Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NHÀN

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ THU HỒI NỢ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NHÀN

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ THU HỒI NỢ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. VŨ THỊ LAN ANH

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học
và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Học
viện khoa học xã hội.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nhàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
DỊCH VỤ THU HỒI NỢ VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH ....................... 6
1.1. Khái quát chung về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ ........... 6
1.2. Khái quát chung pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ...... 18
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU
KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ THU HỒI NỢ ...................................... 28
2.1. Quy định về điều kiện thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ thu hồi nợ ........................................................................................... 28
2.2. Quy định về điều kiện để doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
dịch vụ thu hồi nợ ................................................................................... 41
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH
DOANH DỊCH VỤ THU HỒI NỢ .............................................................. 53
3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu
hồi nợ - kết quả, hạn chế và nguyên nhân............................................... 53
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh
dịch vụ thu hồi nợ ................................................................................... 72

KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐKKD

Điều kiện kinh doanh

DVTHN

Dịch vụ thu hồi nợ

BLHS

Bộ luật hình sự

BLDS

Bộ luật dân sự

NLHVDS

Năng lực hành vi dân sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

GCNĐKKD


Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn,
quan trọng, thế và lực ngày càng tăng, diện mạo đất nước có nhiều đổi thay. Từ một
nền kinh tế thuần nông lạc hậu trên 90% dân số sống bằng nghề nông nghiệp, Việt
Nam đã tạo dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại, từng bước đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
tạo ra môi trường năng động, thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển đất nước.
Những nỗ lực đổi mới hơn 30 năm qua đã giúp môi trường đầu tư của nước ta liên
tục được cải thiện, thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển đất
nước. Cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại; cơ cấu ngành
nghề chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và
công nghiệp [7] [8]. Bên cạnh những ngành nghề kinh tế truyền thống, có thế
mạnh, nhiều ngành nghề kinh tế mới ra đời góp phần thúc đẩy xã hội ngày càng
phát triển. Trong số những ngành nghề mới, có ngành nghề dịch vụ trong lĩnh vực
tài chính nói chung, dịch vụ xử lý, thu hồi nợ nói riêng.
DVTHN ra đời là một xu hướng phản ánh quy luật kinh tế thị trường và đáp
ứng nhu cầu xã hội. Sự ra đời của ngành nghề kinh doanh DVTHN sẽ giúp cho
doanh nghiệp, giúp cho các nhà đầu tư bớt đi nỗi lo về gánh nặng tài chính bị khủng
hoảng do nợ xấu kéo dài và có xu hướng ngày càng tăng cao.
Thực tiễn chứng minh, nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản không
phải do thiếu khả năng chiếm lĩnh thị trường hoặc kinh doanh thua lỗ mà do doanh
nghiệp mất cân đối về tài chính. Một trong những nguyên nhân khiến doanh nghiệp
mất cân đối tài chính là do dư nợ xấu lên cao và kéo dài đẩy doanh nghiệp vào tình
trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tình trạng tài chính mất cân
đối trầm trọng đã vô tình đẩy doanh nghiệp đi vào phá sản, trong khi uy tín và

thương hiệu của doanh nghiệp vẫn đang rất tốt.
Trên thương trường, các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động kinh doanh,
dù ít, dù nhiều sẽ luôn có nguy cơ phải đối đầu với nợ đọng. Tuy nhiên, khó khăn
đặt ra cho doanh nghiệp khi bị nợ đọng là tìm giải pháp khắc phục nhằm thu hồi vốn

