Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Giáo dục trung học cơ sở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh (1997 2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 104 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ VÂN

GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN QUẾ VÕ,
TỈNH BẮC NINH (1997- 2017)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ VÂN

GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN QUẾ VÕ,
TỈNH BẮC NINH (1997- 2017)
Ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 8 22 90 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Mỹ Hạnh

THÁI NGUYÊN - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn “Giáo dục Trung học cơ sở huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh (1997- 2017)” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, bảng
biểu, nguồn trích dẫn trong luận văn mang tính khoa học, trung thực. Những kết
luận của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Tác giả
Nguyễn Thị Vân

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình Cao học và hoàn thành luận văn Thạc sĩ, trước
hết, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa Lịch sử, phòng Sau đại học
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, đặc biệt là những thầy cô đã
trực tiếp đứng lớp giảng dạy cho tôi trong suốt thời gian qua.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến TS. Hoàng Thị Mỹ Hạnh
đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết, tận tình, chu đáo hướng dẫn và giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin cảm ơn Trường THCS Quế Tân- nơi
tôi đang công tác; HĐND, UBND huyện Quế Võ; Phòng Giáo dục và Đào tạo
huyện Quế Võ; Chi cục Thống kê huyện Quế Võ; cán bộ, nhân viên nơi tôi đến
lấy thông tin; các đồng nghiệp, người thân, bạn bè, đã cung cấp tư liệu, động viên
tôi hoàn thành luận văn này.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã cố gắng hết sức, song do trình độ
và thời gian còn hạn chế, nên luận văn còn nhiều thiếu sót. Tác giả kính mong
nhận được sự đóng góp của thầy, cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Tác giả
Nguyễn Thị Vân


ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC............................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................ iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ..................................................................................... v
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ..................................... 6
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 7
6. Kết cấu của Luận văn ...................................................................................... 9
Chương 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH GIÁO DỤC HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH
BẮC NINH TRƯỚC NĂM 1997 ........................................................................ 10

1.1. Vài nét về huyện Quế Võ ........................................................................... 10
1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và dân cư ............................................... 10
1.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ........................................................... 12
1.2. Khái quát tình hình giáo dục huyện Quế Võ trước năm 1997 ................... 19
1.2.1. Tình hình giáo dục huyện Quế Võ trước cách mạng tháng Tám năm 1945.... 19
1.2.2. Tình hình giáo dục huyện Quế Võ từ năm 1945 đến năm 1996 ............. 20
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 28
Chương 2: TÌNH HÌNH GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ HUYỆN QUẾ
VÕ, TỈNH BẮC NINH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2017 ................................... 30

2.1. Chủ trương đổi mới giáo dục của Ban chấp hành Trung ương, Đảng bộ

tỉnh Bắc Ninh và sự vận dụng của huyện Quế Võ .................................. 30
2.2. Giáo dục Trung học cơ sở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh giai đoạn
1997- 2017 ............................................................................................... 42
2.2.1. Mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất trường học.................................... 42
2.2.2. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh........................................ 46

iii


2.2.3. Các hoạt động giáo dục ........................................................................... 57
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 65
Chương 3: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH GIÁO DỤC TRUNG
HỌC CƠ SỞ HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH (1997- 2017) ..................... 68

3.1. Những thành tựu đạt được .......................................................................... 68
3.2. Những tồn tại cần khắc phục ...................................................................... 75
3.3. Bài học kinh nghiệm ................................................................................... 77
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 79
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 85
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 90

iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Chữ đầy đủ


Chữ viết tắt

1

BCH

Ban chấp hành

2

CBQL

Cán bộ quản lý

3



Cao đẳng

4

CNTT

Công nghệ thông tin

5

CNXH


Chủ nghĩa xã hội

6

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa

7

CT

Chỉ thị

8

ĐH

Đại học

9

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

10

HĐND


Hội đồng nhân dân

11

HS

Học sinh

12

NQ

Nghị quyết

13

NXB

Nhà xuất bản

14

SGK

Sách giáo khoa

15

TB


Trung bình

16

TS

Tổng số

17

TW

Trung ương

18

THCS

Trung học cơ sở

19

THPT

Trung học phổ thông

20

UBND


Ủy ban nhân dân

21

USD

Đồng đô la Mỹ

22

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1.

Số lượng lớp học, giáo viên, học sinh của các cấp học năm
1961- 1962................................................................................... 23

Bảng 2.1.

Số trường, lớp giáo dục THCS huyện Quế Võ (1997- 2017) ..... 44

Bảng 2.2.

Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý THCS (1997- 2017) ............ 46


Bảng 2.3.

Sự phát triển số lượng giáo viên THCS giai đoạn (1997- 2017)......... 50

Bảng 2.4.

Sự phát triển số lượng học sinh giai đoạn 1997- 2017 ............... 55

Bảng 2.5.

Bảng thống kê xếp loại học sinh lớp 9 tốt nghiệp 2013- 2017............ 57

Bảng 2.6.

Tổng hợp kết quả xếp loại hạnh kiểm bậc THCS (1997- 2017) ...... 58

Bảng 2.7.

