Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Chuyên san Viện Khoa học Thống kê – 30 năm nhìn lại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.73 KB, 37 trang )

Lời nói đầu

Ngày

3 tháng 1 năm 1976, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê ra Quyết định số
02/TCTK-TCCB thành lập Viện Nghiên cứu Khoa học Thống kê và Thông tin Kinh tế (nay là
Viện Khoa học Thống kê). Nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Viện, Ban biên tập tờ Thông
tin Khoa học Thống kê cho ra mắt chuyên san “Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường”.
Chuyên san bao gồm một số bài viết mang tính chất tổng quan về quá trình xây dựng
và phát triển Viện Khoa học Thống kê trên các mặt: nghiên cứu khoa học, thông tin khoa
học, quản lý khoa học, tổ chức bộ máy cũng như cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ. Bên
cạnh những bài viết của các cán bộ đã đang công tác tại Viện, chuyên san cũng giới thiệu
một số bài viết của lãnh đạo các vụ và cục thống kê địa phương đánh giá tác động của công
tác nghiên cứu khoa học đối với việc nâng cao chất lượng nghiệp vụ chuyên môn, cùng một
bài mang tính chất hồi ký và cảm tưởng của một số đồng chí nhiều năm gắn bó với Viện nay
đang công tác ở cơ quan khác và một số mốc lịch sử trong 30 năm xây dựng và phát triển
Viện Khoa học Thống kê.
Ban biên tập tờ Thông tin Khoa học Thống kê hy vọng chuyên san sẽ cung cấp được
cho bạn đọc trong và ngoài ngành cái nhìn tổng thể về quá trình xây dựng và phát triển của
Viện Khoa học Thống kê cả những mặt được và chưa được, làm cơ sở định hướng cho
những phát triển sau này.
Trong quá trình tuyển chọn, biên tập và in ấn chắc không tránh khỏi những sai sót. Ban
biên tập rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các độc giả. Mọi ý kiến xin gửi về:
Ban biên tập Thông tin Khoa học Thống kê
54 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội
Điện thoại: (84-4) 8343763/ 8344234
Fax: (84-4) 7751356
Email:

Ban biên tập



Thông tin Khoa học Thống kê

Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 1


Viện khoa học thống kê - 30 năm nhìn lại
PGS.TS Tăng Văn Khiên
Viện trưởng Viện khoa học thống kê

Ngày

3 tháng 1 năm 1976 Tổng cục
trưởng Tổng cục thống kê đã có Quyết định
số 02/TCTK-QĐ thành lập Viện Khoa học
Thống kê và Thông tin Kinh tế mà ngày nay
có tên gọi là Viện Nghiên cứu Khoa học
Thống kê (viết gọn là Viện Khoa học Thống
kê). Kể từ đó, Viện Khoa học Thống kê đã
qua một quãng đường gần 30 năm với bao
thăng trầm còn đọng lại. Đồng thời, đây
cũng là cơ sở, điểm xuất phát mới của Viện
trong tương lai. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm
ngày thành lập Viện chúng ta sẽ nhìn lại quá
trình xây dựng và phát triển của Viện.
1. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và
điều kiện làm việc của Viện
Viện Khoa học thống kê được hình
thành trên cơ sở hợp nhất 3 bộ phận: tổ

Toán kinh tế, tổ Tổng kết và Phòng Thống
kê nước ngoài thuộc Tổng cục Thống kê với
tổng số 23 cán bộ, trong đó phần lớn là có
trình độ đại học và có 4 phó tiến sĩ. Khi mới
thành lập, cơ sở vật chất của Viện còn
nghèo nàn, thiếu thiết bị và nơi làm việc,
phương tiện làm việc chủ yếu là một số máy
tính casio và một vài máy chữ loại đơn giản,
bàn ghế, tủ đựng tài liệu vừa thiếu vừa thô
sơ. Viện chưa có trụ sở riêng, nơi làm việc
là một vài phòng cấp 4 và không ổn định.
Năm 1986, Viện Khoa học Thống kê
sáp nhập thêm một bộ phận của Vụ Kỹ thuật
Tính toán - Tổng cục Thống kê và đến năm
1989 sáp nhập Trung tâm Thông tin và Tư
liệu Dân số. Sau lần sáp nhập này Viện
Khoa học Thống kê có 4 phòng và 1 trung
tâm: Phòng Khoa học Thống kê; Phòng Tin
học; Phòng Quản lý, Hành chính, Phòng
Thông tin Khoa học Thống kê và Trung tâm
Thông tin và Tư liệu Dân số với tổng số cán
bộ là 47 người (đây là thời kỳ Viện có nhiều

cán bộ nhất, trong đó có 5 phó tiến sĩ, 1 thạc
sĩ còn lại là cử nhân, kỹ sư và trình độ khác.
Từ năm 1983, Viện Khoa học thống kê
trở thành đơn vị sự nghiệp khoa học trong
mạng lưới các viện nghiên cứu của Nhà
nước do Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Nhà
nước (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ)

cấp kinh phí về quỹ lương và hoạt động bộ
máy cũng như quỹ hoạt động khoa học công
nghệ. Năm 1987 Viện Khoa học Thống kê
chuyển về 48A Láng Trung (nay là 54
Nguyễn Chí Thanh) và từ đây Viện có trụ sở
riêng. Về phương tiện làm việc, từ năm
1990 Viện có được một vài máy vi tính 286
do Trung tâm và Tư liệu Dân số để lại và
một vài máy 386 mua bổ sung thêm từ kinh
phí thường xuyên, bàn ghế làm việc và tủ tài
liệu được bổ sung và thay thế dần.
Đến năm 1992 Viện Khoa học Thống kê
còn lại 3 phòng và 1 trung tâm (Phòng Khoa
học Thống kê và Phòng Tin học hợp nhất lại
thành một phòng và có tên là “Phòng Nghiên
cứu Khoa học Thống kê và Tin học”). Giữa
năm 1994 Tổng cục Thống kê quyết định giải
thể Trung tâm Tư liệu và Thông tin Dân số và
từ đó Viện còn lại 3 phòng.
Cuối năm 1994, Tổng cục Thống kê có
Quyết định 98/TCTK-QĐ ban hành “Điều lệ
về tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học
thống kê” Theo quy định trong Điều lệ Viện
Khoa học Thống kê có cơ cấu tổ chức bộ
máy gồm Phòng Nghiên cứu Khoa học
Thống kê và Tin học, Phòng Quản lý Khoa
học và Đào tạo và Trung tâm Thông tin
Khoa học Thống kê.
Ngày 30 tháng 6 năm 2004, Tổng cục
trưởng Tổng cục Thống kê có Quyết định số

416/2004/QĐ-TCTK phê duyệt đề án “Đổi
mới hoạt động khoa học thống kê” của Viện

Trang 2 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


Khoa học Thống kê và ngày 1 tháng 12 năm
2004 Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê
có Quyết định số 870/QĐ-TCTK phê duyệt
chức năng nhiệm vụ của Viện Khoa học
Thống kê. Thực hiện các quyết định trên từ
tháng 1 năm 2005 Phòng Quản lý Khoa học
và Đào tạo tách thành 2 phòng: Phòng Quản
lý Khoa học và Đào tạo và Phòng Tổ chức
Hành chính.
Đến tháng 9 năm 2005 biên chế của
Viện Khoa học Thống kê có 27 người (biên
chế của Viện được giao 26 người) và 2 hợp
đồng tạp vụ được phân bổ theo cơ cấu tổ
chức như sau:
- Lãnh đạo Viện: Viện trưởng và 3 Phó
Viện trưởng.
- Phòng Nghiên cứu Thống kê và Tin học
có 1 Trưởng phòng và 6 cán bộ.
- Phòng Quản lý khoa học và đào tạo
có 1 Quyền Trưởng phòng và 3 cán bộ.
- Trung tâm thông tin khoa học thống kê
có 1 Giám đốc và 6 cán bộ.
- Phòng Tổ chức Hành chính có 1 Phó

Trưởng phòng, 1 thủ quỹ, 2 bảo vệ và 1 lái xe,
và 2 người làm hợp đồng.
Số cán bộ nghiệp vụ của Viện Khoa
học thống kê không nhiều song phần lớn
đều được đào tạo theo hệ chính quy từ các
trường đại học trong và ngoài nước thuộc
các chuyên ngành thống kê kinh tế, toán và
tin học. Hầu hết cán bộ nghiên cứu của Viện
sử dụng được từ 1 đến 2 ngoại ngữ và máy
tính vào công việc chuyên môn. Hiện nay,
Viện Khoa học thống kê có: 3 tiến sĩ; 2 thạc
sĩ; 1 nghiên cứu sinh trong nước và 4 cán
bộ đang học cao học trong nước. So với yêu
cầu phát triển của Viện, cơ cấu cán bộ chưa
đồng bộ, nhất là còn thiếu những người trực
tiếp làm công tác nghiên cứu khoa học.
Năm 1996 Viện Khoa học Thống kê
được phê duyệt dự án đầu tư về trang thiết
bị nên đã có thêm nhiều máy tính, máy
phôtô và các loại phương tiện làm việc khác.
Thông tin Khoa học Thống kê

Năm 1997, Viện được phê duyệt dự án đầu
tư nâng cấp sửa chữa trụ sở, đồng thời
hàng năm được cấp thêm kinh phí để
thường xuyên mua sắm bổ sung máy móc
trang thiết bị và đổi mới phương tiện làm
việc. Đến nay, trụ sở của Viện khang trang
hơn với các phòng làm việc, phòng hội thảo
khoa học, hội trường, thư viện, trang thiết bị

đáp ứng nhu cầu triển khai hoạt động khoa
học.
2. Hoạt động khoa học
Trong 30 năm qua Viện Khoa học
Thống kê đã tổ chức triển khai công tác
nghiên cứu khoa học thống kê và đạt được
những kết quả đáng ghi nhận với số lượng
đề tài nghiên cứu ngày càng nhiều, chất
lượng nghiên cứu ngày càng cao hơn và có
tỷ lệ ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực
tế công tác thống kê ngày càng tăng.
Tính đến hết năm 2004, Viện Khoa học
Thống kê đã tổ chức triển khai nghiên cứu
trên 250 đề tài khoa học; trong đó có 4 đề tài
cấp Nhà nước, còn lại là đề tài cấp Tổng
cục và cấp cơ sở.
Những năm đầu mới thành lập, kinh
nghiệm nghiên cứu của cán bộ thống kê còn
có những hạn chế, song Viện Khoa học
Thống kê đã bám sát phương hướng nhiệm
vụ công tác của ngành, gắn nghiên cứu
khoa học với công tác phương pháp chế độ
để xây dựng và tổ chức triển khai các đề tài
khoa học có nội dung phù hợp với yêu cầu
của công tác thống kê theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung. Đặc biệt từ năm 1980, sau
Hội nghị khoa học thống kê lần thứ nhất, các
hoạt động nghiên cứu triển khai được đẩy
lên một bước, tiêu biểu là Viện Khoa học
Thống kê đã phối hợp với các đơn vị trong

Tổng cục, các cục thống kê tỉnh, thành phố
và các cơ quan nghiên cứu khoa học khác
triển khai nghiên cứu 31 đề tài khoa học;
trong đó có 2 đề tài cấp Nhà nước. Nội dung
nghiên cứu của các đề tài chú trọng vào
công tác hạch toán ở cơ sở, thống kê cấp
Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 3


huyện, làm sáng tỏ cả lý luận lẫn thực tiễn
về phân tích thống kê, nghiên cứu cải tiến
phương pháp điều tra như điều tra chăn
nuôi, hoàn thiện các chỉ tiêu pháp lệnh và
phương pháp đánh giá mức độ thực hiện kế
hoạch Nhà nước của các xí nghiệp,…
Hoạt động thông tin khoa học thống kê
đã được chú ý, tờ Thông tin Khoa học
Thống kê ra đời và đến năm 1985 có giấy
phép xuất bản chính thức.
Từ những năm 1986, công tác nghiên
cứu khoa học thống kê đã bám sát yêu cầu
đổi mới công tác thống kê (gồm đổi mới nội
dung, phương pháp và hệ thống tổ chức)
của ngành để xây dựng nội dung nghiên
cứu khoa học. Viện Khoa học Thống kê đã
tổ chức nghiên cứu thành công hai đề tài
cấp Nhà nước: “Từng bước hoàn thiện và
hiện đại hoá hệ thống thông tin thống kê
nước ta đến năm 2000” và “Những cơ sở lý

luận và thực tiễn để cải tiến hệ thống hạch
toán và thống kê phục vụ yêu cầu đổi mới
kinh tế ở nước ta hiện nay”.
Kết quả thực hiện hai đề tài này làm cơ
sở định hướng cho công tác nghiên cứu
khoa học thống kê trên các khâu công tác
của ngành, đồng thời làm cơ sở cho việc
nghiên cứu ứng dụng chuyển đổi toàn bộ
hoạt động thống kê nước ta từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường
theo định hướng XHCN, chuyển từ hệ thống
chỉ tiêu chủ yếu phục vụ cho lãnh đạo theo
cơ chế hành chính bao cấp sang chỉ tiêu
phục vụ quản lý theo cơ chế thị trường,
phản ánh kết quả hoạt động ở cả hai lĩnh
vực sản xuất vật chất và dịch vụ.
Theo các định hướng trên, từ năm
1986 đến 1995 Viện Khoa học Thống kê
cùng với các đơn vị trong Tổng cục và các
ngành có liên quan tổ chức nghiên cứu trên
70 đề tài cấp tổng cục và cơ sở, với trọng
tâm là nghiên cứu chuyển đổi hệ thống chỉ
tiêu cân đối kinh tế quốc dân (MPS) sang hệ
thống tài khoản quốc gia (SNA), đồng thời

