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ
trang có thu nhập thấp (hệ số lương từ 2,34 trở xuống).
Việc thực hiện chính sách an sinh xã hội nhằm thực hiện chủ trương cải thiện
cuộc sống cho người có công, người nghèo, người không nơi nương tựa, đồng bào

dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn và đặc
biệt khó khăn đã đạt được kết quả nhất định; trong khi một số chính sách còn bất
cập cần được điều chỉnh cho hợp lý trong thời gian tới.
- Đối với chi trả nợ: Nợ trong nước mới bố trí đủ chi trả nợ lãi, chi trả nợ gốc
ở mức thấp, khiến phải vay đảo nợ. Chính phủ phải huy động các khoản vay ngắn
hạn với lãi suất cao nên nhu cầu chi trả nợ trong giai đoạn 2014 – 2016 tăng cao,
tạo áp lực lớn trong cân đối NSNN. Đối với nợ nước ngoài: Do Việt Nam đã tiệm
cận nước có thu nhập trung bình trên thế giới, việc vay ưu đãi và viện trợ của các
tổ chức tài chính quốc tế và Chính phủ các nước ngày càng hạn chế. Mặt khác, do
nhu cầu ĐTPT ngày càng lớn, vốn vay nước ngoài cho ĐTPT cũng gây áp lực lớn
đến nợ công và cân đối NSNN trong những năm vừa qua.
* Về bội chi NSNN và nợ công
Bội chi NSNN vẫn ở mức cao, không đạt mục tiêu đề ra (4,5% GDP vào năm
2015): Năm 2011 mức bội chi là 4,4% GDP, năm 2012 là 5,4% GDP, năm 2013 là
6,6% GDP, năm 2014 là 5,3% GDP, năm 2015 là 6,28% GDP), một phần bội chi
đã phải sử dụng cân đối cho trả nợ gốc.
Nợ công vẫn trong giới hạn cho phép (đến nay, nợ công dự kiến khoảng
62,6% GDP, nợ Chính phủ ước khoảng 51,8% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia
ước khoảng 45,2% GDP), nhưng đang tiệm cận tới giới hạn với tốc độ tăng nhanh
trong thời gian qua (từ 2006 - 2010 tăng thêm 15% GDP và từ năm 2011 - 2015
tăng thêm khoảng 7% GDP), bình quân mỗi năm tốc độ tăng nợ công khoảng
18,4%, cao gấp gần 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế.

6


Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (bao gồm cả trả nợ gốc và lãi) ước
khoảng 25% tổng thu NSNN, nếu tính cả vay đảo nợ thì nghĩa vụ trả nợ trực tiếp
của Chính phủ còn cao hơn. Bên cạnh đó, bội chi NSNN vẫn ở mức cao và không
đạt mục tiêu đề ra, đi đôi với việc tăng trưởng GDP không đạt kế hoạch nhưng

không điều chỉnh giảm bội chi tương ứng thì nợ công càng có xu hướng tăng cao,
nhất là khi có phát sinh rủi ro về giá dầu, tỷ giá…
* Một số khó khăn, hạn chế đặt ra
Chính sách thu NSNN nhằm thực hiện mục tiêu “khoan sức dân” đã góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển, song cũng bị ảnh hưởng dẫn đến giảm thu NSNN khá
mạnh (khoảng 1% GDP/năm). Đáng chú ý là, nhiều sắc thuế đã thu hẹp đối tượng
chịu thuế, giảm thuế suất, tăng mức giảm trừ gia cảnh có khi nhanh hơn dự kiến
ban đầu (thuế TNDN, thuế GTGT, thuế TNCN).
Thực hiện miễn, giảm thuế; cắt giảm, bãi bỏ hàng trăm khoản phí, lệ phí; gia
hạn thời hạn nộp thuế GTGT, TNDN và thu tiền sử dụng đất; giảm thuế suất thuế
TNDN cho các DN... Các chính sách này đã phần nào ảnh hưởng đến nguồn thu
NSNN trong ngắn và dài hạn.
Việc khai thác các khoản thu từ đất đai, tài nguyên diễn ra khá nhanh, dẫn đến
những tác động không nhỏ về kinh tế - xã hội và môi trường. Một số địa phương vì
muốn bảo đảm nguồn thu nên đã bán đất đai, sử dụng tài nguyên quá mức, trong
đó có tài nguyên không tái tạo, tạo ra những hệ lụy lâu dài đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
Chính sách chi NSNN đứng trước những khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, tạo
điều kiện thuận lợi cho tái cơ cấu kinh tế, hội nhập quốc tế, bảo đảm an sinh xã
hội, nên việc chi NSNN còn một số bất cập. Một số nguyên tắc đề ra trong Luật
NSNN và các nghị quyết của Quốc hội chưa được đảm bảo, kỷ luật tài chính chưa
nghiêm. Qua kết quả kiểm toán cho thấy, việc chi tiêu lãng phí, kém hiệu quả, phô
trương hình thức và sai chế độ vẫn còn diễn ra ở các mức độ khác nhau.
Bên cạnh đó, việc bố trí chi NSNN cho một số lĩnh vực như: giáo dục - đào
tạo, khoa học - công nghệ, y tế… theo phân cấp ngân sách giữa trung ương và địa
phương còn chưa hợp lý. Trong giai đoạn 2011 - 2015 NSNN đã bố trí đạt tỷ lệ chi
theo nghị quyết của Đảng, Quốc hội như: Chi giáo dục - đào tạo 20% tổng chi

