Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Những vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.79 KB, 13 trang )

A. MỞ ĐẦU
Trong nghiên cứu về vấn đề dân tộc, việc xem xét quan hệ dân tộc có ý nghĩa
cả về lý luận và thực tiễn. Quan hệ dân tộc là mối quan hệ giữa các tộc người trong
một quốc gia và xuyên quốc gia, và mối quan hệ giữa tộc người với cộng đồng dân
tộc - quốc gia (Nation - State) trên nhiều lĩnh vực, như chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa… Quan hệ dân tộc vừa là mối quan hệ tự nhiên, vừa mang tính tất yếu
trong một quốc gia hay khu vực đa dân tộc, chịu tác động của nhiều yếu tố. Tầm
quan trọng của quan hệ dân tộc là điều dễ nhận thấy, nhưng xử lý vấn đề này thế
nào cho đúng ở mỗi quốc gia là điều không dễ dàng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc,
công tác dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng nước ta. Qua đó, đã luôn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng khối
đoàn kết toàn dân tộc, quan tâm phát triển toàn diện và bền vững vùng dân tộc thiểu
số, chính sách dân tộc của Đảng luôn dựa trên nguyên tắc cơ bản là “bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển”. Bởi vậy, trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ đất nước, các dân tộc trong cộng đồng đại gia đình các dân
tộc Việt Nam từ chỗ bị áp bức, bóc lột dưới sự đô hộ của thực dân đế quốc đã trở
thành những thành viên làm chủ đất nước Việt Nam độc lập thống nhất. Khối đại đoàn
kết dân tộc được củng cố và tăng cường mạnh mẽ. Ngày nay, tinh thần đại đoàn kết
đang được tiếp tục phát huy cao độ, trở thành động lực của công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới hiện nay, đã nảy sinh những vấn đề ở một số tộc
người tại các địa phương khác nhau. Các cuộc bạo loạn ở Tây Nguyên của những
nhóm người thuộc một số dân tộc tại chỗ, các cuộc biểu tình đòi đất của người Khơme tại vùng Tây Nam Bộ, hay gần đây là việc gây rối của những người Hmông ở
Mường Nhé tỉnh Điện Biên đòi tự do tôn giáo và thành lập vương quốc Hmông,…
cho thấy quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay không hoàn toàn êm ả, mà đã dung chứa
yếu tố thiếu ổn định. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề mới nảy sinh trong
quan hệ dân tộc ở Việt Nam là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi chọn vấn đề “Những vấn đề mới nảy sinh
trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay” làm bài thu hoạch môn Lý luận dân
tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam của Lớp hoàn chỉnh Chương trình cao cấp lý
luận chính trị Khóa 4.


1


B. NỘI DUNG
1. Quan niệm về dân tộc, quan hệ dân tộc và các mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam
1.1. Quan niệm về dân tộc
Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi
dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến
cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phỏ biến nhất.
Thứ nhất, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có
những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ
chung của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với
những cộng đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có kế thừa và phát triển
hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự giác
của các thành viên trong cộng đồng đó.
Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền
vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống
nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung
trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Như vậy, nếu theo nghĩa thứ nhất, dân tộc là bộ phận của quốc gia, là cộng
đồng xã hội theo nghĩa là các tộc người, còn theo nghĩa thứ hai thì dân tộc là toàn
bộ nhân dân một nước, là quốc gia dân tộc. Với nghĩa như vậy, khái niệm dân tộc
và khái niệm quốc gia có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, dân tộc bao giờ cũng ra đời
trong một quốc gia nhất định và thực tiễn lịch sử chứng minh rằng những nhân tố
hình thành dân tộc chín muồi thường không tách rời với sự chín muồi của những
nhân tố hình thành quốc gia. Đây là những nhân tố bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau
trong quá trình phát triển.
1.2. Quan niệm về quan hệ dân tộc
Quan hệ dân tộc được hiểu một cách chung nhất là sự ràng buộc, tác động

qua lại lẫn nhau giữa các tộc người trong một quốc gia đa tộc người và giữa các
quốc gia - dân tộc với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo cách quan
niệm đó, quan hệ dân tộc được đề cập trên hai phương diện: 1) Quan hệ giữa các
tộc người trong một quốc gia; 2) Quan hệ các quốc gia - dân tộc.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, thuật ngữ quan hệ dân tộc thường được hiểu/đồng
nhất là quan hệ tộc người. Quan hệ tộc người được hiểu là các mối quan hệ giao
2