từng bước cải tiến và hoàn thiện các hệ
thống chỉ tiêu thống kê theo từng chuyên
ngành và theo từng lĩnh vực, giảm bớt các
chỉ tiêu tác nghiệp, nhất là các chỉ tiêu hiện
vật, tăng thêm nhiều chỉ tiêu thống kê xã hội,

môi trường và đặc biệt quan tâm đến các chỉ
tiêu về giá trị, các chỉ tiêu chất lượng phản
ánh chiều sâu của quá trình sản xuất xã hội.
Đã nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện hàng
loạt các bảng danh mục nhằm đáp ứng yêu
cầu sử dụng trong nước và so sánh quốc tế.
Các đề tài nghiên cứu về phương pháp
và phương pháp luận thống kê chiếm tỷ
trọng ngày càng tăng như các đề tài:
phương pháp tính các chỉ tiêu thống kê tổng
hợp; phương pháp tính chỉ số giá; phương
pháp điều tra mẫu trong nông nghiệp;
phương pháp điều tra thuỷ sản; phương
pháp lồng ghép các chỉ tiêu thống kê KHCN
vào các cuộc điều tra doanh nghiệp,
phương pháp đánh giá giàu nghèo, phương
pháp tính toán các chỉ tiêu thống kê so sánh
quốc tế,…
Một số đề tài đã hướng vào nghiên cứu
ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
thống kê đó là: ứng dụng tin học vào hệ thống
thông tin thống kê công nghiệp; ứng dụng
phần mềm SPSS/PC và các chương trình
khác trong xử lý và phân tích số liệu thống kê;
quản lý, khai thác và tìm kiếm lưu trữ tài liệu
phục vụ quản lý khoa học; nghiên cứu ứng
dụng công nghệ trong công tác quản lý cán
bộ, quản lý văn phòng của Tổng cục Thống kê
theo hướng hiện đại hoá,…
Một số đề tài nghiên cứu về công tác tổ

chức, cán bộ nhằm hoàn thiện tổ chức bộ
máy cũng như quy trình tuyển chọn cán bộ,
đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ
năng thực hành của đội ngũ cán bộ thống
kê trong điều kiện cơ chế mới.
Ngoài các đề tài nghiên cứu, từ năm
1990, Viện Khoa học Thống kê thực hiện đổi
mới hoạt động, gắn nghiên cứu khoa học
với thực tế, gắn công tác nghiên cứu với

Trang 4 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


công tác điều tra khảo sát thực tế như: Điều
tra mẫu xã hội học ở Lạng Sơn (1992); điều
tra thái độ, nhận thức và hành vi kế hoạch
hoá gia đình (1993); điều tra nguyên nhân
bỏ học của học sinh phổ thông (1994); điều
tra tiềm lực khoa học công nghệ (1995);
khảo sát đánh giá các ấn phẩm thông tin
giáo dục, truyền thông dân số (1995).
Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học
từng bước được đưa vào ứng dụng, đặc
biệt đề tài “Nghiên cứu xây dựng phương án
điều tra tiềm lực KHCN” đã được ứng dụng
trong cuộc điều tra tiềm lực KHCN, kết quả
của cuộc điều tra đã phục vụ kịp thời cho
Hội nghị Trung ương II khoá VIII. Các đề tài:
Nghiên cứu xây dựng danh mục đào tạo,

phân loại nghề nghiệp, phân loại thành phần
kinh tế và hệ thống ngành kinh tế quốc dân
đã ứng dụng trong việc tổng hợp số liệu
thống kê nói chung và số liệu của Tổng điều
tra dân số nói riêng. Các đề tài nghiên cứu
của các vụ nghiệp vụ như: Hệ thống Tài
khoản Quốc gia, Thống kê Công nghiệp và
Xây dựng, Thương mại, Dịch vụ và giá cả,
Thống kê Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản,…
đã góp phần cải tiến phương pháp điều tra
cũng như hoàn thiện chế độ báo cáo thống
kê của các nghiệp vụ trong quá trình đổi mới
công tác thống kê.
Hoạt động thông tin khoa học thống kê
đã được mở rộng, sự tham gia viết bài cho
tờ Thông tin Khoa học Thống kê không chỉ
có cán bộ của Tổng cục Thống kê mà của
các cục thống kê tỉnh, thành phố, các trường
đại học và một số Bộ ngành liên quan. Tờ
Thông tin Khoa học Thống kê định kỳ 2
tháng một số đã giới thiệu được những vấn
đề về phương pháp luận thống kê trong
nước và trên thế giới, cung cấp được nhiều
thông tin quan trọng phục vụ cho nghiên
cứu, đào tạo và triển khai thực tế về công
tác thống kê. Đồng thời Viện Khoa học
Thống kê đã tổ chức thành công Hội nghị
khoa học thống kê lần thứ hai vào năm
1986.
Thông tin Khoa học Thống kê


Công tác quản lý khoa học tuy còn
nhiều hạn chế, chưa tổ chức nghiệm thu
đánh giá được tất cả các đề tài khoa học đã
hoàn thành, nhưng bước đầu đã cải tiến
phương thức triển khai nghiên cứu, tổ chức
theo dõi, kiểm tra đôn đốc và giám sát quá
trình thực hiện của các đề tài khoa học. Từ
những năm 1994 và 1995 đã bắt đầu thành
lập Hội đồng nghiệm thu đánh giá kết quả
nghiên cứu của các đề tài khoa học theo
quy chế của Nhà nước.
Chuyển sang thời kỳ 1996-2005 công
tác thống kê tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi
mới của mình, để có được thông tin ngày
càng phong phú và phục vụ có hiệu quả cho
yêu cầu quản lý của Nhà nước, yêu cầu sử
dụng của nhiều đối tượng khác nhau trong
điều kiện đẩy mạnh kinh tế thị trường tăng
cường hợp tác quốc tế.
Gắn liền với yêu cầu đó Ngành Thống
kê đã trình Nhà nước ra nhiều văn bản quy
phạm pháp luật quan trọng như Luật Thống
kê (năm 2003), Quyết định số 141/2002/QĐTTg ngày 21 tháng 10 năm 2002 về Phê
duyệt Định hướng phát triển Thống kê Việt
Nam đến năm 2010. Nghị định số
101/2003/NĐ-CP ngày 03-9-2003 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thống
kê thay cho Nghị định số 23/CP ngày 23-31994 của Chính Phủ.

Thực tế trên đây đòi hỏi nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học thống kê là phải tiếp
tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu
thống kê, chuẩn hoá nội dung thông tin
thống kê, chuẩn hoá các phương pháp tính
toán, cũng như các bảng phân loại; tiếp tục
cải tiến phương pháp thu thập số liệu thống
kê, theo hướng tinh giảm chế độ báo cáo
đẩy mạnh điều tra chọn mẫu, sắp xếp lại các
cuộc điều tra thống kê trên cơ sở xây dựng
chương trình điều tra thống kê quốc gia;
nghiên cứu đưa vào áp dụng các chỉ tiêu
thống kê tổng hợp, các chỉ tiêu phản ánh
chất lượng hiệu quả, các chỉ tiêu đánh giá
Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 5


chất lượng tăng trưởng kinh tế và phát triển
bền vững,…; từng bước chuyền tải những
yêu cầu của Luật Thống kê, những nội dung
của Định hướng phát triển thống kê vào
thực tế sinh động của công tác thống kê.
Từ năm 1996 đến năm 2004, Viện
Khoa học Thống kê đã tổ chức triển khai
nghiên cứu và hoàn chỉnh được đánh giá
nghiệm thu 142 đề tài khoa học, trong đó có
54 đề tài cấp tổng cục và 88 đề tài cấp cơ
sở.
Chia theo chủ đề nghiên cứu, trong số

142 đề tài khoa học nói trên nhiều nhất là
các đề tài về nghiên cứu xây dựng và hoàn
thiện hệ thống thông tin và hệ thống chỉ tiêu
thống kê (37 đề tài, chiếm 26,06%), tiếp đến
là các đề tài về nghiên cứu ứng dụng toán
và tin học trong công tác thống kê (26 đề tài,
chiếm 18,3%) đứng vị trí thứ ba là các đề tài
về cải tiến chế độ báo cáo, hoàn thiện
phương pháp thu thập số liệu (22 đề tài,
chiếm 15,49%) rồi đến các đề tài nghiên cứu
phương pháp tính các chỉ tiêu thống kê tổng
hợp (10 đề tài, chiếm 7%) và các đề tài về
chuẩn hoá các thuật ngữ, nội dung thông tin
thống kê (9 đề tài, chiếm 6,3%). Số đề tài
thuộc các nhóm chủ đề khác như đánh giá,
phân tích và dự báo thống kê; phân tổ, phân
loại thống kê và xây dựng các bảng danh
mục, công tác tổ chức đào tạo, xây dựng
quy chế, xây dựng cơ sở pháp lý và các văn
bản thống kê,… có từ 4 đến 8 đề tài (chiếm
từ 2,8 đến 5,6%).
Đặc điểm nổi bật của công tác nghiên
cứu khoa học thống kê trong thời kỳ này là:
- Nhiều đề tài khoa học đã bám sát yêu
cầu thực tế của công tác thống kê, thể hiện
ở chỗ nội dung và chương trình nghiên cứu
của đề tài được thực hiện đan xen với quá
trình triển khai nghiệp vụ hoặc một số kết
quả nghiên cứu đã được lựa chọn để từng
bước thể chế hoá thành các tài liệu hướng

dẫn nghiệp vụ.

- Các kết quả nghiên cứu khoa học
từng bước đã được giới thiệu và phổ biến
đến đông đảo người sử dụng; nhiều đề tài
được lựa chọn để hệ thống trong các cuốn
kỷ yếu khoa học, một số có nội dung được
lựa chọn để đăng trên các tạp chí khoa học,
trong đó có những đề tài đã được bổ sung
biên tập thành sách để xuất bản phổ biến
rộng rãi đến đông đảo bạn đọc hoặc biên
soạn thành tài liệu hướng dẫn nâng cao
nghiệp vụ.
- Một số đề tài đã gắn liền công tác
nghiên cứu khoa học với quá trình điều tra
thống kê, nghiên cứu cài đặt thêm những
thông tin cần thiết, cách làm này rất hiệu
quả, vừa nhanh gọn vừa tiết kiệm, kết quả
số liệu đã được bóc tách tổng hợp rồi viết
báo cáo phân tích phục vụ thiết thực cho
nhiều đối tượng dùng tin khác như khai thác
số liệu từ tổng điều tra dân số và nhà ở năm
1999 điều tra tiến sĩ và tiến sĩ khoa học năm
2000, khai thác số liệu trong điều tra doanh
nghiệp các năm 2000, 2002 và 2004,... Một
số đề tài khác đã kết hợp chặt chẽ nội dung
nghiên cứu với quá trình chuẩn bị xây dựng
các văn bản pháp quy của ngành Thống kê;
xây dựng các quy định quy chế về hoạt
động thống kê như nghiên cứu xây dựng

chương trình phát triển công tác thống kê;
nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận, thực
tiễn và nguyên tắc phục vụ xây dựng Luật
Thống kê Việt Nam; nghiên cứu xây dựng
Đề án đổi mới hoạt động khoa học thống kê
của Viện Khoa học Thống kê; nghiên cứu
hình thức và nội dung đào tạo bồi dưỡng
cán bộ và tuyển dụng cán bộ ngành Thống
kê; nghiên cứu cải tiến kế hoạch giao điểm
và theo dõi chấm điểm thi đua; nghiên cứu
xác định hành vi, hình thức và mức xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống kê;
nghiên cứu cải tiến công tác tư liệu,v.v...
- Nghiên cứu đưa vào tính toán thí
nghiệm nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội tổng
hợp khá phức tạp nhưng rất cần thiết cho
yêu cầu đánh giá phát triển kinh tế xã hội

Trang 6 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


của đất nước và so sánh quốc tế trong điều
kiện phát triển kinh tế và mở rộng hội nhập
với các nước như chỉ số phát triển con
người, giá trị sản phẩm trên một đơn vị diện
tích đất nông nghiệp,…
- Ngoài các đề tài nghiên cứu khoa học
những năm gần đây Viện Khoa học Thống kê
còn thực hiện các hình thức nghiên cứu khác

bằng cách đẩy mạnh ký kết hợp đồng nghiên
cứu khoa học với các cục thống kê địa phương
và các đơn vị khác; tổ chức viết chuyên đề
khoa học, mở rộng hội thảo khoa học,...
Về công tác thông tin khoa học thống
kê: đã chú ý đa dạng các loại hình ấn phẩm
thông tin và phương pháp phổ biến thông tin,
duy trì xuất bản đều đặn và tăng thêm số
lượng tờ Thông tin Khoa học Thống kê, chú
trọng việc hệ thống hoá và biên soạn các
cuốn kỷ yếu về kết quả nghiên cứu khoa học,
các bài tổng luận, dịch thuật, cải tiến về mặt
hình thức, chú trọng nâng cao chất lượng
các ấn phẩm thông tin khoa học thống kê
nhằm giới thiệu được những thông tin mới
nhất về phương pháp luận thống kê của thế
giới cũng như những kết quả nghiên cứu
khoa học thống kê trong nước; đồng thời
cũng đã đưa nội dung Thông tin Khoa học
Thống kê lên trang web tạo điều kiện cho
đông đảo các đối tượng khai thác và sử
dụng.
Cũng trong thời kỳ này Viện Khoa học
Thống kê đã tổ chức hai Hội nghị Khoa học
Thống kê lần thứ 3 (năm 1997) và lần thứ 4
(2001).
Cùng với công tác nghiên cứu khoa học
và thông tin khoa học thống kê, khâu quản lý
khoa học thống kê cũng đã có những bước
chuyển biến quan trọng; việc xây dựng kế

hoạch, triển khai nghiên cứu cũng như đánh
giá nghiệm thu và chuyển giao kết quả
nghiên cứu đều được thực hiện một cách
nghiêm túc, theo đúng quy định của Nhà
nước, đồng thời đảm bảo phù hợp với điều
kiện thực tế của ngành Thống kê.