7



NSNN, khoa học - công nghệ 2% tổng chi NSNN, tốc độ tăng chi y tế cao hơn tốc
độ tăng chi chung của NSNN…
Tuy nhiên, nhiều năm thực hiện không đạt dự toán, gây lãng phí nguồn lực,
trong khi cân đối NSNN còn khó khăn, nhiều nhiệm vụ chi quan trọng không được
bố trí ngân sách. Cùng với đó, còn tồn tại nhiều chương trình mục tiêu, hỗ trợ cho
ngân sách địa phương khá rộng, nên vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương có
xu hướng giảm, thể hiện cơ cấu chi ĐTPT của ngân sách trung ương đã giảm từ
33,3% xuống còn 26%.
Chính sách quản lý nợ công còn có quan điểm khác nhau về phạm vi nợ công,
các khoản nợ phát sinh từ điều hành ngân sách, nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Chưa có phân định rõ ràng và sự phối hợp
chưa chặt chẽ giữa quản lý nợ công, quản lý ngân sách và quản lý đầu tư công; yêu
cầu tách bạch quy định về quản lý vốn vay của Chính phủ theo từng nguồn vốn
huy động để đảm bảo quản lý chặt chẽ, hiệu quả hơn trong điều kiện Việt Nam dần
không còn tiếp cận được nhiều vốn vay ODA.
Các quy định về cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ, cấp và quản lý
bảo lãnh của Chính phủ cũng đã bộc lộ những hạn chế; Áp lực trả nợ trong ngắn hạn
lớn, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ; Việc quản lý,
sử dụng vốn vay còn bất cập, hiệu quả chưa cao; phân bổ vốn đầu tư từ nguồn vốn
vay còn dàn trải, thiếu gắn kết giữa quyết định đầu tư với cân đối nghĩa vụ trả nợ...
3. Một số giải pháp tăng cường quản lý thu, chi ngân sách nhà nước và nợ
công ở nước ta trong thời gian đến
Phân tích bối cảnh kinh tế - xã hội nước ta và tình hình kinh tế, chính trị thế
giới trong thời gian tới, cho thấy, trong thời gian tới, NSNN chịu ảnh hưởng của
các yếu tố sau đây:
Một là, do quá trình hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, trong đó có
việc thực hiện cam kết của các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và các Hiệp
định đối tác kinh tế khu vực và thế giới, dẫn đến cắt giảm nhiều dòng thuế nhập
khẩu. Ở trong nước, điều chỉnh chính sách thuế với mức thuế suất thấp dẫn tới tỷ lệ

huy động từ thuế, phí, lệ phí sẽ giảm mạnh.
Hai là, giá dầu thô trên thế giới vẫn diễn biến khó lường, ảnh hưởng lớn đến
công tác xây dựng và thực hiện dự toán NSNN hàng năm. Dự báo của các tổ chức
8