Tổng hợp kết quả xếp loại học lực THCS của học sinh (19972017) ............................................................................................ 60

v


Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh- huyện Quế Võ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Trải qua hàng ngàn

năm lịch sử, truyền thống đó vẫn được giữ vững, tạo nên một nền văn hiến đậm
đà bản sắc dân tộc của Việt Nam. Trong sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ và xây dựng
đất nước, giáo dục có vai trò hết sức quan trọng, góp phần không nhỏ cho sự
thắng lợi của cách mạng nước nhà.
Nằm trong tỉnh Bắc Ninh, Quế Võ vốn là vùng đất giàu truyền thống. Nơi
đây là quê hương của bao thế hệ con người cần cù sáng tạo trong lao động, kiên
cường trong đấu tranh. Thời phong kiến, Quế Võ đã đóng góp cho đất nước 61
vị đại khoa, hàng chục thượng thư, nhiều trạng nguyên và cả một “Làng tiến sĩ”
Kim Đôi. Quế Võ tự hào là một trong những huyện cung cấp đội ngũ nhân tài
cho Quốc gia.
Năm 1986, tại Đại hội VI của Đảng, lần đầu tiên đường lối đổi mới được
đề ra. Đối với giáo dục, Đảng ta xác định: “Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành
và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội
ngũ lao động có kỹ thuật đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công
lao động của xã hội”.
Trong Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục xác định:
“Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài”. Đến Đại hội Đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và
đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, là điều kiện phát huy nguồn lực con người”.
Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, thế giới đang chứng kiến
những biến đổi sâu sắc về mọi mặt. Các cuộc cách mạng công nghiệp nối tiếp
nhau ra đời, kinh tế tri thức phát triển mạnh đem lại cơ hội phát triển vượt bậc,
đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với mỗi quốc gia, nhất là

1


các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Mặt khác, những biến đổi về khí

hậu, tình trạng cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái
và những biến động về chính trị, xã hội cũng đặt ra những thách thức có tính toàn
cầu. Để bảo đảm phát triển bền vững, nhiều quốc gia đã không ngừng đổi mới
giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho các thế hệ tương
lai nền tảng văn hóa vững chắc và năng lực thích ứng cao trước mọi biến động
của thiên nhiên và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục phổ thông, giáo dục Trung học cơ sở có vị trí rất quan
trọng. Đây là cầu nối giữa giáo dục tiểu học với giáo dục phổ thông, được thực hiện
trong bốn năm từ lớp 6 đến lớp 9. Do đặc điểm tâm, sinh lý ở độ tuổi vị thành niên
rất phức tạp cho nên việc giáo dục học sinh ở cấp Trung học cơ sở có vai trò hết sức
quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, trau dồi đạo đức làm cơ sở cho việc phân
luồng học sinh sau khi tốt nghiệp cấp Trung học cơ sở.
Nhận thức được vị trí, vai trò hết sức quan trọng của bậc học, trong những
năm qua ngành giáo dục đã không ngừng đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng
dạy và học của cấp Trung học cơ sở.
Thực hiện theo các chủ trương, Nghị quyết của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
huyện Quế Võ đã không ngừng cố gắng, phát triển giáo dục trên địa bàn huyện
và đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, sự nghiệp giáo dục của huyện
còn bộc lộ nhiều hạn chế và tồn tại: cơ sở vật chất, năng lực chuyên môn của
giáo viên, chất lượng giáo dục của các trường... Đây là những vấn đề cấp thiết
đặt ra cho ngành giáo dục của huyện, đòi hỏi phải đánh giá đúng chất lượng các
cấp học trong huyện, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp, khắc phục những
khuyết điểm, nâng cao chất lượng giáo dục trong huyện nói chung, giáo dục
Trung học cơ sở nói riêng, để phù hợp với yêu cầu đổi mới của Đảng đã đặt ra.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn hướng nghiên cứu: “Giáo dục Trung
học cơ sở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh (1997- 2017)” làm luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2



Từ sau ngày đất nước được độc lập, mặc dù Đảng ta nhấn mạnh tới việc
phát triển về kinh tế, nhưng bên cạnh đó, lĩnh vực giáo dục cũng được Đảng quan
tâm, chú trọng.
Cuốn “Tổng kết giáo dục 10 năm (1975 - 1985)” của Bộ Giáo dục và Đào
tạo do Nxb Giáo dục ban hành năm 1986, đã tiến hành tổng kết công tác giáo
dục 10 năm sau ngày giải phóng và đưa ra những phân tích, đánh giá, nhận xét
khái quát về giáo dục Việt Nam trong giai đoạn này, trong đó có đề cập đến giáo
dục bậc THCS.
“Các định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo từ nay đến năm
2020”, Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995). Cuốn sách đã nêu ra những chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông
nói riêng trong thời kì đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
“50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo” (1945 - 1995), Nxb
Giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995). Trong cuốn sách này, tác giả đã khái
quát về bức tranh giáo dục Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1995. Cuốn sách đã
cung cấp những tài liệu cơ bản về đường lối, chính sách và tình hình phát triển
giáo dục phổ thông và những đánh giá, nhận xét về giáo dục Việt Nam trong giai
đoạn này.
“Các chủ trương đổi mới giáo dục trong mười năm” (1986 - 1996), Bộ Giáo
dục và Đào tạo (1996). Cuốn sách đã đề cập một cách đầy đủ, hệ thống những
quan điểm cơ bản về đường lối đổi mới, chính sách phát triển giáo dục của Đảng,
trong đó có đổi mới giáo dục phổ thông.
“Tổng kết đánh giá mười năm đổi mới giáo dục - đào tạo” (1986 - 1996),
Bộ Giáo dục và Đào tạo (1996). Cuốn sách đã nêu ra những chủ trương, chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc
học, trong đó có đề cập đến tình hình giáo dục bậc THCS ở Việt Nam. Mặc dù
tác giả không đi sâu phân tích những thành tựu đạt được và những tồn tại hạn