1


một cách nhanh chóng và hiệu quả. Đa số các doanh nghiệp giao việc giải quyết và
xử lý công nợ tồn đọng cho một người hoặc bộ phận phụ trách (và thường được gọi
là bộ phận kế toán công nợ). Song, người được giao phụ trách hoặc bộ phận được
giao xử lý công nợ thường là cán bộ thuần túy chỉ có chuyên môn về kế toán và
hạch toán công nợ trên số sách. Họ không có kỹ năng nghề nghiệp để đàm phán,
thương thảo, xử lý và thu hồi nợ cho doanh nghiệp. Chính vì vậy sự ra đời của các
doanh nghiệp chuyên cung cấp dịch vụ xử lý, thu hồi nợ sẽ là rất cần thiết đối với
các doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực đến thị trường thì ngành nghề
kinh doanh DVTHN được coi là ngành nghề kinh doanh nhạy cảm và có khả năng
bị lợi dụng để hoạt động phạm tội. Trong những năm qua, trên địa bàn cả nước
(nóng nhất là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) xảy ra nhiều vụ việc đòi nợ thuê
kiểu xã hội đen gây trấn động dư luận, ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự trị an, đe dọa
đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, điển hình như các vụ việc của Công
ty cổ phần Thu nợ Phương Đông hay Công ty TNHH dịch vụ thu nợ Quang Anh
[1][14]. Trước tình hình diễn biến phức tạp bởi những vụ việc đòi nợ kiểu xã hội
đen, dư luận dấy lên những luồng ý kiến khác nhau về việc có nên thừa nhận nghề
DVTHN (đòi nợ thuê) hay không? Và nếu tồn tại thì cần phải ràng buộc những điều
kiện, tiêu chuẩn gì? Các quy định pháp luật về ĐKKD DVTHN có còn phù hợp hay
không? Cần có sự điều chỉnh bổ sung nào để công tác quản lý, kiểm soát ngành
nghề này trở nên thực chất, có hiệu quả? Và đây chính là lý do để tác giả lựa chọn
đề tài “Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ theo pháp luật Việt Nam hiện

nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học với mong muốn sau khi hoàn thành, luận
văn có những đóng góp tích cực về mặt lý luận cũng như thực tiễn cho công tác xây
dựng và hoàn thiện quy định pháp luật về ngành nghề kinh doanh DVTHN.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Quy định của pháp luật về kinh doanh DVTHN nói chung và ĐKKD
DVTHN nói riêng là nội dung thuộc phạm vi hẹp và có ít người nghiên cứu. Chỉ khi
trên thực tiễn, hàng loạt các vụ đòi nợ theo kiểu xã hội đen xảy ra (nhất là ở các địa
bàn trung tâm) mới thu hút được nhiều sự quan tâm của cơ quan báo chí và dư luận.

2


Chính vì vậy các công trình nghiên cứu, các bài viết về kinh doanh DVTHN, về
ĐKKD DVTHN là rất hiếm. Có thể kể đến một vài bài viết, công trình nghiên cứu sau:
Bùi Thị Thu Thảo (2014), “Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam”, Luận
văn Thạc sĩ Luật học; Đặng Hồng Chiến (2001), “Các hình thức pháp lý đòi nợ trong
kinh doanh”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội; C.M, “Hà Nội thêm
một công ty thu nợ có dấu hiệu phạm pháp”, đăng trên: ;
Dương Hóa, “Truy nóng nhóm xã hội đen chuyên đòi nợ thuê”, đăng trên:
của Công an thành phố Đà Nẵng; Xuân Mai, “Hãi hùng với những
vụ đòi nợ theo kiểu xã hội đen”, đăng tải trên: ; Th.S Nguyễn Thị
Huyền Trang (2017), “Pháp luật về điều kiện kinh doanh của một số quốc gia trên thế
giới”, đăng trên: .
Với một số bài viết, công trình nghiên cứu nói trên, chỉ có một công trình
nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ về quy định pháp luật đối với DVTHN ở Việt
Nam. Chưa có tác giả nào nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ trở lên, nghiên cứu
đánh giá một cách toàn diện từ mặt lý luận, thực trạng quy định đến thực tiễn áp
dụng các quy định về ĐKKD DVTHN, để từ đó kiến nghị hoàn thiện, nâng cao hiệu
lực hiệu quả các quy định về ĐKKD DVTHN ở Việt Nam. Đây cũng chính là một
trong những lý do mà tác giả lựa chọn đề tài “Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi

nợ theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của
mình. Tác giả mong muốn rằng: khi đề tài bảo vệ thành công thì các vấn đề lý luận
và thực tiễn về ĐKKD DVTHN sẽ được giải quyết một cách thỏa đáng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề về lý luận, nghiên cứu các quy định của pháp
luật về ĐKKD DVTHN; đánh giá những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn tác giả

đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về điều kiện, tiêu chuẩn kinh
doanh DVTHN góp phần phát huy quyền làm chủ của doanh nghiệp.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra tại mục 3.1 thì luận văn cần tập trung
giải quyết các nhiệm vụ sau:

3


- Làm rõ các vấn đề lý luận về ĐKKD DVTHN như khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa và lược sử lập pháp về ĐKKD DVTHN;
- Làm rõ thực trạng quy định của pháp luật về ĐKKD DVTHN;
- Đánh giá những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật
hiện hành về ĐKKD DVTHN;
- Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh DVTHN.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về kinh doanh DVTHN;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động
kinh doanh DVTHN;
- Nghiên cứu thực tiễn hoạt động DVTHN thông qua tư liệu, số liệu thống kê

của một số doanh nghiệp như Công ty CP Dịch vụ tài chính và xử lý nợ DFC;
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Đối với các vấn đề lý luận, luận văn tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa và lược sử lập pháp về ĐKKD DVTHN;
- Đối với các quy định pháp luật hiện hành, luận văn tập trung chủ yếu vào
phân tích quy định của Nghị định 104/2007/NĐ-CP ngày 14/6/2007 về kinh doanh
dịch vụ đòi nợ, các quy định về ĐKKD DVTHN khác;
- Đối với các giải pháp kiến nghị, luận văn tập trung vào những vướng mắc,
bất cập lớn trong các quy định hiện hành về ĐKKD DVTHN nhằm hoàn thiện các
quy định này góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, kiểm soát ngành
nghề kinh doanh nhạy cảm của Nhà nước nhưng không làm hạn chế quyền tự chủ
kinh doanh của doanh nghiệp.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận được sử dụng trong nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ là quan
điểm triết học Mác xít và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật, quyền con
người, quyền tự do kinh doanh và tư tưởng đổi mới tư duy kinh tế nhằm phát huy
mọi nguồn lực xã hội vào sự nghiệp xây dựng, phát triển, sự nghiệp công nghiệp

4


hóa, hiện đại hóa đất nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội
vào nghiên cứu làm rõ những vấn đề mà luận văn đặt ra như: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, so sánh, đối chiếu, quy nạp, diễn dịch, thống kê và phương
pháp phỏng vấn chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ luận văn

thạc sĩ, nghiên cứu về ĐKKD DVTHN. Với kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp
phần củng cố và làm rõ những vấn đề lý luận như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và
lược sử lập pháp về ĐKKD DVTHN.
- Về mặt thực tiễn: khi luận văn được bảo vệ thành công sẽ trở thành nguồn
tài liệu có giá trị tham khảo trong học tập, nghiên cứu khoa học liên quan đến hoạt
động DVTHN nói chung và các quy định về ĐKKD DVTHN nói riêng. Kết quả
nghiên cứu cũng có giá trị tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý, nhà lập pháp
trong việc xây dựng, ban hành các quy định điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên
quan đến hoạt động kinh doanh DVTHN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, như sau:
- Chương 1: Khái quát chung về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ và
pháp luật điều chỉnh.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ .
- Chương 3: Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp
luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ.

5


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ
THU HỒI NỢ VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
1.1. Khái quát chung về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ
1.1.1. Khái niệm Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ
* Khái niệm Dịch vụ thu hồi nợ
Để tìm hiểu về khái niệm DVTHN, luận văn cần tập trung làm rõ hai khái
niệm bộ phận hợp thành, bao gồm khái niệm “Dịch vụ” và khái niệm “thu hồi nợ”.
- Khái niệm Dịch vụ: Theo Từ điển tiếng Việt, Dịch vụ được hiểu là “Công
việc trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả

công” [9]. Theo cách định nghĩa này, khái niệm dịch vụ trở lên trừu tượng, khó
hiểu. Tác giả cho rằng, khái niệm “dịch vụ” trong trường hợp này cần được hiểu là
một loại ngành nghề kinh doanh phi sản xuất, đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá
nhân trong xã hội và được hưởng thù lao trên cơ sở thỏa thuận giữa bên cung cấp
dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ.
- Khái niệm thu hồi nợ: “nợ” là một khái niệm phổ thông, gần gũi và được sử
dụng phổ biến, rộng rãi trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo Từ
điển tiếng Việt, “nợ” được định nghĩa là “Cái vay phải trả” [9]. Với cách định
nghĩa này, nợ ở đây đã được hiểu là một loại nghĩa vụ của bên vay với bên cho vay
tài sản phát sinh trong mối quan hệ vay tài sản. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển
của xã hội, quan hệ tài sản giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tổ chức ngày càng
trở nên đa dạng, phong phú hơn. Bên cạnh quan hệ vay mượn, giữa các tổ chức cá
nhân còn nhiều quan hệ khác có thể làm phát sinh nghĩa vụ trả tài sản cho nhau,
như: quan hệ mua bán, quan hệ thuê mướn, quan hệ dịch vụ, quan hệ trao đổi, cho
tặng ... Và như vậy, với cách định nghĩa về nợ là “cái vay phải trả” sẽ không bao
trùm được các quan hệ tài sản phát sinh trong thực tiễn đời sống cộng đồng.
Khác với Từ điển tiếng Việt, từ góc độ quản lý nhà nước về ngành nghề kinh
doanh DVTHN, Chính phủ đã định nghĩa về nợ như sau: “Nợ” được hiểu là “...nghĩa vụ
của các tổ chức kinh tế, cá nhân này phải trả tài sản cho tổ chức kinh tế, cá nhân khác”