tài chính quốc tế và cơ quan năng lượng quốc tế cũng không thực sự sát với tình
hình, trong khi số thu NSNN của Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào thu từ dầu thô.
Ba là, tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp, thủy điện có
thể gây thất thu nhiều, nhất là đối với các tỉnh nông nghiệp hoặc có công trình thủy
điện. Nhu cầu chi NSNN để đầu tư kết cấu hạ tầng, tái cơ cấu nền kinh tế dẫn đến
gia tăng chi ĐTPT. Chi thường xuyên cũng tăng do việc ban hành các chính sách
cần thiết để bảo đảm an sinh xã hội.
Bốn là, việc tiếp cận vốn trên thị trường quốc tế khó khăn hơn, chi phí cao
hơn; vốn viện trợ và các khoản vay ưu đãi ngày càng giảm do Việt Nam trở thành
nước có thu nhập trung bình. Áp lực của việc mở rộng giới hạn trần nợ công ngày
càng rõ nét do nợ công đã sắp đến mức trần cho phép.
Trên cơ sở tổng kết kết quả đạt được thời gian qua, tiếp tục triển khai thực
hiện Chiến lược tài chính đến năm 2020, Luật NSNN năm 2015 (có hiệu lực từ
năm ngân sách 2017), Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 18/11/2016 của Ban Chấp hành
Trung ương, Nghị quyết 51/NQ-CP ngày 19/6/2017 của Chính phủ về Chương
trình hành động triển khai khai hoạch cơ cấu lại NSNN và quản lý nợ công. Yêu
cầu về cơ cấu lại NSNN cần được nhấn mạnh thêm một số nội dung sau: Nâng cao
năng lực phân tích, dự báo, bảo đảm tính ổn định, vững chắc của NSNN, tạo sự
chủ động cho các ngành, các cấp trong quá trình triển khai thực hiện; kịp thời giải
quyết những vướng mắc phát sinh phù hợp với tình hình trong và ngoài nước; Đổi
mới toàn diện cơ chế quản lý ngân sách, khắc phục phương pháp quản lý NSNN
theo cơ chế cũ, triển khai thực hiện theo các quy định tiến bộ của Luật NSNN năm
2015; Động viên, phân bổ, quản lý và sử dụng các nguồn tài chính hiệu quả, công
bằng, công khai, minh bạch; ưu tiên đầu tư hợp lý cho phát triển con người, phát triển

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, đảm bảo quốc
phòng, an ninh; đẩy mạnh cải cách hành chính và hiện đại hóa quản lý tài chính công;
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán; Có biện
pháp quyết liệt đối với quản lý nợ công, bảo đảm an toàn nợ công và an ninh tài
chính quốc gia. Kiên định mục tiêu giảm dần bội chi NSNN. Đánh giá đầy đủ và
chính xác mức dư nợ công, dư nợ Chính phủ và dư nợ quốc gia...

9


Bên cạnh các nội dung nhấn mạnh ở trên, cần tập trung triển khai thực
hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường thu NSNN từ nội lực nền kinh tế:
- Phấn đấu thu từ thuế, phí không thấp hơn 21-22% GDP, các nguồn thu cần
tập trung đầy đủ vào ngân sách theo quy định của Luật NSNN năm 2015. Đến năm
2020, quy mô thu NSNN (về số tuyệt đối) tăng gấp 1,5 - 2 lần so với giai đoạn
2011 - 2015. Điều chỉnh hợp lý tỷ trọng giữa thuế gián thu và thuế trực thu.
- Hạn chế việc lồng ghép chính sách xã hội trong các sắc thuế và chính sách
miễn, giảm, giãn thuế. Xác định rõ tính hợp lý của chính sách thu đối với thuế trực
thu và thuế gián thu, từ đó phát huy vai trò thuế là nguồn thu quan trọng của NSNN,
kích thích tăng trưởng kinh tế, điều tiết thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội.
- Tăng cường số thu nội địa, bảo đảm tăng gấp 2 lần so với giai đoạn 2011 2015; tỷ trọng thu nội địa đạt khoảng 84-85% tổng thu NSNN để bù đắp cho số thu
xuất nhập khẩu và thu từ dầu thô có xu hướng giảm dần. Trong số tăng thu nội địa
thì tốc độ tăng thu và mức đóng góp của khu vực doanh nghiệp nhà nước cần
tương xứng với nguồn lực đầu tư của Nhà nước, bảo đảm công bằng với các thành
phần kinh tế khác. Tiến tới xác định số thu nội địa cần loại trừ số thu tiền sử dụng
đất, thu xổ số kiến thiết, thu từ bán tài sản của nhà nước, để phản ánh chính xác
chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế.
- Cần xem xét một số Luật thuế đã được ban hành, nhất là việc thuế suất giảm
khá nhiều và Luật thuế sửa đổi, bổ sung nhiều lần làm mất tính ổn định của hệ

thống thuế, tạo tâm lý không yên tâm cho các nhà đầu tư. Các chính sách ưu đãi
thông qua miễn, giảm thuế trên diện rộng đối với nhiều đối tượng đã làm giảm tỷ
lệ huy động GDP vào NSNN thông qua thuế và phí. Trên cơ sở đó, sửa đổi một số
sắc thuế như sau:
+ Đối với thuế gián thu: Nghiên cứu đưa thuế GTGT về một mức thuế suất;
Thuế TTĐB cần có sự điều chỉnh hợp lý, mở rộng đối tượng thu (như dịch vụ cao
cấp, thuốc trừ sâu...); Thuế tài nguyên cần được sửa đổi, bổ sung, tăng mức trần
thuế suất để bảo vệ tài nguyên, khoáng sản; Thuế nhập khẩu giảm theo các Hiệp
định Thương mại tự do và các cam kết quốc tế khác.
+ Đối với thuế trực thu: Thuế TNCN cần điều chỉnh mức miễn trừ gia cảnh,
tránh trường hợp biến thành thuế thu nhập cao, mở rộng đối tượng và phạm vi nộp
10