lưu, hợp tác, liên kết, phân ly giữa các cá nhân hay tổ chức khác nhau trong các
cộng đồng của một tộc người hoặc giữa các tộc người. Do đó, khái niệm “quan hệ
dân tộc” ở Việt Nam cần được hiểu là quan hệ giữa các tộc người trong một quốc
gia đa tộc người và quan hệ đồng tộc xuyên biên giới. Trên thực tế, quan hệ dân
tộc diễn ra ở mọi lĩnh vực, mọi lúc, mọi nơi trong đời sống của tất cả các tộc người
và giữa các tộc người nên rất đa dạng và phức tạp, nhiều chiều, nhiều hình thức,
nhiều cấp độ và không gian khác nhau.
1.3. Các mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam
Nếu xét theo không gian, các mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam diễn ra cả trong
vùng nội biên và xuyên biên giới. Xuất phát từ đặc điểm cấu trúc dân tộc ở Việt Nam
có một tộc người đa số (người Kinh) và 53 tộc người còn lại là thiểu số (với hơn 300
nhóm địa phương), cùng với sự khác biệt về nguồn gốc lịch sử, ngôn ngữ, phong
tục, tập quán, lối sống, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, quan hệ dân tộc được phân biệt/xác định theo các trục quan hệ cơ bản như sau:
1) Quan hệ giữa các tộc người với quốc gia - dân tộc; 2) Quan hệ giữa tộc người đa
số (người Kinh) với các tộc người thiểu số; 3) Quan hệ giữa các tộc người thiểu số
và trong nội bộ từng tộc người thiểu số; 4) Quan hệ tộc người xuyên biên giới.
Các mối quan hệ này tuy có vị trí và mức độ ảnh hưởng khác nhau, nhưng đều
có mối liên quan chặt chẽ. Với xu thế gia tăng quá trình cộng cư, hôn nhân hỗn hợp,
quan hệ làm ăn và nhiều yếu tố khác, nhất là dưới tác động của đường lối, chính
sách dân tộc tiến bộ của Đảng và Nhà nước ở Việt Nam đang dần được thu hẹp

khoảng cách phát triển giữa các dân tộc. Vì vậy, phạm vi của các mối quan hệ tộc
người ở Việt Nam hiện nay không chỉ diễn ra giữa các thành viên trong cùng một tộc
người mà cả với các tộc người khác. Trong đó mối quan hệ giữa người Kinh - tộc
người đa số với các tộc người thiểu số được xem là trục quan hệ quan trọng nhất,
đặc biệt là sự có mặt của người Kinh ở vùng dân tộc thiểu số hiện nay, với số lượng
ngày càng gia tăng là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển bền vững. Bên
cạnh đó, mối quan hệ của từng tộc người với quốc gia - dân tộc cũng là nội dung
quan trọng cần được nghiên cứu bởi nó phản ánh nhận thức, vị thế và sự tham gia
của từng tộc người trong sự phát triển chung của quốc gia - dân tộc.
Quan hệ dân tộc ở Việt Nam dù trên phạm vi hay lĩnh vực nào cũng có nhiều
mục đích: trao đổi kinh tế (bao gồm buôn bán, làm thuê, hợp tác kinh doanh…);
duy trì sự gắn kết họ hàng, đồng tộc; chia sẻ các giá trị lịch sử, văn hóa tộc người
3


và các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng; và có thể vì mục tiêu hay lý do chính trị
khác… Do đó, khi nghiên cứu làm rõ vấn đề quan hệ dân tộc ở Việt Nam, cần xem
xét/phân tích một cách cẩn trọng các mối quan hệ theo các trục quan hệ, chiều cạnh
quan hệ, cấp độ quan hệ và không gian của các mối quan hệ.
2. Quan hệ tộc người ở Việt Nam và những vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ
dân tộc ở Việt Nam hiện nay
2.1. Quan hệ tộc người ở Việt Nam hiện nay
Do vị trí địa lý nằm ở ngã ba đường của sự giao lưu Đông-Tây, Nam- Bắc nên
Việt Nam có vị trí như cầu nối về nhiều mặt đối với các nước láng giềng và lãnh
thổ Việt Nam từ hàng ngàn đời nay đã là điểm hội tụ của nhiều nhóm người nói các
ngôn ngữ khác nhau với các đặc trưng văn hoá đa dạng và phong phú.
Sự đa dạng về tộc người, sự đan xen về địa bàn cư trú có căn nguyên lịch sử
của nó. Từ rất lâu đời, Việt Nam nằm trong khu vực hình thành con người hiện đại
homo sapiens, lại vừa là địa bàn đón nhận nhiều luồng di dân từ núi xuống, từ biển
vào, từ Nam lên, từ Tây và Bắc xuống. Những đợt di cư để tìm không gian sinh tồn