3


chế sau 10 năm đổi mới của một địa phương cụ thể, nhưng cuốn sách đã cung
cấp những nhận định, những kết luận mang tính khái quát, nhất là những số liệu
thống kê về tình hình giáo dục phổ thông ở Việt Nam trong 10 năm đầu kể từ khi
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
“Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI”, Phạm Minh Hạc, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1998). Cuốn sách đã trình bày tính chất của
nền giáo dục, nguyên lý, nội dung hệ thống giáo dục của Việt Nam, mối quan hệ
giữa giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Qua đó, tác giả đã nêu ra những
phương hướng để phát triển giáo dục ở Việt Nam, trong đó có giáo dục bậc
THCS.
“Nhân tố mới về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”, Phạm Minh Hạc (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội (2002). Tài liệu này đã làm nổi bật được những chuyển biến tích cực
về chất lượng dạy và học. Từ đó xuất hiện những nhân tố mới, những kinh
nghiệm hữu ích để góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới giáo dục và
đào tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
“Một số kinh nghiệm về giáo dục phổ thông và hướng nghiệp trên thế giới”,
Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội (2004). Ở tác
phẩm này, các tác giả đã khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục phổ thông
đối với mỗi quốc gia, dân tộc và nhấn mạnh trong bối cảnh hiện nay, giáo dục
phổ thông có tầm quan trọng ngày càng lớn trong hệ thống giáo dục quốc dân và
cần tăng cường hiệu quả giáo dục hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông.
Cuốn “Lịch sử giáo dục Việt Nam” của TS. Bùi Minh Hiền biên soạn và
được phát hành năm 2004. Trong cuốn sách này, tác giả đã viết một cách sơ lược
về lịch sử giáo dục Việt Nam nhằm phục vụ cho sinh viên các trường Đại học và
Cao đẳng sư phạm. Mặc dù không phải là quyển sách viết riêng về giáo dục

THCS nhưng ta có thể chọn lọc ra những phần liên quan đến giáo dục THCS giai
đoạn 1975 - 2000.

4


Cuốn “Giáo dục Việt Nam 1945- 2005”, hội Khoa học Kinh tế Việt NamTrung tâm Thông tin và Tư vấn phát triển và tạp chí Thế giới mới- Bộ Giáo dục
và Đào tạo Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2005) đã nêu rõ lịch sử
hình thành và phát triển của nền giáo dục Việt Nam nói chung và quá trình phát
triển giáo dục của các tỉnh, thành phố nói riêng.
Khóa luận tốt nghiệp “Giáo dục phổ thông huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang
(1997 - 2016)” Ngô Thị Thương (2018) làm rõ tình hình giáo dục phổ thông
huyện Hiệp Hòa giai đoạn 1997 – 2016, những thành tựu và hạn chế của ngành
giáo dục huyện Hiệp Hòa. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình
phát triển giáo dục của huyện.
Luận văn “Giáo dục Trung học cơ sở huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La (19862013)” Đặng Văn Hiệu (2015) đã khôi phục và dựng lại bức tranh giáo dục Trung
học cơ sở của huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La thời kỳ 1986- 2013, những kết quả
giáo dục THCS đã làm được, những tồn tại cần khắc phục, từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm, phục vụ cho ngành giáo dục của huyện trong những giai đoạn
tiếp theo.
Luận văn “Giáo dục phổ thông Việt Nam 1986- 2000” Trần Thị Nhung
(2016) đã phục dựng lại một cách có hệ thống những chuyển biến quan trọng của
hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam từ 1986 đến năm 2000.
Cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Quế Võ 1930- 2003” của Ban chấp hành
Đảng bộ huyện Quế Võ, được phát hành vào năm 2004 đã khái quát vị trí địa lý,
tên gọi của huyện Quế Võ qua các thời kỳ; quá trình đấu tranh chống xâm lược
của nhân dân Quế Võ và những thành tựu mà nhân dân đạt được qua các giai
đoạn, trong đó có lĩnh vực giáo dục.
Cuốn “Lịch sử Giáo dục Bắc Ninh 1945- 2015” của Sở Giáo dục và Đào
tạo Bắc Ninh (2015) đã ghi lại quá trình phát triển và những đóng góp của ngành

giáo dục trong việc phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh trong 60 năm từ 1945 đến
2015.