Thông tin Khoa học Thống kê

Về công tác đào tạo: Viện tiếp tục kết
hợp với Vụ Tổ chức - Cán bộ và đào tạo và
Khoa Thống kê Đại học Kinh tế Quốc dân tổ
chức được nhiều lớp học đào tạo nâng cao
nghiệp vụ, cử một số cán bộ tham gia giảng
dạy đào tạo thống kê ở các trường đại học
kinh tế. Đồng thời hàng năm Viện đều có
người đi học tập, nghiên cứu và khảo sát ở
nước ngoài và hiện Viện đang có 4 cán bộ là
học viên cao học và 1 nghiên cứu sinh trong
nước.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được,
trong quá trình hoạt động khoa học của Viện
cũng còn những khó khăn và tồn tại nhất định:
- Cơ sở vật chất của Viện còn thiếu
thốn trong một thời kỳ dài; điều kiện kinh phí
cho hoạt động những năm trước đây nhất là
thời kỳ bao cấp còn hạn hẹp, kinh nghiệm tổ
chức nghiên cứu khoa học của Viện chưa
nhiều. Mặt khác, tổ chức của Viện không ổn
định, tách ra nhập lại nhiều lần, làm cho đội

ngũ cán bộ bị thay đổi, thuyên chuyển
thường xuyên, có những thời gian số cán bộ
của Viện vượt xa số biên chế được giao (47
so với 26).
Đặc điểm trên đây làm cho việc tuyển
dụng, bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ
cán bộ của Viện có những giai đoạn gặp
nhiều khó khăn. Điều đó ảnh hưởng nhất
định đến khả năng nghiên cứu của Viện
Khoa học Thống kê.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học cũng
còn có những hạn chế, chưa kịp thời xây
dựng thành các đề tài khoa học để nghiên
cứu một số vấn đề nghiệp vụ phát sinh; triển
khai nghiên cứu còn nhiều bất cập, đặc biệt
là việc theo dõi kiểm tra giám sát quá trình
nghiên cứu.
- Chưa kịp thời phổ biến các kết quả
nghiên cứu khoa học đến người sử dụng, đã
phần nào làm giảm ý nghãi của kết quả
nghiên cứu, đồng thời cũng chưa phát huy
hết vai trò của công tác thông tin khoa học
thống kê.
Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 7


Tuy còn những tồn tại và khó khăn,
nhưng nhìn chung lại 30 năm qua, Viện Khoa
học Thống kê đã từng bước trưởng thành, và

có những đóng góp quan trọng cho công tác
thống kê nước ta trên con đường phát triển.
Viện Khoa học Thống kê liên tục nhiều
năm đạt đơn vị xuất sắc và nhiều lần được
Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê tặng
bằng khen, đặc biệt được Nhà nước tặng
Huân chương Lao động hạng ba; nhiều cán
bộ của Viện được Tổng cục trưởng Tổng
cục Thống kê tặng Huy chương vì sự nghiệp
thống kê; Bộ Khoa học và Công nghệ tặng
Huy chương và kỷ niệm chương vì sự
nghiệp khoa học và công nghệ, nhiều cán
bộ được Tổng cục trưởng Tổng cục Thống
kê tặng bằng khen; một số được Thủ tướng
Chính phủ tặng Bằng khen và Nhà nước
tặng Huân chương Lao động hạng ba.

Có được kết quả trên đây là nhờ sự
quan tâm chỉ đạo thường xuyên của lãnh
đạo Tổng cục Thống kê, sự hỗ trợ và tạo
điều kiện thuận lợi của Bộ Khoa học và
Công nghệ; sự hợp tác có hiệu quả của các
đơn vị trong Tổng cục Thống kê, các cục
thống kê tỉnh, thành phố và các cơ quan có
liên quan; đặc biệt sự nỗ lực phấn đấu của
toàn thể cán bộ của Viện Khoa học Thống
kê qua nhiều thế hệ.
Phát huy những kết quả đạt được, từng
bước khắc phục những hạn chế, toàn thể
cán bộ của Viện Khoa học Thống kê quyết

tâm phấn đấu vươn lên để đạt được những
kết quả về hoạt động khoa học thống kê ở
mức ngày một tốt hơn góp phần quan trọng
vào sự nghiệp phát triển của ngành ở tầm
cao mới

THÔNG TIN KHOA HỌC THỐNG KÊ

25 NĂM – XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
Phạm Sơn
Giám đốc Trung tâm thông tin KHTK

Thông tin khoa học là một trong những
chức năng quan trọng của Viện Khoa học
Thống kê. Ngay từ ngày đầu mới thành lập
Viện, trong Quyết định số 105/TCTK - QĐ
ngày 9 tháng 10 năm 1975 quy định về chức
năng và nhiệm vụ của Viện Nghiên cứu
Khoa học Thống kê và Thông tin Kinh tế (tên
cũ của Viện Khoa học Thống kê ghi trong
Nghị định 72/CP ngày 5-4-1974 và trong
Quyết định 02/TCTK-QĐ ngày 03-01-1976
về thành lập Viện Khoa học Thống kê): Phổ
biến rộng rãi kiến thức và kinh nghiệm trong
và ngoài nước về công tác thống kê nhằm
góp phần nâng cao chất lượng công tác
thống kê.

Tuy nhiên, trong những năm đầu mới
thành lập Viện chức năng thông tin khoa

học thống kê chưa được triển khai và đến
năm 1980, Tổng cục trưởng Tổng cục
Thống kê có quyết định số 14-TCTK/QĐ
ngày 28 -2 -1980 cho phép Viện Nghiên cứu
Khoa học Thống kê và Thông tin Kinh tế
xuất bản tờ Thông tin Khoa học Thống kê
nhằm giới thiệu các thành tựu khoa học
thống kê, kỹ thuật tính toán, các phương
pháp toán và các khoa học khác có liên
quan của các tác giả trong và ngoài nước
đáp ứng yêu cầu tham khảo nghiên cứu của
cán bộ trong ngành. Xét về góc độ pháp lý
đây là một bản tin nghiệp vụ mang tính chất
nội bộ, mỗi năm ra 4 số và mỗi số 100 bản
in rôneo dày từ 40 - 50 trang.

Trang 8 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


Cũng theo Quyết định trên Ban biên tập
tờ Thông tin Khoa học Thống kê gồm 9
thành viên, do Viện trưởng Viện Nghiên cứu
Khoa học Thống kê làm Tổng biên tập và
trong ban biên tập ngoài một số cán bộ của
Viện còn có cán bộ của các đơn vị khác. Đó
là ông Trần Thanh Diệu, Phó tổng biên tập
tạp chí thống kê, ông Nguyễn Quang Trạc,
Trưởng phòng thống kê nước ngoài và
PTS.Đỗ Trọng Hùng, trưởng phòng Vụ

thống kê cân đối. Hầu như toàn bộ ban biên
tập đều là những thành viên kiêm nhiệm.
Mọi hoạt động của Ban biên tập nói riêng và
của tờ Thông tin Khoa học Thống kê nói
chung mang tính chất nghiệp vụ hành chính.
Bước sang năm 1981, được sự quan
tâm của lãnh đạo Tổng cục và sự nỗ lực của
Viện, hoạt động thông tin khoa học đã có
bước tăng cường củng cố cả về mặt tổ chức
và nghiệp vụ. Trước tiên, Tổng cục Thống
kê đã có quyết định chuyển thư Viện Khoa
học Thống kê trực thuộc phòng nghiên cứu
thống kê về Viện và ở Viện đã hình thành bộ
phận thông tin thư viện gồm 5 người, trong
đó có 2 thủ thư và 3 cán bộ làm công tác
thông tin khoa học. Do có những cố gắng
như vậy nên từ năm 1981, tờ Thông tin
Khoa học Thống kê hàng năm đã ra được 4
số thông tin định kỳ với số lượng 200 bản/số
in chụp trên bản thảo vi tính, kịp thời phục
vụ cho nhu cầu tra cứu và tham khảo của
cán bộ trong ngành thống kê.
Đến năm 1983, sau khi Viện chuyển từ
khu vực hoạt động hành chính sang khu vực
sự nghiệp do Uỷ ban khoa học kỹ thuật Nhà
nước nay là Bộ Khoa học và Công nghệ
quản lý, hoạt động thông tin khoa học đã có
bước chuyển biến mới. Bộ phận làm công
tác thông tin khoa học nằm trong mạng lưới
các cơ quan thông tin khoa học do Viện

Thông tin Quốc gia - nay là Trung tâm
Thông tin Khoa học Công nghệ Quốc gia
quản lý.
Đứng trước thời cơ mới, hoạt động
thông tin khoa học nói chung và của tờ
Thông tin Khoa học Thống kê nói riêng đã
có những bước chuyển biến tích cực. Hàng

Thông tin Khoa học Thống kê

năm, ngoài ấn phẩm thông tin khoa học
thống kê định kỳ (4 số năm), bộ phận thư
viện định kỳ 6 tháng ra một số thông tin thư
mục về sách và tạp chí có ở thư Viện Khoa
học Thống kê, tổ chức biên dịch một số tài
liệu nghiệp vụ của các cơ quan thống kê
thuộc các nước đông Âu cũ mà chủ yếu là
Liên Xô. Đồng thời đã tổ chức được nhiều
buổi sinh hoạt khoa học dưới hình thức giới
thiệu các thông tin mới về khoa học thống
kê cũng như các khoa học khác có liên quan
cho cán bộ nghiệp vụ trực thuộc văn phòng
Tổng cục Thống kê. Do hoạt động của tờ
Thông tin ngày càng phát triển nên đội ngũ
cộng tác viên ngày càng được mở rộng.
Nếu như những năm đầu đội ngũ cộng tác
viên của tờ Thông tin Khoa học Thống kê
chủ yếu là cán bộ nghiên cứu của Viện và
một số cán bộ nghiệp vụ của các đơn vị
trong Tổng cục Thống kê tốt nghiệp đại học

và nghiên cứu sinh từ các nước XHCN đông
Âu trở về thì đến đầu năm 1985 đội ngũ
cộng tác viên được mở rộng cả trong cơ
quan Tổng cục, các cục thống kê, các
trường đại học và một số Viện nghiên cứu
như: Viện Toán, Viện Tính toán Điều khiển,
Viện Khoa học Lao động (Bộ lao động), Viện
Khoa học Bảo hộ lao động (Tổng công
đoàn) và nhu cầu bạn đọc trong và ngoài
ngành tăng lên đáng kể. Đồng thời, sau 5
năm xây dựng và củng cố hoạt động thông
tin khoa học thống kê nói chung và tờ Thông
tin Khoa học Thống kê nói riêng đã có
những tiến bộ, góp phần đáp ứng nhu cầu
thông tin cho cán bộ lãnh đạo, chuyên viên
trong ngành Thống kê cũng như nhiều đối
tượng sử dụng khác. Vì vậy, tháng 5 năm
1985, Bộ Văn hoá và Thông tin đã cấp giấy
phép số 582/XB-BC cho phép tờ Thông tin
Khoa học Thống kê được ấn hành rộng rãi
trên cả nước. Đây là một ghi nhận sự phát
triển về chất của tờ Thông tin Khoa học
Thống kê từ một bản tin nội bộ đã chuyển
sang tư cách một tạp chí chính quy và được
độc giả trong và ngoài ngành trân trọng.
Để tương xứng với tầm vóc một tờ
Thông tin khoa học đầu ngành, trong những
năm cuối của thập kỷ 80 và những năm đầu
Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 9



của thập kỷ 90 Ban biên tập tờ Thông tin
Khoa học Thống kê thường xuyên mở các
cuộc họp cộng tác viên và toạ đàm với đối
tượng người dùng tin để từng bước nâng
cao chất lượng tờ thông tin cả về hình thức
và nội dung. Nếu như trước đây các bản tin
chủ yếu in chụp qua bản thảo đánh máy vi
tính in kim, trình bầy đơn giản, thì từ đầu
năm 1990 các số thông tin đã được chế bản
và in offset đẹp hơn. Nội dung đã bám sát
công cuộc chuyển đổi, hệ thống thông tin
thống kê được xây dựng phục vụ cho cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường định hướng XHCN, mở cửa và hội
nhập kinh tế. Do đó, giai đoạn từ 1988-1993
trên tờ Thông tin Khoa học Thống kê đã giới
thiệu nhiều bài viết, bài dịch về hệ thống tài
khoản quốc gia. Đặc biệt trong năm 1992 đã
phối hợp với các Vụ nghiệp vụ (Vụ thống kê
cân đối - nay là Vụ tài khoản quốc gia và Vụ
thống kê tổng hợp) sưu tầm hệ thống hoá và
ra 2 chuyên san: “Hệ thống tài khoản quốc
gia” và “Số liệu thống kê các nước Đông
Nam á”. Hai ấn phẩm này được các cục
thống kê tỉnh, thành phố, các cơ quan quản
lý và nghiên cứu đánh giá cao. Ngoài ra, tờ
Thông tin Khoa học Thống kê bám sát định
hướng phát triển công tác thống kê đã sưu

tầm và giới thiệu kịp thời những vấn đề
nghiệp vụ bức súc của ngành. Chẳng hạn
sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về
khoán trong nông nghiệp tờ Thông tin Khoa
học Thống kê đã giới thiệu nhiều bài viết
của cán bộ nghiên cứu và thực tiễn về cải
tiến phương pháp điều tra năng xuất lúa từ
gặt thống kê sang điều tra thực thu theo hộ
sản xuất. Hoặc thực hiện chủ trương tinh
giản chế độ báo cáo thống kê định kỳ, mở
rộng điều tra nhất là điều tra chọn mẫu, tờ
Thông tin Khoa học Thống kê mỗi số dành
ra trên 60% số bài và tin về các vấn đề này.
Về mặt tổ chức bộ máy, từ năm 1989
Tổng cục Thống kê đã cho phép thành lập
Phòng thông tin khoa học thống kê nằm
trong Viện Khoa học Thống kê và đã tăng

thêm cán bộ làm công tác thông tin, củng cố
Ban biên tập.
Đến năm 1994, theo Quyết định số
98/TCTK-QĐ ngày 12-7-1994 của Tổng cục
trưởng Tổng cục Thống kê về việc ban hành
Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Viện
Khoa học Thống kê, đã đổi tên Phòng thông
tin khoa học thống kê thành Trung tâm
thông tin khoa học thống kê. Đồng thời, đầu
năm 1995, Tổng cục trưởng Tổng cục
Thống kê đã có quyết định số 147/TCTK/QĐ
củng cố Ban biên tập tờ Thông tin Khoa học