6


(Điều 1, Nghị định 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ).
So với định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt, định nghĩa về nợ của Chính phủ
đã mở rộng hơn về phạm vi; cụ thể, chi tiết hơn về chủ thể. Về phạm vi của nợ,
Chính phủ xác định nợ không chỉ dừng lại ở các khoản nợ vay phát sinh trong quan
hệ hợp đồng vay tài sản; nợ có thể xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời
sống xã hội thông qua các giao dịch hợp pháp khác nhau [15]. Về chủ thể, Chính
phủ giới hạn chỉ những nghĩa vụ trả tài sản của cá nhân, tổ chức kinh tế này với cá

nhân, tổ chức kinh tế khác mới thuộc phạm vi điều chỉnh của khái niệm. Các nghĩa
vụ trả tài sản của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức khác không
nằm trong đối tượng, phạm vi điều chỉnh của khái niệm này.
Từ những phân tích trên cho thấy định nghĩa về nợ của Chính phủ tuy đã
rộng hơn cách định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt, nhưng vẫn chưa phải là một
định nghĩa có khả năng bao quát nhất về nợ. Song, do tính chất nghiên cứu của đề
tài, tính đến thời điểm hiện tại Nghị định 104/2007/NĐ-CP vẫn là văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất điều chỉnh những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu. Vì vậy
định nghĩa này sẽ là cách hiểu được sử dụng thống nhất, xuyên suốt trong quá trình
hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ này.
Về khái niệm “thu hồi”, thu hồi được hiểu là sự lấy lại, nhận lại, đòi lại một
cái gì đó. Và nếu thu hồi được hiểu là việc lấy lại một cái gì đó thì “thu hồi nợ” có
thể được hiểu “là việc lấy lại tài sản mà cá nhân, tổ chức kinh tế này có nghĩa vụ
trả cho cá nhân, tổ chức kinh tế khác” còn khái niệm “Dịch vụ thu hồi nợ” được
hiểu là “dịch vụ lấy lại, nhận lại, đòi lại tài sản mà cá nhân, tổ chức kinh tế

này có nghĩa vụ trả cho cá nhân, tổ chức kinh tế khác”.
Bên cạnh khái niệm “thu hồi nợ”, luận văn có sử dụng một khái niệm đồng
nghĩa là khái niệm “đòi nợ”. Xét về nghĩa của khái niệm thì cả “thu hồi nợ” và “đòi
nợ” đều được hiểu là việc lấy lại tài sản. Và việc thu hồi nợ hay đòi nợ đều là quyền
gắn với chủ nợ. Song xét về căn cứ pháp lý thì hệ thống các văn bản pháp luật liên
quan đều sử dụng khái niệm “đòi nợ”; còn trong đề tài luận văn lại sử dụng khái
niệm “thu hồi nợ”. Để nhất quán trong thể hiện kết quả nghiên cứu, luận văn sẽ sử
dụng khái niệm “đòi nợ” khi trích dẫn các quy định pháp luật và sử dụng khái niệm

7


“thu hồi nợ” trong các nội dung còn lại của luận văn.
* Khái niệm Điều kiện kinh doanh