5


Đây là nguồn tài liệu tham khảo quý giá giúp cho tôi hoàn thiện luận văn
của mình. Mặc dù những công trình trên tuy không viết riêng về giáo dục THCS
nhưng ít nhiều cung cấp cho người đọc những thông tin, những nhận định chung
về tình hình giáo dục - đào tạo của Việt Nam, những thành tựu, hạn chế cũng
như các phương pháp nghiên cứu về giáo dục Việt Nam. Từ đó, tạo cơ sở cho
việc nghiên cứu quá trình phát triển giáo dục THCS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
Ninh (1997- 2017).
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình phát triển giáo dục Trung
học cơ sở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh (1997- 2017).
3.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình giáo dục huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
(1997- 2017). Từ đó phát huy những mặt tích cực và đề ra các biện pháp, giải
pháp khắc phục kịp thời những mặt yếu kém.
3.3. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung nghiên cứu nhiệm vụ:
Khôi phục và dựng lại bức tranh giáo dục THCS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
Ninh giai đoạn trước năm 1997 và trong giai đoạn 1997- 2017.
Trình bày những kết quả mà giáo dục THCS huyện Quế Võ đã đạt được,
những tác động ̣ của tình hình kinh tế - xã hội của huyện đối với sự nghiệp giáo
dục nói chung và giáo dục THCS nói riêng cũng như tác động của sự nghiệp giáo
dục đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.
Trên cơ sở đó, đề tài rút ra những bài học kinh nghiệm để kịp thời khắc

phục những tồn tại, yếu kém, từ đó, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục của huyện trong
giai đoạn tiếp theo.

6


Qua nghiên cứu, đề tài bước đầu kiến nghị một số giải pháp nhằm thực hiện
hiệu quả hơn nữa mục tiêu phát triển giáo dục THCS huyện Quế Võ trong tương
lai.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Giai đoạn 1997- 2017. Đây là giai đoạn tái lập tỉnh Bắc Ninh cho
tới nay, trong đó có huyện Quế Võ (trước là Quế Dương và Võ Giàng).
Không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình giáo dục THCS huyện
Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Về nội dung: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu về cấp THCS do Phòng Giáo
dục - Đào tạo Quế Võ trực tiếp quản lý.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để nghiên cứu luận văn, tác giả chủ yếu sử dụng nguồn tư liệu thành văn:
bao gồm văn kiện Đại hội Đảng, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo
đã được công bố, xuất bản của các tác giả trong và ngoài nước; Các tài liệu lưu
trữ qua các năm: gồm báo cáo thống kê của các Sở, các phòng ban: Phòng Giáo
dục và Đào tạo, Chi cục thống kê... Nguồn tư liệu trên Internet được tác giả chọn
lọc và xác minh nghiêm túc để có thể sử dụng vào làm rõ các vấn đề mà luận văn
đưa ra.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử
và phương pháp logic kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê để giải quyết những vấn đề mà luận văn đưa ra.
Phương pháp lịch sử nhằm khôi phục, tái hiện trung thực lại một cách có hệ

thống về các mặt hoạt động của giáo dục trung học cơ sở huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh đúng theo trình tự thời gian. Thông qua nghiên cứu các tài liệu sẵn có
để phục dựng lại toàn cảnh bức tranh 20 năm giáo dục trung học cơ sở huyện
Quế Võ (1997- 2017).

7


Phương pháp lôgic nhằm nghiên cứu tổng quát quá trình hình thành và phát
triển giáo dục trung học cơ sở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh (1997- 2017), từ đó
thấy được bản chất, tính tất yếu và quy luật vận động phát triển khách quan của
sự nghiệp giáo dục huyện Quế Võ nói chung và giáo dục THCS của huyện nói
riêng. Đồng thời, rút ra những nhận xét, đánh giá, bài học kinh nghiệm cho giáo
dục THCS huyện Quế Võ giai đoạn 1997- 2017.
Ngoài ra, để có được kết quả nghiên cứu thuyết phục và khách quan, đề tài
còn sử dụng kết hợp khá linh hoạt một số phương pháp nghiên cứu khác như:
thống kê, đối chiếu, so sánh để thấy được quá trình phát triển của giáo dục THCS
ở huyện Quế Võ, phương pháp phân tích, tổng hợp để thấy được mối liên hệ và
tác động qua lại giữa giáo dục THCS với tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn
huyện.
5. Đóng góp của Luận văn
5.1. Về lý luận
Luận văn đã tập hợp, hệ thống những tài liệu cơ bản, đáng tin cậy để dựng
lại bức tranh toàn cảnh về giáo dục Trung học cơ sở ở huyện Quế Võ trong thời
kỳ đổi mới.
Luận văn còn góp phần giáo dục ý thức trách nhiệm của cán bộ Đảng viên
và nhân dân trong việc thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục nhằm phát huy
những thành tựu đã đạt được để không ngừng chăm lo, phát triển sự nghiệp giáo
dục ở tất cả các xã trên địa bàn huyện trước mắt cũng như lâu dài.
5.2. Về thực tiễn