Thống kê. Theo quyết định này TS.Tăng
Văn Khiên, Viện trưởng Viện Khoa học
Thống kê được cử giữ chức Tổng biên tập,
TS.Nguyễn Xuân Tường được cử giữ chức
Phó tổng biên tập và ông Phạm Sơn -Phó
Giám đốc Trung tâm Thông tin Khoa học
Thống kê được cử làm thư ký.
Cùng với việc tăng cường, củng cố về
mặt tổ chức, chất lượng hoạt động thông tin
khoa học nói chung và tờ Thông tin Khoa
học Thống kê nói riêng đã có nhiều chuyển
biến tích cực.
Về số lượng ấn phẩm thông tin, đã tăng
từ 4 số/năm lên 6 số/năm. Ngoài ra hàng
năm ra thêm 2 đến 4 số chuyên san. Số
lượng của mỗi số cũng tăng từ 500 bản/số
lên 1000 bản/số và trước đây mỗi số chỉ có
32 trang khổ 19x26, nay tăng lên 40 trang.
Bìa đã được thiết kế và in 4 mầu hấp dẫn
hơn. Do tăng số lượng bản in, nên đã đáp
ứng cơ bản nhu cầu độc giả trong ngành.
Nếu như trước đây chỉ gửi 1 bản/số cho mỗi
đơn vị trong Tổng cục và 2 bản/số cho mỗi
cục thống kê, riêng Cục Thống kê thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội 5 bản/số thì hiện nay
số lượng trên đã tăng lên đáng kể. Các đơn
vị trong Tổng cục 2 bản/số, các Cục thống
kê 10 bản/số, riêng Cục Thống kê thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội từ 15-20 bản/số.
Đồng thời để khuyến khích động viên

đội ngũ cộng tác viên và cán bộ làm công
tác biên tập, trị sự Viện Khoa học Thống kê

Trang 10 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


đã nghiên cứu vận dụng các quy định của
nhà nước để xây dựng khung nhuận bút,
phụ cấp kiêm nhiệm cho Ban biên tập cũng
như các cán bộ làm công tác biên tập, trị sự
và liên quan khác.

Dựa vào các định hướng trên đây từ
năm 2001 đến nay Trung tâm thông tin khoa
học thống kê bám sát nhiệm vụ phục vụ
công tác thống kê đã bước đầu đạt được
một số kết quả nhất định.

Chính nhờ những cố gắng trên nên từ
năm 1995 đến nay, hoạt động của tờ Thông
tin ngày càng phát triển và được độc giả
trong và ngoài ngành quan tâm. Mảng thông
tin thư viện cũng được tăng cường củng cố
theo hướng tin học hoá và nội sinh hoá. Từ
năm 1996 lại đây đã nghiên cứu ứng dụng
công nghệ thông tin phục vụ cho việc tin học
hoá công tác thư viện. Đến nay hầu hết
sách báo và tạp chí của thư viện được đưa
vào quản lý trên máy tính theo phần mềm

CDS-ISIS gồm một số cơ sở dữ liệu sau: cơ
sở dữ liệu sách hơn 5000 bản ghi, cơ sở dữ
liệu cơ quan nghiên cứu dân số - hơn 400
bản ghi, cơ sở dữ liệu chuyên gia dân số
khoảng 500 bản ghi,…. Ngoài ra, Trung tâm
thông tin khoa học thống kê đã xây dựng và
thường xuyên cập nhật cơ sở dữ liệu cộng
tác viên tờ Thông tin Khoa học Thống kê; cơ
sở dữ liệu cộng tác viên nghiên cứu khoa
học; cơ sở dữ liệu các bài viết, bài dịch
đăng trên tờ Thông tin Khoa học Thống kê
từ năm 1991 đến nay. Chính nhờ các cơ sở
dữ liệu trên nên hoạt động của Ban biên tập
nói riêng và công tác thông tin khoa học
ngày càng đi vào nề nếp.

Trước hết về ấn phẩm thông tin định kỳ
và các chuyên san, hàng năm đã bổ sung
thêm các ấn phẩm thông tin như tổng luận,
kỷ yếu kết quả nghiên cứu đề tài, thông báo
thư mục sách tạp chí. Các loại ấn phẩm trên
còn được đưa vào đĩa CD đưa lên trang
web của Tổng cục Thống kê để dễ dàng cho
việc tra cứu. Gần đây, Trung tâm Thông tin
Khoa học Thống kê đang xúc tiến ra tờ tin
phục vụ quản lý ngành Thống kê với đối
tượng phục vụ chủ yếu là lãnh đạo Tổng
cục, các Vụ, Viện và các Cục trưởng cục
thống kê tỉnh, thành phố.


Bước sang thiên niên kỷ mới, Ngành
Thống kê đang phấn đấu thực hiện định
hướng phát triển của ngành đến năm 2010 và
Luật Thống kê được Quốc Hội nước
CHXHCN Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ III
thông qua và có hiệu lực từ 1-1-2004, hoạt
động thông tin khoa học thống kê đã có
những chuyển biến tích cực theo các hướng
sau:
- Đa dạng hoá các loại ấn phẩm thông tin
- Tin học hoá công tác thông tin thư viện
- Đa dạng hoá các loại hình phổ biến
thông tin
- Đa dạng hoá các hình thức hoạt động
thông tin.
Thông tin Khoa học Thống kê

Cùng với việc đa dạng hoá sản phẩm
thông tin, nội dung từng bản tin cũng được
chú ý cải tiến và nâng cao chất lượng nhằm
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của bạn
đọc, đặc biệt là cán bộ nghiệp vụ của ngành.
Ngoài ra, trong những năm gần đây Trung
tâm Thông tin thường xuyên mở các buổi
toạ đàm trao đổi về hoạt động thông tin với
các đơn vị trong Tổng cục và các cục thống
kê địa phương cũng như cơ sở.
Đầu năm 2004, Tổng cục trưởng đã phê
chuẩn Đề án đổi mới hoạt động khoa học
thống kê và ngày 01-12-2004 đã có Quyết định

số 870 QĐ/TCTK quy định chức năng nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức của Viện Khoa học
Thống kê khẳng định lại nhiệm vụ của Trung
tâm thông tin khoa học thống kê như là trung
tâm thông tin khoa học đầu ngành.
Đây là những hành lang pháp lý để
tăng cường và đẩy mạnh hơn nữa hoạt
động thông tin khoa học thống kê trong thời
kỳ mới nhằm góp sức vào sự nghiệp đổi
mới ngành Thống kê.
Hai mươi lăm năm qua đi kể từ những
ngày đầu bỡ ngỡ, ngày nay Trung tâm
Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 11


thông tin khoa học thống kê đã có nhiều

rằng, mai sau những lớp người kế tiếp sẽ

bước phát triển tốt đẹp. Thành tích đó, trước

đẩy mạnh và phát triển hơn nữa hoạt động

hết nhờ sự quan tâm chỉ đạo của Lãnh đạo

thông tin khoa học thống kê, phấn đấu xây

Tổng cục, Viện Khoa học Thống kê và sự


dựng Trung tâm thông tin khoa học thống kê

hướng dẫn giúp đỡ của Trung tâm thông tin

vững về tổ chức, mạnh về cán bộ, đội ngũ

khoa học công nghệ quốc gia, cùng với sự

cộng tác viên đông đảo và đa dạng phong

phấn đấu bền bỉ của nhiều thế hệ cán bộ

phú về sản phẩm góp sức cùng toàn ngành

làm công tác thông tin. Trong dịp kỷ niệm 30

thực hiện thắng lợi định hướng phát triển

năm thành lập Viện, chúng ta sẽ có điều

ngành Thống kê đến năm 2010 và đưa Luật

kiện gặp gỡ những đồng nghiệp đã nghỉ hưu

Thống kê vào cuộc sống

hoặc chuyển đi đơn vị khác, cùng nhiều
cộng tác viên có nhiều đóng góp cho hoạt
động thông tin. Chúng ta có quyền huy vọng


CÔNG TÁC QUẢN LÝ KHOA HỌC CỦA NGÀNH THỐNG KÊ
Phạm Thành Đạo
Quyền trưởng phòng quản lý KH và ĐT

Quản lý khoa học có vai trò quan trọng
đối với việc định hướng và thúc đẩy các
hoạt động nghiên cứu khoa học. Cùng với
quá trình hình thành và phát triển của Viện
Khoa học Thống kê công tác quản lý khoa
học đã có những đóng góp thiết thực.
Những năm đầu mới thành lập Viện
Nghiên cứu Khoa học Thống kê và Thông
tin Kinh tế, trong quyết định số 105/TCTKQĐ ngày 9-10-1975 có đề cập tới công tác
quản lý khoa học, nhưng thời kỳ này việc
nghiên cứu tìm hiểu nghiệp vụ còn là trách
nhiệm của mỗi cán bộ thống kê chưa tách
thành một hoạt động riêng nên chưa hình
thành bộ phận quản lý khoa học, mặc dầu
phong trào nghiên cứu khoa học trong
ngành lúc này rất sôi nổi.
Năm 1980, sau khi tổ chức thành công
Hội nghị khoa học thống kê toàn quốc lần thứ
nhất, để hướng dẫn tổ chức phong trào

nghiên cứu khoa học trong cơ quan Tổng cục
đã hình thành ý tưởng xây dựng và phát triển
công tác quản lý khoa học. Đến tháng 101981, Chính phủ có Nghị định 217/CP tăng
cường và đẩy mạnh công tác quản lý khoa
học và theo nghị định này, ở các Bộ và cơ
quan ngang bộ thành lập Vụ quản lý khoa

học kỹ thuật, còn đối với cơ quan trực thuộc
Chính phủ thành lập Phòng quản lý khoa
học.
Quán triệt tinh thần Nghị định trên, lãnh
đạo Viện đã đề nghị Lãnh đạo Tổng cục
Thống kê thành lập bộ phận quản lý khoa
học ở Viện Nghiên cứu Khoa học Thống kê
và Thông tin Kinh tế nhằm giúp Lãnh đạo
Tổng cục xây dựng chương trình và kế
hoạch nghiên cứu khoa học thống kê từ
khâu xây dựng kế hoạch, đăng ký đề tài đến
tổ chức triển khai nghiên cứu, đánh giá
nghiệm thu các kết quả nghiên cứu. Lãnh
đạo chỉ đạo Viện sưu tầm hệ thống hoá các

Trang 12 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


văn bản pháp quy có liên quan và cử một
cán bộ theo dõi vấn đề này để đến thời điểm
chín muồi sẽ có quyết định chính thức về
mặt tổ chức.

Theo điều lệ trên, quản lý khoa học là
một trong 4 chức năng chủ yếu của Viện Khoa
học Thống kê và Phòng Quản lý Khoa học và
Đào tạo là một trong 3 đơn vị của Viện.

Chấp hành ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo

Tổng cục, Viện Khoa học Thống kê đã liên
hệ với Viện Quản lý Khoa học của Uỷ ban
Khoa học Kỹ thuật Nhà nước nay là Bộ
Khoa học và Công nghệ tìm hiểu các văn
bản pháp quy, cũng như kinh nghiệm tổ
chức hoạt động của các đơn vị quản lý khoa
học. Năm 1983 theo quyết định của Tổng
cục trưởng Tổng cục Thống kê chuyển Viện
Nghiên cứu Khoa học Thống kê và Thông
tin Kinh tế từ khu vực hành chính sang khu
vực sự nghiệp được nhà nước cấp toàn bộ
kinh phí lương và bộ máy cho hoạt động
khoa học. Viện đã hình thành bộ phận quản
lý khoa học gồm 4 cán bộ đồng thời Viện
cũng bắt đầu xây dựng kế hoạch nghiên
cứu khoa học bao gồm các đề tài cấp Nhà
nước, Tổng cục và cơ sở. Trong thời gian
này, Viện đã đề nghị Tổng cục cho thành lập
Hội đồng khoa học của Viện để tư vấn cho
Viện trưởng về 3 lĩnh vực: chương trình kế
hoạch nghiên cứu khoa học hàng năm và
năm năm; đánh giá nghiệm thu các đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Tổng cục và cơ
sở; kiến nghị đưa các kết quả nghiên cứu
vào áp dụng trong thực tế.