NSNN; Thuế TNDN giữ mức thuế suất ổn định là 20%, bổ sung thu từ vốn nhà
nước đầu tư vào kinh doanh, thu cổ tức tăng thêm; đồng thời, sửa đổi về thuế suất
thuế TNDN và thuế TNCN phải bảo đảm đồng bộ với nhau, cân nhắc hiệu quả của
việc sửa đổi các loại thuế đối với thu NSNN; Ban hành thuế tài sản và các chính
sách thu từ đất.
Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ chi tiêu, giảm dần bội chi và nợ công:
- Chính sách chi NSNN cần tuân thủ các nguyên tắc, tiêu chí và định mức
phân bổ vốn NSNN cho chi thường xuyên, chi ĐTPT theo các Nghị quyết của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội (Nghị quyết 266/NQ-UBTVQH13 ngày 4/10/2016 và
Nghị quyết 1023/NQ-UBTVQH13 ngày 28/8/2015), đảm bảo hiệu quả, công bằng,
tiết kiệm, hạn chế lãng phí và chống thất thoát. Nâng cao hiệu quả chi ngân sách,
từng bước thực hiện bố trí chi theo kết quả đầu ra, theo đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ công việc. Tiết kiệm chi thường xuyên trên cơ sở quản lý chặt chẽ biên
chế, tinh gọn bộ máy, tăng định mức chi sự nghiệp kinh tế, chi duy tu, bảo dưỡng...
- Quy mô chi NSNN so với GDP cần được tính toán lại cho phù hợp. Cơ cấu
chi ĐTPT khoảng 25 - 26% tổng chi; chi thường xuyên dưới 64%, ưu tiên bảo đảm

chi trả nợ, chi dự trữ quốc gia, thực hiện cải cách tiền lương và chi an sinh xã hội.
- Bội chi NSNN cần tính toán lại theo quy định của Luật NSNN năm 2015,
bảo đảm thấp hơn 4% GDP, nhưng từ năm 2021 là 3% GDP tính theo tiêu chí mới
(bao gồm cả trái phiếu chính phủ và không bao gồm trả nợ gốc); phấn đấu bội chi
NSNN giảm dần mỗi năm khoảng 0,2% - 0,3% GDP; hướng tới cân bằng thu - chi
NSNN; kiểm soát chặt chẽ bội chi và nợ của chính quyền địa phương.
- Về nợ công, thực hiện nghiêm túc quy định tại khoản 3 điều 7 của Luật
NSNN năm 2015, theo đó, vay bù đắp bội chi chỉ dành cho ĐTPT, không vay cho
tiêu dùng thường xuyên. Nghiên cứu các kịch bản để có thể xử lý các tình huống
xảy ra, đi đôi với việc kiểm soát chặt chẽ mức bội chi hàng năm và trần nợ công;
duy trì mức trần nợ công không quá 65% GDP (sau năm 2020 không quá 62%
GDP), nợ Chính phủ không quá 55% GDP, nợ nước ngoài không quá 50% GDP.
Cơ cấu lại nợ công theo hướng kéo dài kỳ hạn, giảm áp lực trả nợ ngắn hạn và chi
phí vay vốn, bảo đảm khả năng trả nợ và an ninh tài chính quốc gia.

11


C. KẾT LUẬN
Tóm lại, hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách tài chính quốc gia là một
khâu trọng yếu trong việc Nhà nước thực hiện vai trò quản lý xã hội và điều tiết vĩ
mô nền kinh tế; trong đó, quản lý ngân sách nhà nước là một bộ phận rất quan trọng
của chính sách tài chính quốc gia. Trong điều kiện cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý
thay đổi thì hệ quả tất yếu là chính sách tài chính nói chung và công tác quản lý,
điều hành hoạt động thu, chi Ngân sách nhà nước nói riêng cũng phải đổi mới.
Từ sự phân tích thực trạng thu, chi NSNN của nước ta ở trên cho thấy, hiện
nay tình hình thu ngân sách gặp nhiều khó khăn và không thể tăng nhanh trong khi
nhu cầu chi quá lớn nên bội chi NSNN và nợ công tiếp tục tăng cao đe dọa không
nhỏ đến ổn định các mục tiêu kinh tế vĩ mô và thậm chí là an ninh quốc gia. Do đó,
trong thời gian đến, để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, bên cạnh

các giải pháp mang tính đề xuất ở trên cần tiếp tục thực hiện nghiêm các chủ
trương, biện pháp đã nêu trong Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ
Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công
để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.

12



×