Đánh giá những thành tựu cũng như những hạn chế của giáo dục Trung học
cơ sở huyện Quế Võ trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2017. Đề xuất một số
giải pháp nhằm phát triển hơn nữa sự nghiệp giáo dục ở huyện Quế Võ trong giai
đoạn hiện nay.
Luận văn sẽ bổ sung nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, biên soạn,
giảng dạy lịch sử địa phương ở các trường Trung học cơ sở, Trung học phổ thông
trên địa bàn huyện Quế Võ.

8


6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát tình hình giáo dục của huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
trước năm 1997
Chương 2: Tình hình giáo dục THCS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh từ năm
1997 đến năm 2017
Chương 3: Một số đánh giá về tình hình giáo dục THCS huyện Quế Võ,
tỉnh Bắc Ninh 1997- 2017

9


Chương 1
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH GIÁO DỤC HUYỆN QUẾ VÕ,
TỈNH BẮC NINH TRƯỚC NĂM 1997

1.1. Vài nét về huyện Quế Võ
1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và dân cư

Huyện Quế Võ nằm ở phía đông tỉnh Bắc Ninh, có diện tích 170,6 km2
thuộc khu vực đồng bằng châu thổ Bắc Bộ rộng lớn. Phía Bắc và Đông Bắc tiếp
giáp với Việt Yên, Yên Dũng (Bắc Giang); phía Đông tiếp giáp với Chí Linh
(Hải Dương); phía Nam tiếp giáp với huyện Gia Bình và Thuận Thành; phía Tây
và Tây Nam giáp với huyện Tiên Du và thị xã Bắc Ninh.
Quế Võ là huyện đồng bằng có nhiều đồi gò. Trải qua quá trình chuyển
động địa chất và sự xâm lược bào mòn kết hợp với sự biến đổi về dòng chảy của
các hệ thống sông ngòi, cấu tạo thổ nhưỡng của Quế Võ là loại phù sa tương đối
điển hình còn sót lại nhiều tàn dư của các thềm kiến trúc cao thấp khác nhau.
Được phân chia thành 8 loại: đất phù sa được bồi tụ hàng năm; đất phù sa được
bồi tụ hàng năm thường chua,; đất phù sa không được bồi tụ hàng năm; đất phù
sa ngập nước quanh năm; đất phù sa cổ; đất feralit vàng đỏ; đất cát gio; đất cồn
cát, bãi cát.
Khí hậu nơi đây mang đầy đủ yếu tố của một khu vực nhiệt đới nóng ẩm,
có mùa đông khá lạnh. Một năm có khoảng 1.750- 1.800 giờ nắng, nhiệt độ trung
bình từ 22- 240C, và có khoảng trên 9 tháng có nhiệt độ cao hơn 200C. Mỗi tháng
mùa hè, lượng tích nhiệt đều cao hơn 8000C, mỗi tháng mùa đông cũng trên
5000C, do đó cả năm trên 85000C. Có tới 6 tháng trong năm có mưa, lượng mưa
mỗi tháng trên 100mm và cả năm là 1.580- 2.500 mm với 10 ngày có mưa. Các
nhiễu động thời tiết- khí hậu thường xảy ra về mùa hè, có nhiều loại thời tiết cho
lượng mưa phong phú, song phân bố không đều do ảnh hưởng của địa hình, nhiều
khi đang từ oi nồng bỗng chuyển sang những ngày mát dịu. Mùa đông xen kẽ

10


những ngày giá buốt, khô hanh thường có những ngày nắng ấm hoặc nồm ẩm có
nhiệt độ khá cao.
Hướng gió chủ đạo trong năm được phân chia theo 2 mùa: mùa hè là hướng
gió đông nam thổi từ tháng 4 đến tháng 10; mùa đông là hướng gió đông bắc,