ấy kéo dài mãi cho đến trước Cách mạng tháng 8/1945, thậm chí có bộ phận cư
dân còn di cư vào Việt Nam ngay cả sau năm 1945. Ngoài ra, sự bùng nổ dân số ở
Tây Nam Trung Quốc, các luồng di dân lớn cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự
đa dạng về dân số ở Việt Nam. Cùng với sự xâm lược của các thế lực phong kiến
phương Bắc, các đợt di dân lúc ồ ạt, lúc lẻ tẻ cũng theo vào Việt Nam, kết quả là
Việt Nam và vùng Đông Nam Á là nơi tiếp nhận thường xuyên các luồng di dân,
làm cho sự phân bố dân cư vùng này thêm phức tạp, làm cho các tộc người bị xé
lẻ. Đó là nguyên nhân tại sao Việt Nam có một diện tích không lớn nhưng lại có 54
tộc người với 4 ngữ hệ khác nhau.
Một đặc điểm của quan hệ dân tộc ở Việt Nam là sự cư trú xen kẽ của các tộc
người trên địa bàn cả nước. Hầu như không có một nơi nào trên đất nước ta lại cư
trú chỉ thuần có một tộc người, mà ít nhất cũng từ hai tộc người trở lên. Tính chất
cư trú xen kẽ này thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết ở địa bàn cấp huyện, cấp xã, thậm
chí ở cấp độ làng bản.
Ở một quốc gia có nhiều tộc người như Việt Nam, quan hệ tộc người là loại
hình quan hệ xã hội tổng hợp. Quan hệ xã hội là môi trường tồn tại của các tộc
người khác nhau, là tổng hoà những mối quan hệ giữa các tộc người, bảo đảm cho
đời sống của các tộc người tồn tại và phát triển bình thường. Quan hệ tộc người ở
4


Việt Nam là sự phát triển mọi mặt của từng tộc người đi liền với sự củng cố, phát
triển của cộng đồng các dân tộc trên một quốc gia.
Các tộc người thuộc những vùng khác nhau ở Việt Nam, tuy ở những địa hình
khác nhau, ở những thang bậc phát triển khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ
trong quá trình lao động sản xuất và đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ chủ
quyền đất nước. Các tộc người Việt Nam không có lãnh thổ riêng, không có chế độ
chính trị riêng, cho nên quan hệ tộc người ở Việt Nam đồng thời mang tính chất
quan hệ xã hội rộng lớn. Các tộc người cùng nhau chung sống lâu đời, có chung
một vận mệnh lịch sử, cùng chung sự nghiệp nên đã nảy sinh một cách khách quan

những ràng buộc bền chặt.
Mặc dù các tộc người có dân số nhiều, ít khác nhau, trình độ phát triển xã hội
không đồng đều, nhưng có chung một tổ chức chính trị xã hội và chịu sự chi phối
của tổ chức đó. Cho dù trong nội bộ tộc người có thể có tổ chức riêng nhưng chịu
sự chi phối và điều hành của bộ máy chính quyền trung ương.
Do điều kiện địa hình và sự đa dạng của thiên nhiên, nên các tộc người nước
ta cư trú trên một lãnh thổ dài và hẹp, có nhiều tiểu vùng với những điều kiện thiên
nhiên, khí hậu khác nhau. Các tộc người cư trú ở mỗi vùng khác nhau như vậy lại
có nhưng cách ứng xử với thiên nhiên khác nhau và hình thành nên những phong
tục, tập quán khác nhau về canh tác, về kinh nghiệm sản xuất, về đời sống, quan hệ
xã hội, tâm lý, về văn hoá, lối sống...Hơn nữa, một lãnh thổ dài và hẹp, có diện tích
không rộng lắm, đa dạng về điều kiện tự nhiên, lại có hơn 50 dân tộc và các nhóm
địa phương khác nhau cư trú cho nên tính phong phú, đa dạng phức tạp, tính đặc
thù của mỗi dân tộc là tất yếu.
Do tính chất đa dạng về tộc người, đa dạng về thiên nhiên, khí hậu, đất đai
nên các bộ phận dân cư sống ở những vùng khác nhau bị chi phối mạnh mẽ, trực
tiếp bởi những điều kiện khó khăn, thuận lợi khác nhau, nên có trình độ phát triển
các mặt khác nhau.
Hiện nay, chênh lệch về nhiều mặt giữa các tộc người nước ta là một thực tế
không thể phủ nhận được. Chắc chắn thực tế này sẽ ảnh hưởng khá lớn đến quan
hệ giữa các tộc người. Khắc phục sự chênh lệch nhiều mặt này là không phải dễ
dàng. Đó là một mục tiêu nặng nề, lâu dài.
Nghiên cứu quan hệ tộc người ở Việt Nam, có thể nhận thấy trong các tộc
người nửa thế kỷ qua vừa có quá trình cố kết giữa các nhóm trong nội bộ tộc
5