Thời kỳ 1996-2004 Phòng quản lý khoa
học và đào tạo vẫn kiêm nhiệm thêm chức
năng quản lý hành chính cho đến khi có
quyết định số 870/QĐ - TCTK ngày 1-122004 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống

kê quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức hoạt động của Viện Nghiên
cứu Khoa học Thống kê đã chia Phòng
quản lý khoa học và đào tạo thành 2 phòng:
Phòng quản lý khoa học và đào tạo và
Phòng tổ chức hành chính.

Năm 1984, lần đầu tiên ngành Thống
kê có kế hoạch nghiên cứu khoa học công
nghệ đồng bộ bao gồm nội dung nghiên cứu
và kinh phí thực hiện cho cả 3 cấp đề tài
Nhà nước, Tổng cục và cơ sở.
Thời kỳ 1985 - 1994 Phòng quản lý
khoa học kiêm nhiệm thêm chức năng quản
lý hành chính và hình thức này đã được thể
chế hoá trong quyết định số 98 TCTK/QĐ
ngày 12-7-1994 của Tổng cục trưởng Tổng
cục Thống kê phê duyệt Điều lệ về tổ chức
hoạt động của Viện Khoa học Thống kê.

Thông tin Khoa học Thống kê

Thực hiện đường lối đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế do Đại hội Đảng lần thứ VI
đề ra, ngành Thống kê đã thực hiện những
thay đổi cơ bản như: chuyển đổi phương
pháp thống kê từ MPS sang hệ thống tài
khoản quốc gia (SNA), thực hiện hàng loạt
các cuộc tổng điều tra và tăng cường điều
tra chọn mẫu, mở rộng công tác thống kê xã

hội,v.v,... đã làm cho hoạt động nghiên cứu
khoa học sôi nổi hơn bao giờ hết. Với vai trò
tổ chức và thúc đẩy phong trào nghiên cứu
khoa học, công tác quản lý khoa học cũng
đã đạt được những tiến bộ đáng kể:
+ Đã thực hiện được quy trình xây
dựng và bảo vệ kế hoạch nghiên cứu khoa
học hàng năm của ngành Thống kê. Việc
định hướng các nội dung nghiên cứu đã
bám sát các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước cũng như phương
hướng nhiệm vụ công tác của ngành trong
từng giai đoạn.
+ Nhiều vấn đề mới được đặt ra nghiên
cứu và đã huy động được đông đảo lực lượng
nghiên cứu trong và ngoài ngành tham gia.
+ Việc hướng dẫn xây dựng đề cương
và kế hoạch nghiên cứu, phân bổ kinh phí

Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 13


và lựa chọn chủ nhiệm đề tài cũng được cải
tiến và hoàn thiện hơn trước.

xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp

+ Về chế độ chi tiêu tài chính, trong
năm 1996 Viện còn phải vận dụng thông tư

số 49/TC-KHCN ngày 1-7-1995 về “Quy
định chế độ chi tiêu đối với hoạt động
nghiên cứu triển khai”, thì đến năm 1997
Viện Khoa học Thống kê đã cụ thể hoá các
nội dung và định mức chi áp dụng cho các
hoạt đông khoa học công nghệ của Tổng
cục Thống kê. Đến năm 1999, lần đầu tiên
Viện Khoa học Thống kê ban hành văn bản
số 15/KHTK-QĐ ngày 26 tháng 3 năm 1999
về “Hướng dẫn chế độ chi tiêu hoạt động
khoa học của Viện Khoa học Thống kê”.
Đến năm 2001, liên Bộ Tài chính - Bộ Khoa
học, Công nghệ và Môi trường ban hành
thông tư liên tịch số 45/2001/TTLT/BTCBKHCNMT ngày 18/6/2001 về “Hướng dẫn
một số chế độ chi tiêu đối với các nhiệm vụ
khoa học và công nghệ” và Viện Khoa học
Thống kê đã ký văn bản số 51/KHTK-QL
ngày 25-10-2001 về “Hướng dẫn chế độ chi
tiêu hoạt động KHCN của Viện Khoa học
Thống kê” để kịp thời triển khai cho các hoạt
động khoa học công nghệ trong ngành
Thống kê.

tháng 1 năm 2001 và nhất là sau khi có Nghị

+ Tất cả các đề tài đã được đánh giá
nghiệm thu một cách nghiêm túc theo đúng
quy định của Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường.
+ Đã biên soạn hệ thống hoá các kết

quả nghiên cứu hàng năm phục vụ cho cán
bộ nghiên cứu và các đối tượng khác tham
khảo. Từ năm 2000 đã thường xuyên cập
nhật các kết quả nghiên cứu đã hoàn thành
đưa lên trang web của Tổng cục để phục vụ
rộng rãi người sử dụng.
Từ năm 2000, sau khi Luật Khoa học
và Công nghệ số 21/2000/QH10 ngày
9/6/2000 đã được Quốc hội nước Cộng hòa

thứ 7 thông qua và có hiệu lực từ ngày 1
định số 81/2002/NĐ-CP ngày 17 tháng 10
năm 2002 Chính phủ "Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Khoa học và
Công nghệ”, công tác quản lý khoa học đã
được hoàn thiện thêm một bước:
+ Tất cả các đề tài nghiên cứu khoa
học đều được hoàn thiện đề cương chi tiết
trước Hội đồng xét duyệt đề cương và tuyển
chọn chủ nhiệm đề tài.
+ Các quy chế phục vụ cho công tác
quản lý khoa học được nghiên cứu và ban
hành bao gồm các quy chế như:
- Quyền hạn, trách nhiệm và tiêu chuẩn
của chủ nhiệm đề tài, thư ký đề tài và các
thành viên tham gia nghiên cứu.
- Quy chế lập và hoạt động của Hội
đồng xét duyệt đề cương và tuyển chọn chủ
nhiệm đề tài. Cơ cấu và tiêu chuẩn của các
thành viên hội đồng.

- Tiêu chuẩn lựa chọn nhiệm vụ nghiên
cứu, tiêu chuẩn phân loại các đề tài thành
đề tài trọng điểm, cấp tổng cục và cấp cơ
sở.
- Quy chế lập và hoạt động của Hội
đồng đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện
đề tài. Cơ cấu và tiêu chuẩn của các thành
viên hội đồng.
+ Thực hiện phương thức ký kết hợp
đồng cá nhân thực hiện từng phần nội dung
nghiên cứu: chủ nhiệm được quyền chủ
động lựa chọn các cá nhân ký kết hợp đồng
triển khai nghiên cứu và đánh giá nghiệm
thu kết quả thực hiện hợp đồng.
+ Kết quả nghiên cứu của các đề tài đã
được nghiệm thu đánh giá theo đúng quy
định của Nhà nước. Các đề tài nghiên cứu
cấp Tổng cục được nghiệm thu 2 lần: sơ bộ

Trang 14 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


và chính thức đã góp phần nâng cao đáng
kể chất lượng nghiên cứu.
Tất cả những kết quả trên đây đã được
Lãnh đạo Viện, cũng như Lãnh đạo ngành
đánh giá cao. Cụ thể trong báo cáo hai
mươi lăm năm xây dựng và phát triển Viện
Khoa học Thống kê, TS.Tăng Văn Khiên

Viện trưởng Viện Khoa học Thống kê đã
khẳng định: “Công tác quản lý và tổ chức
triển khai nghiên cứu đã từng bước được
cải tiến và hoàn thiện. Đã thực hiện được
quy trình xây dựng và bảo vệ kế hoạch hàng
năm và 5 năm của ngành Thống kê. Việc
định hướng nội dung nghiên cứu đã bám sát
các chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước cũng như phương hướng nhiệm
vụ công tác của ngành trong từng thời kỳ.
Việc hướng dẫn xây dựng đề cương, kế
hoạch nghiên cứu; phân bổ kinh phí; lựa
chọn ban chủ nhiệm đề tài và công tác tổ
chức đánh giá nghiệm thu kết quả đề tài
thực hiện nghiêm túc nên có tác dụng nâng
cao chất lượng nghiên cứu”
Đầu năm 2004, Tổng cục trưởng đã phê
chuẩn Đề án đổi mới hoạt động khoa học

thống kê và ngày 01-12-2004 đã có Quyết
định số 870 QĐ/TCTK quy định chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Viện
Khoa học Thống kê khẳng định lại nhiệm vụ
của Phòng quản lý khoa học và đào tạo: “Tổ
chức, quản lý hoạt động khoa học thống kê
trong toàn ngành, từ khâu xây dựng kế
hoạch đến triển khai nghiên cứu, theo dõi,
hướng dẫn thực hiện, tổ chức nghiệm thu,
đánh giá và kiến nghị đưa các kết quả nghiên
cứu vào ứng dụng trong thực tế”

Trong hai mươi ba năm hoạt động,
Phòng quản lý khoa học và đào tạo đã có
nhiều bước phát triển tốt đẹp. Thành tích
đó, trước hết nhờ sự quan tâm chỉ đạo
của Lãnh đạo Tổng cục, lãnh đạo Viện
Khoa học Thống kê và sự hướng dẫn
giúp đỡ của Bộ Khoa học và Công nghệ,
cùng với sự phấn đấu bền bỉ của nhiều
thế hệ cán bộ làm công tác quản lý khoa
học. Hy vọng trong thời gian tới hoạt
động quản lý khoa học sẽ hoàn thiện và
phát triển hơn nữa góp phần thực hiện
thắng lợi định hướng phát triển ngành
Thống kê đến năm 2010 

XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY TIỀM LỰC ĐỂ PHÁT TRIỂN
Nguyễn Xuân Tường
Nguyên Phó viện trưởng, Viện KHTK

Nhìn lại quãng đường đã qua, tổng kết
lại những gì đã làm được và chưa làm
được, rút ra những bài học kinh nghiệm để
tiếp tục vững bước tiến lên phía trước. Đây
là công việc thường làm trong những lần kỷ
niệm thành lập đơn vị sau những mốc thời
gian nhất định.
Trải qua 30 năm xây dựng và phát
triển, lịch sử của Viện đã ghi lại những sự
Thông tin Khoa học Thống kê


kiện trong những năm tháng hoạt động khoa
học của một đơn vị đảm nhận công tác khoa
học của ngành Thống kê để thấy rõ những
thành tựu đã đạt được từ những ngày đầu
thành lập đến hôm nay.
Hoạt động khoa học của ngành Thống
kê đã có từ ngay những ngày thành lập. Lúc
đó, do yêu cầu hoạt động nghiệp vụ đặt ra
trong việc xây dựng, cải tiến và không
Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 15


ngừng hoàn thiện công tác phương pháp
chế độ để có thể thực hiện tốt quá trình thu
thập, xử lý, tổng hợp và cung cấp thông tin
thống kê đáp ứng yêu cầu của các đối
tượng sử dụng ngành Thống kê đã tiến
hành công tác nghiên cứu khoa học. Tuy
vậy, hoạt động nghiên cứu chưa tập trung
thống nhất vào một đầu mối, chưa có bộ
phận chuyên trách đảm nhận công việc này.
Mãi đến năm 1976 sau khi giải phóng
Miền Nam thống nhất đất nước. Do yêu cầu
đòi hỏi ngày càng cao đối với công tác thống
kê, các điều kiện để thành lập một đơn vị
chuyên trách hoạt động khoa học của ngành
đã có làm tiền để cho việc thành lập Viện
Nghiên cứu Khoa học Thống kê trên cơ sở
hợp nhất các bộ phận đang có chức năng

và nhiệm vụ nghiên cứu cải tiến và hoàn
thiện từng bước các hoạt động nghiệp vụ
của ngành như tổ cải tiến quản lý; tổ toán
kinh tế; tổ biên soạn từ điển thống kê; phòng
thống kê nước ngoài,…
Ngay từ những năm đầu mới thành lập,
Viện Khoa học Thống kê đã nghiên cứu
từng bước làm rõ chức năng và nhiệm vụ
của đơn vị, luôn bám sát chức năng và
nhiệm vụ của ngành để vận dụng các vấn
đề lý luận và hoạt động thực tiễn của ngành
nhằm xác định những hướng nghiên cứu
phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ. Nội
dung nghiên cứu trong những năm đầu
thường tập trung vào các vấn đề có tính thời
sự trong ngành như: cải tiến phương pháp
điều tra thống kê cho phù hợp với điều kiện
thực tế trong công tác quản lý; cải tiến
phương pháp thu thập thông tin qua chế độ
báo cáo và điều tra; xây dựng hệ thống chỉ
tiêu phù hợp với điều kiện thực tế ở các đơn
vị báo cáo trong các ngành kinh tế; xây
dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp
huyện,… Từng bước hệ thống các đề tài
nghiên cứu của Viện được mở rộng và đa
dạng hơn. Nhiều đề tài mang tính chất đúc
kết lý luận chung của khoa học thống kê,

cũng có đề tài thiên về nghiên cứu vận dụng
vào thực tế. Tỷ trọng các đề tài dạng nghiên

cứu “cải tiến”; “từng bước hoàn thiện” ngày
càng cao, tính thực tế của công việc nghiên
cứu ngày càng nâng lên,… điều này đã dần
gây dựng được niềm tin và tăng sự hợp tác
của các cán bộ ở các vụ nghiệp vụ. Để nâng
cao chất lượng và hiệu quả của công tác
nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học Thống
kê luôn quan tâm tới việc xây dựng một đội
ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ được
đào tạo một cách có hệ thống về thống kê
và có khả năng nghiên cứu. Tuy vậy trong
thời kỳ đầu thành lập việc tách, nhập các
đơn vị vào Viện đều mang nặng tính chất
sắp xếp, rút gọn đầu mối tổ chức bộ máy
của Tổng cục, không vì mục đích tăng
cường năng lực cán bộ có trình độ chuyên
môn. Mỗi lần sáp nhập thêm là mỗi lần tỷ lệ
cán bộ chuyên môn về thống kê có khả
năng nghiên cứu lại giảm đi. Tình trạng này
đã kéo dài mãi đến năm 1994. Việc bố trí
cán bộ nghiên cứu như trên đã đưa đến vấn
đề xác định phương hướng và lựa chọn đề
tài nghiên cứu bị hạn chế, khả năng thực
hiện các đề tài nghiên cứu thấp. Thực trạng
này làm cho các vụ thống kê nghiệp vụ chưa
tin tưởng vào khả năng nghiên cứu của
Viện, cán bộ Viện lại không tiếp cận được
những vấn đề nghiệp vụ để cùng hợp tác
nghiên cứu giải quyết, tính thực tiễn của
công trình nghiên cứu không cao và việc

vận dụng vào thực tiễn càng khó khăn.
Những năm gần đây thực trạng nêu
trên đã từng bước được khắc phục. Để xây
dựng và phát triển Viện Khoa học Thống kê
đáp ứng được yêu cầu của xã hội trong tiến
trình đổi mới và hội nhập, một trong những
nhiệm vụ quan trọng của Viện đó là phải có
kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ khả
năng nghiên cứu và triển khai vào thực tế
các nội dung thiết thực của ngành Thống kê.
Hoạt động thông tin khoa học là một
lĩnh vực mà Viện Khoa học Thống kê đã
triển khai sớm và đã có ngay sản phẩm từ