thổi từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Ngoài ra, huyện Quế Võ còn có thể bị ảnh
hưởng bởi bão tố kèm theo mưa lớn gây ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống con
người.
Huyện Quế Võ được thành lập vào tháng 8/1961 trên cơ sở sáp nhập 2 huyện
Quế Dương và Võ Giàng của tỉnh Bắc Ninh. Huyện Quế Dương xưa kia là đất
thuộc châu Vũ Ninh, có thời mang tên là huyện Từ Sơn. Đến thời Lê Quang
Thuận (1460- 1469), đổi lại gọi là huyện Quế Dương thuộc phủ Từ Sơ. Huyện
Võ Giàng thời Trần có tên là huyện Vũ Ninh. Nhưng tới năm 1553 đổi thành Võ
Giàng để tránh trên húy của vua Lê Trang Tông.
Khi mới hợp nhất, huyện Quế Võ gồm có 24 xã: Bằng An, Bồng Lai, Cách
Bi, Châu Phong, Chi Lăng, Cộng Lạc, Đại Phúc, Đại Xuân, Đức Long, Đức
Thành, Hán Quảng, Kim Chân, Mộ Đạo, Nam Sơn, Ngọc Xá, Nhân Hòa, Phù
Lãng, Phù Lương, Phượng Mao, Quốc Tuấn, Tân Dân, Vân Dương, Việt Hùng,
Việt Thống. Riêng xã Võ Cường được tách về huyện Tiên Sơn, từ năm 1985
chuyển về trực thuộc thị xã Bắc Ninh (nay là phường Võ Cường, thành phố Bắc
Ninh).
Hiện nay, huyện Quế Võ có 20 xã và 1 thị trấn. Qua các thời kỳ lịch sử, các
địa danh làng xã có tên gọi như sau: Bằng An, Bồng Lai, Cách Bi, Châu Phong,
Chi Lăng, Đại Xuân, Đào Viên, Đức Long, Hán Quảng, Mộ Đạo, Ngọc Xá, Nhân
Hòa, Phù Lãng, Phù Lương, Phương Liễu, Phượng Mao, Quế Tân, Việt Hùng,
Việt Thống, Yên Giả và thị trấn Phố Mới.
Để có thể hình thành huyện được như ngày nay, biết bao thế hệ cha ông đã
phải đổ mồ hôi xương máu, xây đắp, giữ gìn. Mỗi tên làng, tên núi, tên sông đều
mang đậm dấu ấn của các sự kiện lịch sử. Từ đó đã bồi đắp lên tình yêu quê
hương đất nước, tình yêu cuộc sống, con người.

11


Về dân cư, ngay từ thời Hùng Vương, Quế Võ đã có con người cư trú với

mật độ khá đông. Trống đồng Quế Tân là dấu vết vật chất còn lại đã khẳng định
điều đó. Mặc dù mật độ dân số đông, song mật độ quần cư ở Quế Võ mỗi vùng
một khác. Đông đúc nhất là các xã Đại Xuân, Việt Thống, Kim Chân, Nhân Hòa
ngày nay. Tiếp đó là các xã ven sông Đuống: Chi Lăng, Bồng Lai, Hán Quảng,
Mộ Đạo; rồi đến các xã: Bằng An, Việt Hùng, Phượng Mao, Quế Tân, Phương
Liễu; và thưa thớt hơn cả là các xã: Nam Sơn, Yên Giả, Vân Dương.
Cũng như các làng xã khác của người Việt, cư dân trong các lãng xã thuộc
huyện Quế Võ có mối quan hệ gần như khép kín trong các lũy tre làng. Quan hệ
huyết thống - dòng họ, cách kết cấu theo kiểu ngõ xóm, phe giáp đã gắn bó chặt
chẽ các thành viên của làng xã với nhau hơn. Giáp đứng ra quản tất cả các hoạt
động của làng xóm, từ phù sinh tống tử, quản nhân đinh đến phân cấp công điền,
công thổ. Giáp tập hợp vài họ và một làng có ít nhất 2 giáp trở lên.
Có thể nói, làng xã là nơi nuôi dưỡng lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường,
truyền thống bất khuất, tạo nên nguồn sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm
lược, là cơ sở nền tảng của văn hóa, văn minh Việt Nam. Đồng thời, làng xã còn
là nơi sinh thành, là trường hoạt động, là nơi mỗi người dân Việt Nam gắn bó cả
cuộc đời. Quế Võ là một huyện nông nghiệp, cho nên làng xã vừa có ưu thế lớn
những cũng có những hạn chế nhất định. Đây là tiền đề quan trọng tạo nên tính
cộng đồng cho người nông dân Việt Nam nói chung, nông dân Quế Võ nói riêng.
Tính đến năm 2014, dân số Quế Võ có 154.469 người với mật độ trung bình
912 người/km2. Nhìn chung, Quế Võ là khu vực có tỷ lệ tăng trưởng dân số cao
và thuộc địa phương đất chật người đông.
1.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nông nghiệp trồng lúa nước vẫn được coi là
ngành kinh tế chính của địa phương. Ngoài lúa tẻ, lúa nếp, cư dân ở đây còn trồng
thêm các loại kê, ngô, đậu đen, đậu trắng, đậu vàng, đậu xanh cùng các loại khoai,
vừng.