người, vừa có quá trình đồng hoá tự nhiên của một bộ phận tộc người này với tộc
người khác và những quá trình trên diễn ra đồng thời. Quan trọng hơn cả là quá
trình cố kết và quá trình hòa hợp, mà trong đó quá trình hòa hợp là bao trùm (hòa

hợp giữa các tộc người thiểu số với nhau, giữa các tộc người thiểu số với tộc người
đa số), các tộc người Việt Nam có điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh quá trình này.
Về phương diện nhân chủng học, đại bộ phận các tộc người Việt Nam thuộc loại
hình nam Mônggôlôit. Về phương diện ngôn ngữ, trừ một số ít nói tiếng Tạng
Mianma, còn đại bộ phận các tộc người thuộc ngữ hệ lớn: Nam phương (bao gồm
hai ngữ hệ nhỏ Nam Á và Nam Đảo). Về mặt cư trú, chính sự cư trú xen kẽ rất
thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá và trao đổi hôn nhân. Về mặt phát triển
xã hội tuy ở các mức độ khác nhau, nhưng sự khác biệt không lớn.
Ở Việt Nam, do những yếu tố đặc thù, dân tộc Việt Nam có quá trình hình
thành không theo thông lệ như các dân tộc Tây Âu. Dân tộc Việt Nam đã hình
thành rất sớm và đã trở thành một quốc gia dân tộc thống nhất ngay dưới chế độ
phong kiến. Cho đến trước thế kỉ thứ XIX, quốc gia và dân tộc Việt Nam đã được
hình thành. Quốc gia - dân tộc đó gồm nhiều tộc người thiểu số tập hợp xung
quanh tộc người đa số là ngưòi Kinh (Việt). Dân tộc Việt Nam đã trải qua quá trình
hình thành với nhiều thử thách và ngày nay đang từng bước phát triển mạnh mẽ,
vững chắc. Dân tộc Việt Nam hình thành trên cơ sở kế thừa và phát huy những tinh
hoa của các tộc người đã chung đúc từ mấy ngàn năm lịch sử, trên cơ sở gắn bó về
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá.
Ở Việt Nam có 54 tộc người khác nhau. Tính phong phú về tộc người, đa
dạng về sắc thái văn hoá là sản phẩm tất yếu của lịch sử, nhưng là một sản phẩm
tích cực. Đây là điều kiện để tất cả các thành phần cư dân ở Việt Nam sớm tạo
thành một cộng đồng thống nhất - cộng đồng các tộc người - dân tộc Việt Nam.
Mặc dù chưa có sự chín muồi của các nhân tố kinh tế, nhưng do những điều kiện
đặc thù, nhân tố tộc người đã phát triển nhanh và hội nhập với các nhân tố kinh tế,
xã hội, dẫn đến sự xuất hiện dân tộc trước khi có chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển
của ý thức dân tộc, tình cảm dân tộc, sự cố kết của các thành viên trong cộng đồng
để tồn tại và phát triển đã tạo nên những động lực to lớn cho sự phát triển của xã
hội, cho sự hình thành dân tộc, củng cố thêm ý thức dân tộc.
Sự cố kết các thành viên trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam là yêu cầu
khách quan để họ đủ sức mạnh đấu tranh thắng lợi trong quá trình dựng nước và giữ