Theo Từ điển luật học, ĐKKD được hiểu là “Điều kiện mà pháp luật quy
định chủ thể kinh doanh cần phải có khi kinh doanh trong một số ngành nghề nhất
định” [10]. Với cách diễn giải trong Từ điển Luật học thì khái niệm ĐKKD tuy
ngắn gọn, dễ hiểu nhưng chưa cụ thể rõ ràng.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp (khoản 2 Điều 7, Luật Doanh nghiệp
2005) thì ĐKKD được hiểu “là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực
hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh,
giấy chứng nhận đủ ĐKKD, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác”. Mặc dù đến
Luật Doanh nghiệp 2014, khái niệm về ĐKKD đã không được đề cập, nhưng trong
Luật Đầu tư hiện hành (Khoản 1 Điều 7) đã xác định “Ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh
trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Như vậy, trong mỗi định nghĩa nêu trên thì “ĐKKD” lại được tiếp cận và thể
hiện một cách khác nhau. Dưới góc độ ngôn ngữ học, Từ điển định nghĩa thiên về
giải thích nội dung nghĩa của từ thì trong Luật Doanh nghiệp 2005, bên cạnh việc
giải thích nghĩa của từ, các nhà làm luật còn chỉ ra các hình thức xác nhận doanh
nghiệp đáp ứng các ĐKKD thông qua giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề
...; còn trong Luật Đầu tư hiện hành, các nhà làm luật lại nhấn mạnh cơ sở, lý do
của việc chủ thể tham gia kinh doanh những ngành nghề nhất định phải đáp ứng
những điều kiện mà pháp luật quy định.
Mặc dù, mỗi định nghĩa có cách thức và phạm vi tiếp cận, thể hiện khác
nhau, song cả ba định nghĩa trên đều hướng đến xác định các tiêu chuẩn cụ thể yêu
cầu doanh nghiệp phải đáp ứng nếu muốn tham gia hoạt động kinh doanh những
ngành nghề mà pháp luật quy định phải có ĐKKD. Và để có sự thống nhất trong
cách hiểu, luận văn đưa ra định nghĩa về ĐKKD như sau: “ĐKKD là yêu cầu cụ thể
do pháp luật quy định mà chủ thể tham gia hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh

8



phải đáp ứng tùy theo loại ngành nghề kinh doanh cụ thể”.
Với cách định nghĩa như trên, khái niệm “ĐKKD” có những dấu hiệu nhận
biết như sau:
- Là yêu cầu cụ thể đối với chủ thể tham gia hoạt động đầu tư sản xuất, kinh
doanh phải đáp ứng;
- ĐKKD phải do pháp luật quy định;
- Mỗi ngành nghề kinh doanh khác nhau, ĐKKD có thể khác nhau.
Đối với ngành nghề kinh doanh DVTHN, nội dung và giới hạn ĐKKD được
tiếp cận trên hai bình diện:
Thứ nhất, điều kiện để thành lập tổ chức kinh doanh DVTHN (điều kiện
thành lập doanh nghiệp kinh doanh DVTHN). Đây là điều kiện mà cá nhân, tổ chức
khi muốn tham gia thành lập doanh nghiệp kinh doanh DVTHN phải đáp ứng: như
điều kiện về vốn, điều kiện về người quản lý ...;
Thứ hai, điều kiện để doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh DVTHN tổ
chức hoạt động kinh doanh DVTHN trên thực tế. Khác với nhiều ngành nghề kinh
doanh có điều kiện khác, ngành nghề kinh doanh DVTHN sau khi được cấp
GCNĐKKD, doanh nghiệp không đương nhiên được đi vào hoạt động. Doanh
nghiệp muốn tổ chức hoạt động trên thực tế phải tiếp tục đáp ứng những điều kiện
tiêu chuẩn khác như: điều kiện tiêu chuẩn về người lao động, điều kiện tiêu chuẩn
về khoản nợ thu hồi ...vv.
Từ những khái niệm bộ phận được trình bày trên, khái niệm về ĐKKD
DVTHN được hiểu như sau:
“ĐKKD DVTHN là những tiêu chuẩn, yêu cầu cụ thể do pháp luật đặt ra
buộc các chủ thể phải đáp ứng khi tham gia hoạt động kinh doanh DVTHN”.
1.1.2. Đặc điểm Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ
* Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
ĐKKD DVTHN là những tiêu chuẩn, yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp
phải đáp ứng nếu muốn đăng ký và được cấp GCNĐKKD DVTHN. Các tiêu chuẩn,

yêu cầu đặt ra luôn hướng đến xây dựng môi trường kinh doanh ổn định, lành mạnh,
kích thích và thu hút sự đầu tư sản xuất, kinh doanh trong xã hội. Các tiêu chuẩn,