12



Với việc phát hiện trống đồng Quế Tân, cho thấy từ xa xưa nơi đây đã là
một khu vực quần cư đông đúc với trình độ phát triển kinh tế cao. Những biểu
tượng trên trống đồng chứng tỏ nền văn minh lúa nước đã sớm phát triển và trở
thành nền kinh tế chính của Quế Dương và Võ Giàng.
Ngay từ sớm, người dân nơi đây đã biết tới kĩ thuật canh tác theo nước triều
lên xuống, cày bằng dao, đốt cỏ bằng lửa đến định ra được lịch thời vụ, phân đôi
ra hai vụ chiêm và vụ mùa, tạo ra các biện pháp thâm canh, phòng lụt, chống
hạn. Ngoài ra, họ cũng biết tìm ra các loại lúa phù hợp với vùng đất nơi đây: tám
xoan, tám thơm, gié lùn, nếp cái, nếp chiêm...
Khi nói tới nông nghiệp trồng lúa nước, không thể nào thiếu được yếu tố quan
trọng, đó là công cuộc trị thủy, thủy lợi. Trong sách Bắc Ninh tỉnh địa dư có đề cập
tới trên sông Cầu, Võ Giàng có tới 5.344 trượng đê điều (hơn 25km). Lại thêm hàng
ngàn trượng đê trên các khe ngòi nội đồng thuộc Quế Dương chạy qua Lãm Sơn
Dương, Nga Hoàng, Lãm Sơn Nam, Chu Mẫu, Vân Mỗi, Vân Mẫu, La Miệt. Ở
phạm vi huyện Võ Giàng, đê nội đồng cũng có trên 4000 trượng.
Bên cạnh nghề nông trồng lúa nước, cư dân ở đây còn biết tới nghề đánh
cá. Họ thả lưới đánh cá trên các con sông Cầu, sông Đuống, các kênh rạch chạy
ngang dọc khắp nơi. Hầu hết các ao hồ được sử dụng để thả.
Nghề làm vườn vốn xuất hiện từ rất sớm vẫn được duy trì và ngày càng phát
triển. Vùng đất Phả Lại, Châu Cầu hay các làng ven núi Dạm là những nơi có
nghề làm vườn rất phát triển. Ở đây, ta có thể bắt gặp rất nhiều loại cây ăn quả:
mít, bưởi, chanh, vải, một số làng còn trồng dâu nuôi tằm.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm chưa trở thành một nghề. Công việc này bị xé
nhỏ cho từng hộ gia đình. Tuy nhiên, việc chăn nuôi cũng mang lại những tác
động tích cực với cuộc sống cư dân trong huyện. Chăn nuôi gia súc, gia cầm vừa
cung cấp thịt, sức kéo và nhất là phân bón cho đồng ruộng, vừa triệt để tận dụng
được lương thực, thực phẩm hàng ngày. Đây là những bộ phận hữu cơ không thể
thiếu của kinh tế gia đình người nông dân.


13


Như vậy, kinh tế nông nghiệp của huyện Quế Võ từ ngàn đời nay là sự kết
hợp chặt chẽ hữu cơ giữa nghề trồng lúa nước trên cánh đồng với vườn, ao,
chuồng trại trong khuôn viên gia đình. Nhưng phải khẳng định rằng nghề trồng
lúa nước vẫn là ngành nông nghiệp chính, là cơ sở nền tảng cho các ngành, nghề
khác phát triển.
Mặc dù mặt đông và mặt nam của huyện có hai sông lớn, song thời phong
kiến hoạt động buôn bán và thủ công ít phát triển. Trừ bến Đáp Cầu, trên giang
phận của huyện chỉ có ba bến: Yên Ngô, Bằng Lâm, Phả Lại. Hệ thống đường
bộ ở đây ít thuận tiện vì không phải tuyến chính trong mạng lưới thông thương.
Do hệ thống giao thông thủy bộ không thuận lợi nên hoạt động buôn bán của cư
dân Quế Võ chủ yếu tập trung vào hệ thống chợ vùng, chợ làng, chợ chùa.
Ở Quế Võ có khá nhiều chợ vùng. Chợ vùng thu hút được nhiều tiểu
thương, người dân về đây mua bán. Tiêu biểu có các chợ: chợ Đình Kim (Bãi
Chợ Thông), chợ Phù Lãng, chợ Dùng (Phù Lương), chợ Nội Roi, chợ Chì
(Vũ Dương), chợ Đông Du, chợ Phủ, chợ Phả Lại, chợ Thị Cầu.
Sự tồn tại và phát triển của hệ thống chợ vùng, chợ làng, chợ chùa chứng tỏ
nền kinh tế hàng hóa đã từng bước phát triển, muốn phá vỡ nền kinh tế tiểu nông
khép kín từ lâu đời tồn tại ở vùng quê Quế Võ. Tuy nhiên, có một thực tế là người
dân dường như vẫn bằng lòng với nền kinh tế hàng hóa giản đơn vốn được nền
kinh tế tiểu nông sinh ra.
Trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước sớm được hình thành và
phát triển, thủ công nghiệp cũng sớm được ra đời phát triển. Ở huyện Quế Võ
tiêu biểu có nghề rèn sắt và nghề gốm.
Đối với nghề rèn sắt, sách Đại Nam nhất thống chí cho biết: “Xã Thị Cầu có
nghề đúc xích sắt”. Sách Bắc Ninh tỉnh chí cũng cho biết: “Hai xã Việt Vân, Xuân
Lôi của huyện Võ Giàng có nhiều thợ đúc chì, hàng năm xã Việt Vân có lễ nộp
thuế sản vật là sắt chín. Xã Phù Lãng chế nặn các đồ dùng bằng đất như chậu đất,