6


nước, trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên đầy thử thách và nạn ngoại xâm luôn
luôn đe doạ tới sự sống còn của các thành phần cư dân sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Cho nên, bất kì tộc người nào trên lãnh thổ Việt Nam, ngoài ý thức về tộc người
mình, họ còn ý thức sâu sắc về một cộng đồng các dân tộc Việt Nam thống nhất.
2.2. Những vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Trong thời gian qua, ngoài xu hướng tích cực, lành mạnh là chủ đạo, các mối
quan hệ dân tộc ở Việt Nam đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế - xã hội, trật tự an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh và đại
đoàn kết toàn dân tộc. Trong các vấn đề đó, có vấn đề không mới nhưng trong điều
kiện mới lại nảy sinh những phức tạp mới. Chẳng hạn, vấn đề đất đai hiện không
chỉ dừng lại ở việc tranh chấp địa giới mà còn là vấn đề thị trường giao dịch bất
động sản và quyền sở hữu của các chủ thể, nhất là vấn đề mua bán, chuyển
nhượng… Hay việc cố kết và mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ một số dân tộc,
hoặc giữa các dân tộc không chỉ nảy sinh từ các quan hệ kinh tế - xã hội mà còn do
tác động của việc chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang tôn giáo khác. Một
số nhóm tộc người đòi chia tách hoặc đổi tên thành tộc người riêng từ thành phần
tộc người đã được xác định; một số ít cá nhân đặt quan hệ đồng tộc, thân tộc lên
trên ý thức về chủ quyền lãnh thổ quốc gia ở vùng biên cương; các tranh chấp về
lao động, việc làm, các quan hệ kinh tế khác không chỉ diễn ra trong vùng mà còn
trở thành vấn đề xuyên/liên biên giới. Vấn đề hôn nhân hỗn hợp tộc người trong
nước, liên biên giới và xuyên quốc gia; việc xây dựng các trung tâm khoa học, tôn
giáo, văn hóa, kinh tế, chính trị của các tộc người mang tính liên/xuyên quốc gia…
đang là những vấn đề mới và nhạy cảm.
Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa các cộng đồng cùng và khác tộc sẽ ngày càng
chịu ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi thể chế kinh tế, của quá trình hội nhập
quốc tế. Quan hệ tộc người liên vùng, liên quốc gia giữa các cộng đồng tộc người ở
các tỉnh biên giới phía Bắc với các đồng tộc ở các tỉnh Tây Nguyên cũng như ở các

quốc gia khác sẽ ngày càng mở rộng và tăng cường trên nhiều lĩnh vực khác nhau
so với trước đây; một số dân tộc như H’mông, Dao, Hoa, Thái, Khơme và nhiều
tộc người khác hiện có quan hệ đồng tộc, thân tộc qua biên giới sẽ tiếp tục củng cố
và phát triển hơn nữa với tính chất, hình thức mới phức tạp, đa dạng hơn.
Những vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ dân tộc đối với từng vùng dân tộc
cụ thể như sau:
7


Vấn đề quan hệ tộc người ở miền núi miền Bắc nước ta được chú ý ở hai khía
cạnh. Thứ nhất là, quan hệ tộc người liên biên giới Việt - Trung ở vùng Đông Bắc
hiện nay. Các quan hệ này vốn mang tính lịch sử, điển hình nhất là mối quan hệ huyết
thống, quan hệ làm thuê và quan hệ hôn nhân. Thứ hai là, tác động của dự án tái định
cư thủy điện Sơn La tới các tộc người vùng Tây Bắc. Những tác động này được khảo
sát ở khía cạnh giao lưu và tiếp biến văn hóa của các tộc người trong vùng.
Ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên - Đông Nam Bộ, vấn đề quan hệ tộc người
được ghi nhận trên các phương diện: những biến đổi văn hóa của các tộc người, các
nguy cơ tiềm ẩn của mối quan hệ tộc người trong vùng, vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực người dân tộc thiểu số. Sự biến đổi văn hóa thông qua quá trình giao lưu văn hóa
của các tộc người thiểu số trong thời gian qua được cho là diễn ra mạnh mẽ, nhất là
giao lưu với người Việt. Sự giao lưu này xuất phát từ việc các tộc người sống đan
xen nhau. Bên cạnh điểm tích cực là giúp các tộc người thiểu số có thể hội nhập vào
sự phát triển chung của đất nước, hiện tượng giao lưu văn hóa cũng đặt ra nhiều lo
ngại về vấn đề bảo tồn văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu số trong vùng.
Đặc biệt khi quá trình phát triển đô thị diễn ra nhanh chóng, những chuyển biến về
văn hóa của các tộc người thiểu số cần được thảo luận và có cách ứng xử phù hợp
hơn. Riêng ở vùng Tây Nguyên, sự điều chỉnh chính sách quản lý và sử dụng đất
đai; sự xuất hiện ngày càng nhiều người Việt ở vùng dân tộc thiểu số dẫn đến các
tranh chấp về nguồn lợi cũng là chủ đề được quan tâm. Về vấn đề đào tạo nguồn
nhân lực, việc áp dụng các giải pháp để nâng cao trình độ học vấn và trình độ