Trang 16 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


những ngày đầu. Bản tin “Thống kê nước
ngoài” đã được tổ chức biên soạn và đăng
tải nhiều thông tin lý luận và thực tiễn của
thống kê các nước xã hội chủ nghĩa, của
thống kê khối SEV và một số nước khác. Sự
ra đời của tờ “Thông tin Khoa học Thống kê”
là một bước phát triển quan trọng của hoạt
động thông tin khoa học thống kê. Có thời
kỳ Viện còn chịu trách nhiệm biên soạn tờ
“Thông tin tư liệu dân số” - đây là những
hoạt động thông tin nhằm cung cấp được
nhiều thông tin có giá trị phục vụ yêu cầu

nghiên cứu khoa học cũng như công tác
nghiệp vụ của các đơn vị trong Tổng cục
Thống kê. Chất lượng các sản phẩm thông
tin ngày càng nâng cao, diện cung cấp trao
đổi thông tin ngày càng mở rộng, đây là
những thành tích rất đáng ghi nhận trong
hoạt động của Viện. Để thúc đẩy hơn nữa
hoạt động thông tin khoa học của Viện một
vấn đề còn khó khăn là kinh phí hoạt động
thông tin có hạn, việc bổ sung tăng cường
nguồn tư liệu khoa học thống kê chưa được
tập trung quản lý thống nhất, bị phân tán, bỏ
phí ở nhiều nơi trong các vụ nghiệp vụ cũng
như các cục thống kê trong toàn ngành.
Trong thời kỳ đầu công tác quản lý
khoa học là một hoạt động thành công nhất
của Viện, những ngày đầu công việc này
chưa được đặt ra đúng mức do nhiều
nguyên nhân trước hết do kinh phí hoạt

động khoa học chưa có gì đáng kể, việc
phân bổ cấp phát kinh phí cho các đề tài còn
đơn giản, việc lập kế hoạch hàng năm chưa
phức tạp,.. nhưng cùng với thời gian hoạt
động này luôn luôn được cải tiến cho phù
hợp với điều kiện phát triển chung của hoạt
động khoa học trong Tổng cục và của Viện.
Công tác xây dựng kế hoạch khoa học
hàng năm của Tổng cục do Viện chủ trì và
theo dõi đã dần dần đi vào nề nếp và không

ngừng đổi mới từ việc xác định hệ thống đề
tài các cấp, đến việc tổ chức hợp tác nghiên
cứu giữa Viện và các đơn vị trong và ngoài
Tổng cục đã có những tiến bộ rõ rệt và đem
lại những hiệu quả đáng ghi nhận. Đây là
một bước trưởng thành rất lớn của Viện kể
từ ngày thành lập đến nay tuy cũng có
những khó khăn nhất định trong công tác
quản lý khoa học cần được khắc phục để
góp phần đưa các hoạt động của Viện tiến
lên một bước mới.
Nhìn lại những kết quả đã đạt được
chúng ta có quyền tự hào về sự phát triển đi
lên của Viện do tập thể cán bộ công nhân
viên của Viện Khoa học Thống kê qua bao
thế hệ đã vượt qua mọi khó khăn để có thể
hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao và từng
bước trưởng thành, đồng thời cũng nhận
thức và đánh giá đúng tiềm lực thực tế của
Viện hiện nay để tự tin bước vào giai đoạn
mới

Nghiên cứu khoa học với kết quả

đổi mới phương pháp luận thống kê công nghiệp
Vũ Văn Tuấn
Vụ trưởng Vụ TK Công nghiệp và Xây dựng

Hoà


trong sự nghiệp đổi mới chung
của ngành Thống kê, lĩnh vực thống kê công
nghiệp đã thực hiện những nội dung đổi mới
rất căn bản về phương pháp luận:
Thông tin Khoa học Thống kê

- Mở đầu là tinh giản hệ thống chỉ tiêu
và biểu mẫu báo cáo. Qua hai lần thay đổi
chế độ báo cáo cơ sở vào năm 1986 và
năm 1994, số chỉ tiêu thu nhập tại cơ sở đã
Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 17


giảm từ 62 chỉ tiêu xuống còn 45 chỉ tiêu và
sau năm 1994 chỉ còn 38 chỉ tiêu. Những chỉ
tiêu thống kê chỉ phục vụ quản lý vi mô của
cơ sở đã cơ bản được loại bỏ như: Sử dụng
thời gian lao động, sử dụng công suất và
thời gian thiết bị máy móc, tỷ lệ sản phẩm
hỏng, phân phối lợi nhuận.. Đặc biệt là biểu
mẫu báo cáo đã được tinh giản đến mức tối
đa từ 39 biểu baó cáo theo quyết định số
233/CP của Chính phủ xuống còn 21 biểu
theo quyết định số 13/TCTK của Tổng cục
trưởng Tổng cục Thống kê và còn 4 biểu
theo quyết định số 147/TCTK ban hành năm
1994 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống
kê.
- Tiếp theo là đổi mới về phương pháp

tính một số chỉ tiêu thống kê cơ sở và tổng
hợp cho phù hợp với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và đảm bảo
tính so sánh quốc tế (theo các chuẩn mực
của thống kê công nghiệp Liên Hợp Quốc)
cụ thể là chuyển phương pháp tính các chỉ
tiêu tổng hợp theo phương pháp luận của
hệ thống bảng cân đối vật chất (MPS) sang
phương pháp luận của hệ thống tài khoản
Quốc gia (SNA). Nội dung này chủ yếu
được thực hiện từ năm 1994 đến trước năm
2000.
- Từ năm 2000 đến nay trọng tâm là đổi
mới tổ chức thu thập và xử lý tổng hợp
thông tin, đồng thời tiếp tục hoàn thiện hệ
thống chỉ tiêu, phương pháp tính phù hợp
với cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường
trong nước và theo đúng chuẩn mực thống
kê công nghiệp Quốc tế.
Có thể nói trong gần 20 năm đổi mới
thống kê công nghiệp, kết quả căn bản nhất,
lớn lao nhất là bước đầu đã chuyển từ nền
thống kê phục vụ kế hoạch hoá tập trung
bao cấp sang thống kê phục vụ quản lý vĩ
mô nền kinh tế thị trường và tham gia vào
niên giám thống kê hàng năm của tổ chức
phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc
(UNIDO). Trong mỗi bước đi, mỗi thành

công trong đổi mới và mỗi kết quả đem lại

bằng chất lượng của thông tin thống kê
công nghiệp được nâng lên, đều in đậm dấu
ấn của hoạt động nghiên cứu khoa học
thống kê, hoặc là gợi mở hướng đi, hướng
đổi mới trong các đề tài nghiên cứu về dự
báo, điều tra mẫu, phân tích vĩ mô,... Hoặc
là trợ giúp trực tiếp cho cải tiến đổi mới hệ
thống chỉ tiêu và phương pháp tính toán như
các đề tài nghiên cứu về phương pháp luận.
Không chỉ có 20 năm đổi mới (19862005) mà trước đó những năm 1976-1986,
hoạt động nghiên cứu khoa học thống kê đã
gắn với cải tiến nghiệp vụ thống kê công
nghiệp. Trong những năm đầu thống nhất
đất nước, chế độ báo cáo thống kê công
nghiệp được thực hiện ở Miền bắc trước đó
đem áp dụng cho cả nước, vì thế đã có
những bất cập nảy sinh và đề tài “Nghiên
cứu cải tiến phương pháp tính giá trị sản
xuất ngành công nghiệp” đã giúp sửa đổi
được một số yếu tố bất hợp lý theo quy
định trước đây như: Tính trùng theo quy
định đặc biệt, tính chênh lệch sản phẩm dở
dang, tính theo giá chế biến đối với giá trị
sản xuất theo giá cố định...
Trong những năm đổi mới, số đề tài
nghiên cứu khoa học có điều kiện tăng nhanh
và đã góp phần lớn hơn cho quá trình đổi mới
phương pháp luận thống kê công nghiệp như
đã nói ở trên. Tổng số 8 đề tài nghiên cứu
khoa học mà Vụ Công nghiệp thực hiện

nghiên cứu, cùng với một số đề tài nghiên
cứu khác đã hỗ trợ trực tiếp vào đổi mới
nghiệp vụ Thống kê Công nghiệp ở các lĩnh
vực khác nhau, nổi bật là các đề tài ứng dụng
vào đổi mới chỉ tiêu và phương pháp tính.
Chùm đề tài nghiên cứu về các phương
pháp tính giá trị sản xuất theo giá so sánh,
tính chỉ số khối lượng trong Công nghiệp và
sử dụng chỉ tiêu giá trị tăng thêm để đánh
giá tăng trưởng Công nghiệp đã giúp cho
việc hoàn thiện hơn phương pháp tính chỉ
số phát triển Công nghiệp cũng như tính

Trang 18 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


chính xác hơn các chỉ tiêu thuộc tài khoản
sản xuất của ngành Công nghiệp.
Đề tài xây dựng bảng danh mục sản
phẩm công nghiệp đã đặt nền móng cho sự
ra đời bảng danh mục sản phẩm công
nghiệp gồm nhiều sản phẩm nhất từ trước
đến nay (1.200 sản phẩm có mã số, đơn vị
tính được dựa trên bảng phân loại sản
phẩm chuẩn Quốc tế CPC).
Đề tài nghiên cứu xây dựng bảng cân
đối thống kê năng lượng ở Việt nam là nền
tảng cơ sở lý luận và xây dựng nên những
nguyên tắc, cấu trúc cơ bản cho công tác

thống kê năng lượng ở nước ta.
Chùm đề tài về hệ thống chỉ tiêu thống
kê, điều tra chọn mẫu, dự báo kinh tế... đã
cung cấp những lý luận và thực tiễn cho
ứng dụng vào đổi mới tổ chức điều tra thống
kê, ứng dụng phần mềm tin học vào xử lý
tổng hợp và từng bước hoàn thiện hệ thống
chỉ tiêu thống kê công nghiệp phục vụ
đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động nghiên
cứu khoa học đã từng bước gắn với thực
tiễn, có hiệu quả, có tính khả thi được thể
hiện khá rõ nét trong quá trình đổi mới và
hội nhập với thống kê Quốc tế của thống kê
Công nghiệp. Có thể nói kết quả của đổi mới
thống kê Công nghiệp 30 năm qua, nhất là
trong 10 năm gần đây có một phần đóng
góp quan trọng của nghiên cứu khoa học
thống kê và ngược lại chính trong công việc
đổi mới và hoàn thiện phương pháp luận đã
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên
cứu khoa học thống kê có nhiều đề tài có
giá trị ứng dụng cao, đạt loại khá, giỏi và
xuất sắc, đó cũng là hình ảnh của 30 năm
trưởng thành và không ngừng phát triển của
Viện Khoa học Thống kê và đã tự khẳng
định sự cần thiết và vai trò không thể thiếu
đối với hoạt động chuyên môn nghiệp vụ
của thống kê toàn ngành.