chĩnh đất. Xã Đạo Chân làm nghề chế luyện mài kim bằng sắt”[1;tr28]. Trong dân

14


gian cũng có nhiều phương ngôn của các địa phương nói về các nghề thủ công,
ngay cả trong lời ca Quan họ cũng có câu:
“Chìa vôi anh vót tre hoa
Dao đánh Thống Vát đem ra bổ trầu”.
Nghề gốm Phù Lãng cũng có thời gian ra đời từ khá sớm. Ông tổ của nghề
là Lưu Phong Tú. Tuy nhiên, những dấu tích về sản phẩm và lò nung còn lại chỉ
cho niên đại muộn nhất là thời Lê. Gốm Phù Lãng có nét sắc thái riêng biệt, đó
là những sản phẩm gốm men nâu, nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu…
mà người ta gọi chung là men da lươn. Thêm nữa, nét đặc trưng nổi bật của gốm
Phù Lãng là sử dụng phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong, còn gọi là
chạm kép, màu men tự nhiên, bền và lạ; dáng của gốm mộc mạc, thô phác nhưng
khỏe khoắn, chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ của đất với lửa, và rất đậm nét của điêu
khắc tạo hình. Có thể nói rằng gốm Phù Lãng thực sự đạt tới đỉnh cao về nghệ
thuật chế tác gốm ở nước ta. Cho tới ngày nay, gốm Phù Lãng vẫn được duy trì
và phát triển.
Ngoài hai nghề tiêu biểu là gốm và sắt, nhiều nơi ở Quế Võ cũng có các
nghề thủ công nổi tiếng: chăn tằm, dệt lụa ở Kim Đôi, làm hương đen ở Cách BiHán Quảng, ép dầu ở Xuân Bình, đan tre ở Đa Cấu, đan bị dó ở Quế Ổ và dệt
chiếu ở Đại Toán. Dân gian có câu:
“Chăn Ngăm đi bán cá con
Phù Lãng gánh đất nung lon nặn nồi
Ngăm Ngõ là đất nung vôi
Đại Toán đan bị, Đông Côi đan dành”.
Ngày nay, với sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa, tình hình kinh tế ở
trong huyện cũng có sự thay đổi nhất định, đặc biệt là sự ra đời của hàng loạt các
khu công nghiệp. Đến năm 2017, “tổng sản phẩm GRDP cả năm của huyện đạt

6.415,2 ỷ đồng, tăng 10,7% so với năm trước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng
hướng, công nghiệp, xây dựng chiếm 52,8%, dịch vụ chiếm 35,5%, khu vực nông

15


lâm nghiệp và thủy sản chiếm 11,7%, tổng giá trị sản xuất đạt 35.411 tỷ đồng,
thu nhập bình quân đầu người đạt 44,2 triệu đồng” [61].
Phát huy lợi thế về hạ tầng giao thông, vị trí địa lý, nguồn tài nguyên đất
đai, khoáng sản, Quế Võ được tỉnh Bắc Ninh xác định vai trò quan trọng và ưu
tiên thực hiện nhiều giải pháp thúc đẩy phát triển xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp nên có bước tăng trưởng cao. Các hoạt động thương mại dịch vụ không
chỉ đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân mà còn đang
trên đà tăng trưởng mạnh mẽ. Quế Võ cũng có nhiều thành công trong việc huy
động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị theo hướng
đồng bộ, hiện đại.
Tuy có tốc độ tăng trưởng chậm hơn các ngành, lĩnh vực khác song nền tảng
sản xuất nông nghiệp vẫn có bước phát triển mạnh mẽ, nhất là những chuyển
biến trong việc đổi mới giống, cây trồng, vật nuôi cho giá trị kinh tế cao, gắn với
nhu cầu thị trường. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
được thực hiện có hiệu quả. Năm 2014 xã Phượng Mao đạt tiêu chí “Nông thôn
mới”, bình quân mỗi xã đạt 14,75 tiêu chí, cao hơn so với bình quân chung của
tỉnh.
Trong những năm tới, Quế Võ đặt ra mục tiêu tổng thể đến năm 2019, thị
trấn Phố Mới trở thành Đô thị loại IV, huyện Quế Võ trở thành thị xã trước năm
2025. Cùng với đó, huyện đã đặt ra mục tiêu cụ thể trong giai đoạn 2015-2020:
“Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 9,5-10,5%; đến năm 2020: tỷ trọng
Công nghiệp và Xây dựng chiếm 50,7%; Dịch vụ chiếm 36,1% và Nông - Lâm
nghiệp - Thủy sản 13,2%. Giá trị trên 1 ha canh tác đạt 120-140 triệu đồng/năm;
GRDP bình quân đầu người đạt từ 3.035-3.230 USD; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn

dưới 2%. 100% số trường học đạt chuẩn quốc gia; có thêm 10 xã đạt chuẩn nông
thôn mới; hàng năm giải quyết việc làm mới 2.700-3.200 lao động” [61].
Mặc dù trong những năm gần đây, các ngành kinh tế Công nghiệp, Thương
mại, Dịch vụ đang từng bước phát triển, song cần phải nhấn mạnh sản xuất Nông

16


×