chuyên môn kỹ thuật cho người dân tộc thiểu số phải đi liền với kế hoạch sử dụng
nguồn nhân lực được đào tạo. Bên cạnh đó, hiện tượng tiếp xúc, giao lưu ngôn ngữ
cũng là điểm đáng chú ý khi bàn về sự giao lưu văn hóa của các tộc người thiểu số,
nhất là vùng Tây Nguyên - vùng địa lý tiêu biểu cho sự giao lưu ngôn ngữ và văn
hóa. Trên cơ sở sự giao lưu này, chương trình đào tạo ở vùng dân tộc phải bao gồm
việc giáo dục song ngữ cho con em người dân tộc thiểu số, từ đó giúp đào tạo một
đội ngũ những người có trình độ phục vụ quá trình phát triển đất nước.
Ở Tây Nam Bộ, lịch sử khai thác, phát triển kinh tế của vùng cho thấy rằng văn
hóa vùng có tác động sâu sắc đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa vùng Đồng
bằng sông Cửu Long là một phức thể văn hóa nông nghiệp (lúa nước - miệt vườn,
…). Yếu tố “sông nước” của vùng đã tạo cho người Việt tại đây một “tư duy sông
nước” qua việc hình thành một hệ thống biểu tượng gắn với sông nước. Sự chung
8


sống hòa bình, cùng nhau chế ngự thiên nhiên và chiến đấu với kẻ thù xâm lược của
người Việt, Hoa, Khmer, Chăm đã hình thành nên đặc thù văn hóa của các tộc người
này ở vùng đất mới. Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa trên cơ sở kinh tế hàng
hóa sớm phát triển đã tạo nên những biến đổi, những nhân tố mới bên cạnh văn hóa
truyền thống của từng tộc người. Sự giao tiếp này tạo nên những yếu tố đồng nhất về
phương diện vật chất như nhà ở, trang phục, ăn uống giữa các tộc người. Quá trình
giao tiếp diễn ra không chỉ một chiều mà còn là “giao tiếp văn hóa đôi” (double
acculturation), tức là sự giao tiếp văn hóa theo hai chiều của hai tộc người. Hiện
tượng này diễn ra chủ yếu ở người Việt, Khmer và Hoa. Bên cạnh đó, sự hỗn dung
văn hóa giữa các tộc người trong các cộng đồng đa tộc người vùng Tây Nam Bộ
cũng là một đặc điểm riêng biệt. Thông qua mối quan hệ hôn nhân giữa các tộc
người, sự hỗn dung văn hóa ở đây diễn ra trên phạm vi hộ gia đình lẫn phạm vi cộng
đồng, biểu hiện qua sự tham gia thực hành nghi lễ trong gia đình hỗn hợp tộc người,
tham dự các lễ hội truyền thống trong cộng đồng đa tộc người; việc sử dụng song
ngữ hay tam ngữ. Bên cạnh văn hóa vùng, văn hóa tộc người cũng là yếu tố tác động

đến sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng tộc người. Đối với người
Khmer, việc sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế của họ thường được đánh giá
là ít hiệu quả. Nguyên nhân là do hạn chế từ trình độ dân trí, ảnh hưởng của phong
tục tập quán và tư tưởng Phật giáo Theravada, ít được tiếp cận vốn từ mạng lưới
chính thức của nhà nước. Đối với người Chăm Islam ở Tây Nam Bộ nói riêng và
Nam Bộ nói chung, tỷ lệ lao động trong lĩnh vực buôn bán dịch vụ chiếm đa số.
Hoạt động buôn bán dạo được xem là một tập quán kinh tế đặc thù và yếu tố tôn
giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc hình thành tập quán. Còn đối với người Hoa,
do có ưu thế trong các ngành thương mại, dịch vụ, giao thông vận tải, thường sống ở
những thành phố, thị xã, thị trấn nên họ nhanh chóng chiếm lĩnh một số ngành nghề
sản xuất của miền Nam, nhất là vào thập niên 1970. Ưu thế này một phần xuất phát
từ tâm lý kinh tế truyền thống giữ chữ tín, tập trung theo bang hội, đoàn kết hỗ trợ
nhau cùng phát triển,… Về quan hệ tộc người, hai vấn đề được lưu tâm là mối quan
hệ xuyên biên giới của người Chăm Islam Nam Bộ với khu vực và mối tương quan
giữa cơ chế quản lý xã hội truyền thống của người Khmer với việc thực hiện dân
chủ cơ sở ở nông thôn Khmer Nam Bộ. Về quan hệ của người Chăm Islam Nam Bộ
với các nước trong khu vực, cơ sở của mối quan hệ này được cho là bắt nguồn từ
quan hệ huyết thống, dòng tộc (như với cộng đồng Islam Campuchia), hoặc do cùng
9