Thông tin Khoa học Thống kê

Với ý nghĩa đó, mặc dù công tác nghiên
cứu khoa học thống kê trong những năm
qua còn yếu kém này, bất cập nọ, nhưng đó
không phải là cơ bản. Cái cơ bản là đã xác
định được hướng đi đúng, có định hướng
phát triển rõ ràng, các đề tài nghiên cứu
ngày càng có hiệu quả hơn, thiết thực hơn
đã đóng góp một phần quan trọng vào đổi
mới phương pháp luận thống kê của nhiều
lĩnh vực, trong đó thống kê Công nghiệp
được nói ở trên chỉ là một lĩnh vực chuyên
ngành cụ thể.
Tuy nhiên, không bao giờ sự vật lại
đứng im và công việc của một tổ chức, một
ngành lại chỉ dừng lại ở đó, bởi vậy đòi hỏi
của sự nghiệp đổi mới công tác thống kê đặt
ra cho hoạt động nghiên cứu khoa học
thống kê không chỉ phát triển về số lượng đề
tài, mà phải tiếp tục đổi mới về tổ chức
nghiên cứu và ứng dụng với nghĩa rộng từ
khâu định hướng và tuyển chọn đề tài đến
tổ chức nghiên cứu, đánh giá nghiệm thu và
đặc biệt là ứng dụng kết quả nghiên cứu
của đề tài.
Định hướng và tuyển chọn đề tài
nghiên cứu hàng năm là hết sức quan trọng,
cần phải căn cứ vào “Đơn đặt hàng” từ
nhiệm vụ chính trị hàng năm và mục tiêu

chiến lược phát triển của toàn ngành để xác
định các đề tài nghiên cứu lớn, quan trọng
có tính then chốt cho đổi mới công tác của
ngành và các đề tài giải quyết từng lĩnh vực
để đảm bảo tính đồng bộ trong việc thực
hiện các nhiệm vụ chung, nhất là những
nhiệm vụ đòi hỏi đổi mới thuộc về phương
pháp luận, các thông tin tổng hợp của nền
kinh tế, ứng dụng công nghệ thông tin....
Khi đã có định hướng rõ ràng, việc
tuyển chọn đề tài cũng hết sức quan trọng,
đảm bảo cho đề tài đúng với địa chỉ thực
hiện và đơn vị thực hiện có đủ điều kiện và
năng lực để hoàn thành tốt nhất nội dung
nghiên cứu của đề tài. Những vấn đề trên
vừa qua chưa được thể hiện rõ ràng trong
Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 19


việc đăng ký và tuyển chọn đề tài nghiên
cứu khoa học hàng năm.
Tổ chức triển khai, nghiên cứu một
cách khoa học, hợp lý cũng cần được quan
tâm. Vì trong thực tế có nội dung nghiên
cứu liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều
người có am hiểu về mỗi chuyên ngành
khác nhau. Nếu tổ chức nghiên cứu không
tập hợp được tất cả trí tuệ và thực tiễn của
các lĩnh vực khác nhau, thì kết quả nghiên

cứu chắc chắn sẽ phiến diện và lý thuyết
chung chung. Thực tế những năm qua
không ít đề tài đã tổ chức triển khai chưa
hợp lý, kết quả rất hạn chế và phiến diện.
Đánh giá nghiệm thu đề tài càng
nghiêm túc, chính xác thì càng có tác dụng
nâng cao chất lượng nghiên cứu của đề tài,
muốn vậy thì vấn đề quan trọng hàng đầu là
lựa chọn thành viên hội đồng phải là những

người có sự hiểu biết về lý luận và thực tiễn
ở trình độ nhất định về lĩnh vực nghiên cứu
của đề tài, tránh tình trạng thành viên hội
đồng chưa có kiến thức tối thiểu hoặc chưa
qua thực tiễn về lĩnh vực đó.
Cuối cùng là việc ứng dụng kết quả
nghiên cứu của đề tài, hầu hết các đề tài
nghiên cứu khoa học của ngành Thống kê
đã có địa chỉ ứng dụng rõ ràng là ngành
Thống kê. Bởi vậy khi đề tài đã hoàn thành,
cần có kế hoạch triển khai ứng dụng cụ thể,
cần quan tâm đến các điều kiện ứng dụng
như tổ chức thử nghiệm, tạo lập cơ sở pháp
lý, chỉ rõ địa chỉ ứng dụng, nguồn nhân lực,
tài chính cho triển khai... để hạn chế tối thiểu
các đề tài nghiên cứu xong nhưng không
được đưa vào ứng dụng trong thực tế, đó
cũng là nâng cao hiệu quả của hoạt động
nghiên cứu khoa học thống kê


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VỚI CÔNG TÁC
PHƯƠNG PHÁP CHẾ ĐỘ THỐNG KÊ
Trần Đào

Cần phải khẳng định ngay là ít có công
tác nào mà có quan hệ chặt chẽ và trực tiếp
với công tác nghiên cứu khoa học thống kê
như công tác phương pháp chế độ thống kê.
Bằng chứng là những kết quả luôn đạt được
trong lĩnh vực phương pháp chế độ thống kê
trong thời gian qua đều có sự đóng góp tích
cực của công tác nghiên cứu khoa học
thống kê. ở đây chỉ có thể nêu lên những kết
quả lớn nhất và gần đây nhất.
Hãy bắt đầu từ Luật Thống kê - văn bản
pháp luật cao nhất về công tác thống kê.
Ngay sau khi có chỉ thị 28/TTg ngày 28-81998 của Thủ tướng chính phủ giao cho
ngành Thống kê tổng kết 10 năm thi hành
Pháp lệnh kế toán Thống kê và xây dựng
Luật Thống kê, từ năm 1999, đề tài khoa

học về Luật Thống kê đã được nghiên cứu.
Chuyên san “sự cần thiết và những nội dung
chủ yếu của Luật Thống kê” được phát
hành, nhiều cuộc hội thảo khoa học đã được
tiến hành và nhiều bài như: Tổng kết 10
năm thi hành Pháp lệnh kế toán - thống kê,
về sự cần thiết và những nội dung chủ yếu
của Dự án Luật thống kê Việt Nam… đã
được đăng trên Tờ Thông tin Khoa học

Thống kê. Đề tài, các cuộc hội thảo, các bài
viết có tính khoa học đã góp phần quan
trọng vào việc thiết kế các nội dung chủ yếu
của Dự án luật Thống kê, đặc biệt là mô
hình tổ chức thống kê mà Việt Nam cần lựa
chọn; các khâu chủ yếu của hoạt động
thống kê đến công bố, sử dụng thông tin
thống kê; tổ chức thống kê và vai trò của tổ
chức tập trung…

Trang 20 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


Một lĩnh vực quan trọng là hệ thống chỉ
tiêu thống kê quốc gia, một nội dung đầu
tiên được quy định trong Luật Thống kê.
Ngay khi chuẩn bị thông qua Dự án Luật
thống kê, một đề tài cấp Tổng cục đã được
tiến hành nghiên cứu, có sự tham gia của
nhiều vụ trong Tổng cục. Đề tài đã giúp cho
việc nghiên cứu nhiều vấn đề, như: sự cần
thiết của hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia;
những nguyên tắc và những yêu cầu chủ
yếu của việc xác định hệ thống chỉ tiêu
thống kê quốc gia; những nội dung chủ yếu
của hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia (tên
chỉ tiêu, những phân tổ chủ yếu, kỳ hạn
cung cấp, phân công cơ quan chủ trì phối
hợp). Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia

đang được hoàn thiện để trình Thủ tướng
Chính phủ ký quyết định ban hành, phục vụ
các cơ quan nhà nước trong việc đánh giá,
dự báo tình hình, hoạch định chiến lược,
chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu thông tin
thống kê của các tổ chức, cá nhân khác
trong nước và quốc tế. Hệ thống chỉ tiêu
thống kê quốc gia là cơ sở để phân công,
phối hợp trong hoạt động thống kê, xây
dựng chương trình điều tra thống kê quốc
gia, xây dựng chế độ báo cáo thống kê tổng
hợp, chế độ báo cáo thống kê cơ sở, công
bố thông tin thống kê… vấn đề quan trọng
tiếp theo là phải quy định khái niệm, nội
dung, phương pháp tính, nguồn số liệu,
phương thức thu thập từng chỉ tiêu để bảo
đảm sự thống nhất trong phạm vi cả nước.
Một đề tài cấp cơ sở đã tạo thêm điều kiện
để thực hiện nội dung này.
Một lĩnh vực quan trọng khác là chế độ
báo cáo thống kê tổng hợp do Thủ tướng
Chính phủ ban hành áp dụng đối với các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính
phủ. Đây là một trong 2 kênh thông tin quan
trọng được tổng hợp chủ yếu từ hồ sơ hành
chính của các lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
giáo dục, y tế, xuất nhập khẩu hàng hoá,
văn hoá, thông tin, thể thao… mà kênh
Thông tin Khoa học Thống kê


thông tin từ hệ thống thống kê ngành dọc
khó đáp ứng được, mà phải dựa vào kênh
Bộ, ngành mới thực hiện được. Để thực
hiện được công việc này, một đề tài cấp cơ
sở đã giúp cho việc nghiên cứu sự cần thiết
phải ban hành, những nguyên tắc và yêu
cầu của việc xây dựng chế độ báo cáo áp
dụng đối với Bộ, ngành, phương hướng của
việc ban hành…
Cùng với việc nghiên cứu xây dựng
chế độ báo cáo thống kê tổng hợp áp dụng
đối với các Bộ, ngành là việc nghiên cứu
xây dựng chương trình điều tra thống kê
quốc gia. Căn cứ vào hệ thống chỉ tiêu
thống kê quốc gia và chế độ báo cáo thống
kê tổng hợp của Nhà nước, Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao đưa ra các cuộc điều tra thống kê dự
kiến tiến hành; Tổng cục Thống kê tổng
hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định
chương trình điều tra thống kê quốc gia dài
hạn và hàng năm. Chương trình điều tra
thống kê quốc gia được ban hành bao gồm:
Danh mục các cuộc điều tra, thời kỳ, thời
điểm điều tra, cơ quan chủ trì, cơ quan phối
hợp thực hiện, dự toán kinh phí và nguồn
kinh phí điều tra. Để xây dựng chương trình
điều tra thống kê quốc gia, ngoài hệ thống

chỉ tiêu thống kê quốc gia, chế độ báo cáo
thống kê tổng hợp của Nhà nước, còn phải
căn cứ vào từng chỉ tiêu, căn cứ vào đối
tượng thu thập thông tin để quyết định chỉ
tiêu nào, đối tượng nào thì thực hiện chế độ
báo cáo thống kê cơ sở, còn chỉ tiêu nào,
đối tượng nào thì thực hiện bằng điều tra
thống kê. Điều tra thống kê để thu thập
những thông tin thống kê từ các tổ chức, hộ
gia đình và cá nhân trong các trường hợp
sau: để thu thập những thông tin thống kê từ
các tổ chức không phải thực hiện chế độ
báo cáo thống kê; để bổ sung thông tin từ
các tổ chức có thực hiện chế độ báo cáo
thống kê; để thu thập những thông tin từ hộ
hoặc cơ sở kinh doanh cá thể, hộ gia đình,
Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 21


cá nhân. Đề tài khoa học cấp Tổng cục về
chương trình điều tra thống kê quốc gia đã
góp phần nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở
thực tiễn để có thể cân đối thống nhất nhu
cầu điều tra của các Bộ, ngành, các vụ
nhằm kế hoạch hoá các cuộc điều tra, tránh
sự trùng chéo và có kế hoạch chủ động
trong việc thẩm định phương án điều tra do
các Bộ, ngành chuyển đến.
Bên cạnh hệ thống chỉ tiêu thống kê

quốc gia, chế độ báo cáo thống kê tổng hợp,
chương trình điều tra thống kê quốc gia, theo
quy định của Luật Thống kê, còn có một loạt
bảng phân loại thống kê mà Tổng cục Thống
kê chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành xây
dựng trình thủ tướng Chính phủ ban hành,
đó là: Bảng hệ thống ngành kinh tế quốc dân,
bảng danh mục đơn vị hành chính, bảng
danh mục dân tộc, bảng danh mục giáo dục,
đào tạo, các bảng phân loại thống kê khác áp
dụng chung cho nhiều ngành, lĩnh vực. Một
số đề tài khoa học cấp Tổng cục và cấp cơ
sở đã nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực
tiễn về bảng hệ thống ngành kinh tế quốc
dân, bảng danh mục sản phẩm chủ yếu,
bảng danh mục giáo dục đào tạo, bảng phân
loại loại hình kinh tế

Xây dựng cơ sở dữ liệu doanh nghiệp
có vai trò quan trọng và có ý nghĩa thiết thực
làm cơ sở cung cấp các thông tin phục vụ
cho việc xác định số lượng doanh nghiệp
theo thành phần kinh tế, theo ngành kinh tế,
theo địa bàn, làm cơ sở lập dàn chọn mẫu
trong điều tra thống kê… Để xây dựng được
cơ sở dữ liệu doanh nghiệp, một đề tài cấp
tổng cục được tiến hành nghiên cứu. Đề tài
đã cung cấp cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn,
các nguyên tắc của việc phân loại.
Ngoài các lĩnh vực trực tiếp liên quan

đến phục vụ Phương pháp chế độ thống kê,
còn rất nhiều đề tài khoa học cấp Tổng cục
hoặc cấp cơ sở nghiên cứu đến công tác
phương pháp chế độ của các vụ chuyên
ngành khác, như các lĩnh vực dân số lao
động, công nghiệp, thương mại giá cả, nông
lâm nghiệp - thuỷ sản, xã hội - môi trường,
tài khoản quốc gia…
Nét đặc biệt của các đề tài nghiên cứu
khoa học có liên quan đến lĩnh vực phương
pháp chế độ thống kê thường đưa đến kết
quả là các văn bản pháp quy ra đời, do đó
có ý nghĩa thực tiễn rất lớn

TRUNG TÂM TƯ LIỆU THỐNG KÊ

phổ biến thông tin hoạt động khoa học ngành Thống kê
Nguyễn Bá Khoáng
Giám đốc Trung tâm Tư liệu Thống kê

Phổ biến thông tin thống kê là một trong
những chức năng nhiệm vụ chủ yếu của
Trung tâm Tư liệu Thống kê. Bên cạnh việc
phổ biến thông tin phản ánh tình hình kinh tế xã hội, mảng thông tin về hoạt động khoa học
của ngành Thống kê có vị trí quan trọng.
Phổ biến hoạt động khoa học thống kê
nhằm mục đích:

Thứ nhất: Giới thiệu với người dùng tin
những danh mục các đề tài khoa học do

ngành Thống kê đã thực hiện trong những
năm gần đây.
Thứ hai: Là cầu nối giữa người dùng tin
có quan tâm đến các hoạt động khoa học
thống kê với cơ quan quản lý đề tài khoa học
(Viện Khoa học Thống kê) nói chung và từng

Trang 22 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


chủ nhiệm hoặc ban nghiên cứu đề tài nói
riêng.
Thứ ba: Trung tâm Tư liệu Thống kê là
một trong những đơn vị có chức năng phổ
biến thông tin thống kê, có điều kiện nắm
bắt và phát hiện những nội dung trong hoạt
động thống kê cần giải quyết, nhằm đáp
ứng tốt hơn nhu cầu thông tin thống kê của
người dùng tin.

học Thống kê từ số 1/2004 tới nay. Khi truy
cập các số thông tin khoa học, căn cứ vào
danh mục các bài của từng số, người dùng
tin có thể truy cập đọc, download các bài
viết trong các số thông tin khoa học. Cụ thể:
Thông tin Khoa học số 1/2004 có 13 bài;
Thông tin Khoa học Thống kê số 5/2004 có
10 bài; Thông tin Khoa học Thống kê số
6/2004 có 9 bài;


Thực hiện những mục tiêu trên, Trung
tâm Tư liệu Thống kê đã phối hợp với Viện
Khoa học Thống kê bố trí chuyên mục “Hoạt
động khoa học Thống kê” trên trang tin điện
tử, kết nối Internet của Tổng cục Thống kê.