tôn giáo hòa lẫn với quan hệ dòng tộc (như với cộng đồng Islam Malaysia) hoặc do
giao thiệp từ trước (Patani cũ, Thái Lan). Trong đó mối quan hệ với tín đồ Islam
thuộc nhóm Malaysia-Đa Đảo là thường xuyên và gắn bó nhất. Đối với người
Khmer ở vùng nông thôn Nam Bộ, việc thực hiện dân chủ cơ sở còn hạn chế. Trong
khi đó, cơ chế quản lý xã hội truyền thống vẫn còn giữ vị trí và vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội nông thôn Khmer hiện nay. Do đó, cần có sự dung hợp của cơ
chế hiện hành với cơ chế quản lý xã hội truyền thống của nông dân Khmer Nam Bộ
để thúc đẩy quá trình thực hiện dân chủ cơ sở.
3. Định hướng giải quyết các mối quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay

Một là, quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò, vị trí của vấn đề dân tộc,
chính sách dân tộc và quan hệ dân tộc - tộc người trong chiến lược phát triển của
cách mạng Việt Nam, nhất là trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Mọi chủ
trương, chính sách cũng như tổ chức chỉ đạo thực tiễn đều phục vụ mục tiêu nâng
cao ý thức quốc gia - dân tộc, bảo đảm cho sự phát triển hài hòa của từng tộc người
trong sự phát triển chung của đất nước. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục
nhân dân nhận thức đúng quyền lợi và nghĩa vụ của từng tộc người trong đại gia
đình các dân tộc Việt Nam, đấu tranh hiệu quả với các thế lực thù địch, âm mưu lợi
dụng vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
kích động tâm lý dân tộc cực đoan, cổ súy tư tưởng ly khai, chia tách dân tộc.
Hai là, nhất quán nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các tộc người nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xem đó là nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề dân tộc và quan hệ tộc
người ở Việt Nam hiện nay. Nguyên tắc này phải được quán triệt sâu sắc trong toàn
bộ hệ thống chính trị, được phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp dân cư và phải
được thực thi đầy đủ trong tất cả các lĩnh vực.
Ba là, hoàn thiện chính sách dân tộc. Chính sách phát triển các tộc người thiểu
số ở Việt Nam cần được hoạch định trên cơ sở nghiên cứu đầy đủ những đặc điểm tự
nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa truyền thống và hiện trạng phát triển mọi mặt đời
sống của các tộc người. Thực tế cho thấy, các tộc người thiểu số ở Việt Nam có xuất
phát điểm kinh tế - xã hội thấp, cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, quy mô sản xuất nhỏ,
nặng về trồng trọt, độc canh cây lúa, tự cung tự cấp, phương thức và tập quán sản
xuất còn lạc hậu. Cư dân các dân tộc thiểu số chủ yếu cư trú ở những địa bàn khó
10


khăn, hiểm trở, có nhiều khác biệt về ngôn ngữ, tập quán văn hóa, bị thua thiệt về cơ
hội phát triển… Do vậy, chủ trương, chính sách và mô hình phát triển cần phù hợp
với đặc điểm vùng, tộc người và nhu cầu thiết thực của người dân, tránh nóng vội,

áp đặt, duy ý chí. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới cùng các tộc
người thiểu số cần được hoạch định trong tổng thể chiến lược phát triển quốc gia nói
chung, phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân nói riêng.
Chính sách phát triển đối với các tộc người thiểu số cũng cần xuất phát từ nhu
cầu thực tiễn của bản thân các tộc người, trong đó đồng bào các dân tộc là chủ thể,
là trọng tâm của quá trình phát triển; tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa tộc
người; huy động được các nguồn lực từ cộng đồng nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu phát triển xã hội; tạo điều kiện, cơ hội cho các tộc người thiểu số nâng cao
năng lực, trao quyền lựa chọn và chủ động tham gia vào các hoạt động phát triển
cũng như được hưởng lợi từ các chính sách, chương trình đó.
Trong quá trình hoạch định chính sách, cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc rằng,
giải quyết vấn đề tộc người, quan hệ tộc người ở nước ta là một bộ phận hữu cơ
trong chiến lược phát triển tổng thể của quốc gia với chính sách trọng tâm là đẩy
mạnh việc phát triển toàn diện, bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Quan
điểm phát triển bền vững phải là quan điểm hạt nhân và là thước đo chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước. Sự phát triển phải dựa trên cơ sở: 1) Tôn trọng và quan
tâm sâu sắc lợi ích, chất lượng đời sống các tộc người; 2) Bảo vệ tính đa dạng văn
hóa các dân tộc; 3) Tạo được mối quan hệ đồng thuận cho phát triển và phát triển
bền vững; 4) Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên
nhiên và các rủi ro khác; 5) Nâng cao vai trò của cộng đồng các dân tộc thiểu số
và nội lực tộc người trong phát triển. Đồng thời, quan điểm giải quyết vấn đề dân
tộc, quan hệ tộc người cần đặt trong mối tương tác giữa chính trị, kinh tế - xã hội,
văn hóa, môi trường sinh thái và an ninh, quốc phòng. Ngoài ra, trong điều kiện
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, việc giải
quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo, hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc, tôn
giáo ở nước ta cần tính đến những tộc người có các mối quan hệ đồng tộc, thân tộc
ở nước ngoài, nhất là ở vùng biên giới thuộc các nước láng giềng.
Bốn là, một trong những hạn chế của công tác dân tộc ở Việt Nam chậm được
khắc phục là do công tác tổ chức chỉ đạo thực tiễn chưa hiệu quả. Mặc dù ở các địa
phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đã có các cơ quan chuyên

11


trách giải quyết, song hiệu quả hoạt động còn chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm
vụ. Trong quá trình tổ chức thực hiện, sự liên kết, phối hợp giữa các cơ quan, đơn
vị chưa đồng bộ, thiếu thống nhất. Ngoài những vấn đề trên, những tiêu cực nảy
sinh trong quá trình thực hiện chính sách cũng là một trong những nguyên nhân
hạn chế hiệu quả của chính sách. Vì vậy, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả tổ chức thực tiễn công tác dân tộc, tộc
người là đòi hỏi cần được quan tâm giải quyết.
Năm là, trong khi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đoàn kết các tộc người
trong nước, cần chủ động tranh thủ sự ủng hộ và đóng góp ngày càng nhiều của
kiều bào ta ở nước ngoài, đồng thời đấu tranh có hiệu quả với những mưu đồ lợi
dụng vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc vào thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch.

12


C. KẾT LUẬN
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, bao gồm 54 dân tộc anh em. Các dân tộc ở
Việt Nam có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, với mục
tiêu xây dựng một cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Các dân tộc sống xen kẽ
là chủ yếu, không có dân tộc nào có lãnh thổ riêng, nhưng có sự chênh lệch khá lớn
về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Các dân tộc thiểu số Việt Nam cư trú trên
một diện tích rộng lớn của đất nước (khoảng 3/4 diện tích), tập trung ở những vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Đây là những nơi có vị trí chiến lược quan
trọng, đặc biệt là về an ninh quốc phòng. Các dân tộc Việt Nam đều có bản sắc văn
hóa riêng, tạo nên sự thống nhất trong đa dạng văn hóa Việt Nam.
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách

mạng nước ta. Nhiều văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước đã nhấn mạnh tầm
quan trọng, vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc. Bởi vì, đây là
cơ sở để động viên nguồn lực con người, tài trí của tất cả các dân tộc; đảm bảo ổn
định chính trị - xã hội cho sự phát triển; thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước; vượt qua được những thách thức, tận dụng được thời cơ; quyết
định đến thành bại sự nghiệp cách mạng trước đây, hiện nay cũng như tương lai.
Mặc dù, các tộc người ở Việt Nam hiện nay, phát triển về mọi mặt, xu hướng
cố kết cộng đồng dân tộc được phát huy, tính thống nhất hữu cơ giữa các tộc người
trong quốc gia, dân tộc được củng cố, tăng cường. Tuy nhiên, trong bối cảnh chính
trị - xã hội thế giới diễn biến rất phức tạp như hiện nay, các thế lực thù địch đang
lợi dụng các đặc điểm trong quan hệ dân tộc - tộc người, nhất là lợi dụng tính nhạy
cảm của tâm lý dân tộc, tâm lý tôn giáo, những khó khăn trong đời sống của đồng
bào các dân tộc thiểu số nhằm kích động chia rẽ đoàn kết các dân tộc, thực hiện âm
mưu “diễn biến hòa bình”. Tình hình trên dẫn đến nhiều vấn đề về dân tộc, quan hệ
dân tộc phức tạp đòi hỏi phải được nghiên cứu, giải quyết một cách đúng đắn, phù
hợp, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề dân tộc vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Chính vì vậy, việc nhận thức đầy đủ về những vấn đề mới nảy sinh trong
quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa rất lớn và rất cần thiết nhằm góp
phần giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc cũng như hoạch định
và thực hiện tốt chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay./.
13



×