Chuyên san Thống kê vốn đầu tư có 10
bài; Thông tin Khoa học Thống kê số 1/2005
có 9 bài; Chuyên san Công nghệ thông tin
có 16 bài; Thông tin Khoa học Thống kê số
2/2005 có 8 bài.

Kết cấu chương mục hoạt động khoa
học thống kê trên website gồm hai mục: (1)
Đề tài khoa học thống kê và (2) Thông tin
khoa học thống kê.

Nhìn chung, việc lựa chọn và giới thiệu
các số Thông tin khoa học thống kê và các
chuyên san đã cung cấp cho người dùng tin
những vấn đề cấp bách trong công tác
thống kê phải giải quyết cả về lý luận và
thực tiễn, nó giúp cho các cán bộ thống kê
đang thực hiện các nhiệm vụ đổi mới và
nâng cao chất lượng hoạt động của thông
tin thống kê những gợi mở hữu ích, giúp cho
người làm thống kê nắm được những định
hướng cơ bản và giải quyết một số vấn đề
còn vướng mắc trong quá trình phát triển

của ngành Thống kê Việt Nam.

Mục đề tài khoa học: website đưa
thông tin về danh mục các đề tài đã thực
hiện từ năm 1998 đến năm 2003 gồm: 15 đề
tài năm 1998; 8 đề tài năm 1999; 18 đề tài
năm 2000; 20 đề tài năm 2001; 16 đề tài
năm 2002 và 21 đề tài năm 2003.
Từ các trang danh mục đề tài hàng năm,
người dùng tin có thể truy cập sâu hơn vào
từng đề tài khoa học, các trang liên kết sẽ giới
thiệu cụ thể nội dung từng đề tài gồm:
* Mã số
* Tên đề tài
Nội dung của đề tài: Theo cấu trúc từng phần
- Thực trạng và tính cấp thiết của đề tài.
- Cơ sở lý luận và phương pháp luận
của đề tài.
- Những nội dung có tính khoa học và
thực tiễn mà đề tài đã nghiên cứu.
- Kết luận và kiến nghị trong việc vận
dụng đề tài vào thực tiễn.
Mục thông tin khoa học: website đã
giới thiệu nội dung các số Thông tin Khoa
học hoặc chuyên san của tờ Thông tin Khoa
Thông tin Khoa học Thống kê

Hoạt động phối hợp giữa Trung tâm Tư
liệu phối hợp với Viện Khoa học Thống kê
trong việc phổ biến thông tin khoa học mới

chỉ là bước đầu. Để ngành Thống kê đổi
mới đúng hướng và nhanh chóng, việc phổ
biến thông tin khoa học thống kê phải được
tăng cường nhiều hơn cả về bề rộng và
chiều sâu cụ thể là:
- Viện Khoa học Thống kê cần xây
dựng cơ sở dữ liệu về hoạt động khoa học.
Trên cơ sở dữ liệu về hoạt động khoa học,
Trung tâm Tư liệu có trách nhiệm giới thiệu
để người dùng tin có thể kết nối, truy cập
vào cơ sở dữ liệu này tới từng nội dung cụ
thể của các đề tài nghiên cứu khoa học đã
được nghiệm thu.

Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 23


- Trên mục hỏi và đáp của website cần
chuẩn bị nội dung phổ biến và trả lời những
vấn đề khoa học có tính cấp bách mà thực
tế đang đặt ra.
- Sử dụng website vào điều tra ý kiến
người dùng tin nhằm cải tiến hình thức và
nội dung phổ biến thông tin ngày càng sát

thực hơn nhu cầu phổ biến thông tin khoa
học thống kê.
- Trong tổ chức thực hiện xây dựng thư
viện tư liệu thống kê cần thu thập hệ thống

hóa tư liệu sâu về hoạt động khoa học để
người dùng tin có thể khai thác và sử dụng
thuận tiện tại thư viện hay trên mạng

VAI TRÕ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VỚI

NGHIỆP VỤ THỐNG KÊ NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THUỶ SẢN
Nguyễn Hoà Bình
Vụ TK Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản
quá trình triển khai nghiệp vụ
Thống kê Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản,
Vụ Thống kê Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản
luôn kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu
khoa học với giải quyết các vấn đề nghiệp
vụ chuyên môn nảy sinh trong thực tiễn hoạt
động của ngành. Từ nhiều năm qua được
sự quan tâm của Tổng cục, về tổ chức
nghiên cứu khoa học Vụ đã kết hợp chặt
chẽ với Viện Khoa học Thống kê triển khai
nhiều đề tài nghiên cứu khoa học (cấp Tổng
cục và cơ sở) cũng như phối hợp tổ chức
các cuộc hội thảo khoa học và khảo sát thực
tế để từng bước giải quyết nhiều vấn đề
nghiệp vụ trong công tác thống kê nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản. Kết quả gắn bó giữa
công tác nghiên cứu khoa học với triển khai
nghiệp vụ thống kê nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản những năm qua được thể hiện như
sau:


Trong

1. Nghiên cứu cải tiến chế độ báo cáo và
hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Qua phối hợp nghiên cứu với Viện
Khoa học Thống kê, chế độ báo cáo và hệ
thống chỉ tiêu thống kê nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản ban hành cho cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương từ năm 1990 đến
nay đã 2 lần được nghiên cứu cải tiến bổ

sung và hoàn thiện. Lần thứ nhất là quá
trình nghiên cứu bổ sung hệ thống chỉ tiêu
thống kê nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
chuyển đổi từ cơ kế hoạch hoá tập trung,
ban hành theo quyết định số: 168/TTg của
Thủ tướng Chính phủ sang hệ thống chỉ tiêu
đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trên cơ sở kết quả đánh giá của đề
tài về thực trạng hệ thống chỉ tiêu thống kê
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ban hành
trong thời kỳ bao cấp trước đó và những
nhu cầu thông tin mới về nông, lâm nghiệp
và thuỷ sản trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Vụ Thống kê Nông,
lâm nghiệp và Thuỷ sản đã nghiên cứu cải
tiến lại hệ thống chỉ tiêu và trình Tổng cục
ban hành chế độ báo cáo và điều tra theo

quyết định số 300 TCTK/NLTS của Tổng
cục trưởng TCTK ngày 19-7-1996 thay cho
chế độ báo cáo ban hành theo quyết định
số: 195/TCTK/NN của Tổng cục trưởng
TCTK ngày 4-12-1990. Sau 6 năm thực
hiện, trên cơ sở đề tài “Nghiên cứu hoàn
thiện hệ thống chỉ tiêu và chế độ báo cáo
thống kê Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản”
(năm 2001) hệ thống chỉ tiêu thống kê nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản lại một lần nữa được
nghiên cứu cải tiến và trình Tổng cục ban
hành theo quyết định số: 657/2002/QĐ-

Trang 24 - Thông tin Khoa học Thống kê - Viện Khoa học Thống kê - 30
năm một chặng đường


TCTK ngày 02/10/2002 của Tổng cục
trưởng TCTK. Chế độ báo cáo cải tiến năm
2002 đã có những cải tiến rất cơ bản: vừa
loại bỏ những chỉ tiêu báo cáo trùng lắp
giữa các kênh thông tin trong nội bộ Tổng
cục cũng như giữa TCTK với các Bộ ngành
liên quan (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Tổng cục Địa chính nay là Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Thuỷ sản,...)
hoặc bỏ những chỉ tiêu thông tin đã lạc hậu
so với thực tiễn; vừa bổ sung những chỉ tiêu
thống kê về những cây con, giống mới, sản
phẩm mới phát sinh trong nền kinh tế thị

trường, nhất là các chỉ tiêu giá trị đánh giá
chất lượng và hiệu quả kinh tế của quá trình
sản xuất, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, con gia súc như: giá trị sản phẩm trên
1 đơn vị diện tích đất nông nghiệp và thuỷ
sản,...; cũng như bổ sung các chỉ tiêu phục
vụ đánh giá thực hiện các chương trình, dự
án quốc gia trong sản xuất nông nghiệp và
nông thôn như: chương trình trồng mới 5
triệu ha rừng; Nghị quyết phát triển kinh tế
trang trại của Chính phủ, Luật hợp tác xã;
Chương trình đánh bắt thuỷ sản xa bờ,....
Việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống
chỉ tiêu thống kê và chế độ báo cáo nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản đã góp phần nâng
cao tính khoa học và chuẩn xác về khái
niệm, nội dung và phương pháp tính chỉ tiêu
trong quá trình thu thập, tổng hợp xử lý
thông tin thống kê nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản phục vụ tốt cho sự lãnh đạo điều hành
của Chính phủ, Quốc hội, các cấp, các
ngành từ Trung ương đến các địa phương,
làm cơ sở cho việc nghiên cứu cải tiến các
phương án điều tra chuyên ngành nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản.
2. Nghiên cứu cải tiến các phương pháp
điều tra thống kê nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản
Trước nhu cầu thông tin ngày càng đa
dạng, phong phú, chất lượng đòi hỏi ngày

càng cao trong nền kinh tế thị trường, công
tác thống kê nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Thông tin Khoa học Thống kê

trong những năm qua đã và đang chuyển
mạnh từ hình thức báo cáo thống kê định kỳ
sang thực hiện điều tra thống kê (Tổng điều
tra nông thôn, nông nghiệp và điều tra chọn
mẫu). Vụ Thống kê Nông, Lâm nghiệp và
Thuỷ sản đã kết hợp chặt chẽ với Viện Khoa
học Thống kê nghiên cứu triển khai nhiều đề
tài đánh giá thực trạng và cải tiến nhiều
cuộc điều tra chọn mẫu trong thống kê nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản, bao gồm: nghiên
cứu cải tiến phương pháp điều tra năng suất
lúa, điều tra thuỷ sản, điều tra chăn nuôi,
điều tra cây ăn quả;... Trên cơ sở nghiên
cứu đề xuất của đề tài khoa học, trong điều
tra năng suất lúa Vụ Thống kê Nông, Lâm
nghiệp và Thuỷ sản đã chuyển từ phương
pháp điều tra phân loại chọn thửa, định
điểm gặt thống kê trên thực địa sang điều
tra phỏng vấn thực thu tại hộ. Kết quả
chuyển đổi phương pháp điều tra chọn mẫu
thực thu năng suất lúa qua thực tế đã khẳng
định phù hợp với cơ chế quản lý mới, đơn
giản, thuận tiện và ít tốn kém hơn nhưng số
liệu sản lượng lúa suy rộng cho các huyện,
tỉnh vẫn đảm bảo tính khoa học và mức độ
tin cậy cần thiết, số liệu năng suất, sản

lượng lúa từ năm 1996 đến nay được các
ngành, các cấp từ trung ương đến các địa
phương sử dụng và đánh giá tốt. Kết quả
nghiên cứu và đề xuất của các đề tài khoa
học khác đã làm căn cứ cho Vụ Thống kê
Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản nghiên cứu
cải tiến các phương án điều tra thuỷ sản
ngoài quốc doanh, phương án điều tra chăn
nuôi và phương án điều tra cây lâu năm
trong năm 2005. Trong định hướng công tác
đến năm 2006 Vụ Thống kê Nông, Lâm
nghiệp và Thuỷ sản sẽ tiến hành cuộc Tổng
điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản
lần thứ ba trên quy mô cả nước, ngay từ
đầu năm 2005 Vụ đã triển khai đề tài nghiên
cứu về vấn đề này. Kết quả nghiên cứu, đề
xuất của đề tài sẽ làm căn cứ giúp Vụ xây
dựng và hoàn thiện nội dung, phương án
Tổng điều tra cũng như việc xây dựng các
phiếu điều tra. Đây là bước trợ giúp rất kịp
Viện Khoa học Thống kê - 30 năm một
chặng đường - Trang 25


×