9


yêu cầu này không phải tự nhiên mà có, cũng không phải do doanh nghiệp muốn
hoặc tự đặt ra. Các điều kiện, tiêu chuẩn đặt ra xuất phát từ yêu cầu công tác quản lý
nhà nước về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh và do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành.
Trước ngày 01/7/2015 – thời điểm Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực trên thực tế,
việc xác định điều kiện tiêu chuẩn đối với các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề
có điều kiện nói chung, ngành nghề kinh doanh DVTHN nói riêng được quy định
bởi nhiều văn bản, nhiều cơ quan chức năng, nhiều cấp thẩm quyền khác nhau.
ĐKKD trở thành một nỗi ám ảnh của doanh nghiệp, của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước; ĐKKD đã vô tình tạo ra rào cản cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Với
sự ra đời của Luật Đầu tư hiện hành, khoản 3 Điều 7 quy định về cấp có thẩm quyền
ban hành điều kiện đầu tư kinh doanh, theo đó điều kiện đầu tư kinh doanh phải
được quy định tại các luật, pháp lệnh, nghị định và điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Các cơ quan cấp Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác không
được ban hành quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh.
Với nội dung quy định trên, Luật Đầu tư 2014 lần đầu tiên làm sáng tỏ, rạch ròi
những lĩnh vực nào là cấm, lĩnh vực nào là hạn chế; đã bãi bỏ hơn 6.000 giấy phép con;
ban hành Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện góp phần nâng cao quyền tự
chủ, tự quyết của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh [12].
Ngành nghề kinh doanh DVTHN, đây là ngành nghề kinh doanh nhạy cảm
và được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện (được liệt kê tại phục lục
4, Luật Đầu tư 2014). Các tiêu chuẩn, yêu cầu đặt ra đối với tổ chức kinh doanh dịch
vụ này chủ yếu được quy định tại Nghị định 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ

đòi nợ. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước đối với
DVTHN, Chính phủ còn bổ sung các điều kiện, tiêu chuẩn về an ninh trật tự theo quy
định tại Nghị định 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 (Nghị định quy định về Điều kiện
an ninh, trật tư đối với một số ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện).
* Là công cụ quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh DVTHN
Quản lý doanh nghiệp là chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Mục tiêu công

10


tác quản lý Nhà nước về doanh nghiệp là một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh hiệu quả; mặt khác kiểm soát tốt
những nguy cơ, những tác động thiếu tích cực đến hiệu ứng thị trường, bất ổn đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương chung của Đảng, Nhà nước
trong việc phát huy mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ
và các Bộ, ngành, địa phương đang nỗ lực xây dựng hành lang pháp lý thông
thoáng để doanh nghiệp có môi trường thuận lợi trong đầu tư sản xuất, kinh
doanh. Một trong những hoạt động cụ thể và có ý nghĩa thiết thực của Nhà nước
đối với việc khuyến khích tổ chức, cá nhân trong đầu tư, sản xuất kinh doanh là
việc thực hiện chính sách minh bạch hóa trong quản lý doanh nghiệp; tháo gỡ và
loại bỏ mọi rào cản đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh việc tạo dựng môi trường thuận lợi giúp doanh nghiệp
cạnh tranh bình đẳng, công bằng, phát huy quyền tự chủ, tự quyết của doanh nghiệp
thì yếu tố đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội; đảm bảo sức khỏe của cộng đồng là những vấn đề cần được quan tâm, cân nhắc
đến. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình thực thi nhiệm vụ, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền luôn phải song hành hai nhiệm vụ: vừa kiến tạo để doanh nghiệp có thể
phát huy tối đa mọi thế mạnh trong đầu tư sản xuất, kinh doanh tạo cơ sở vật chất
cho xã hội; vừa quản lý kiểm soát những doanh nghiệp, những lĩnh vực kinh doanh

có khả năng tác động tiêu cực đến cộng đồng. Và để thực hiện tốt việc kiểm soát
những hoạt động kinh doanh có khả năng tác động tiêu cực trên, thông qua quy định
của pháp luật, Nhà nước đưa ra những tiêu chuẩn cụ thể yêu cầu doanh nghiệp phải
đáp ứng khi muốn kinh doanh những ngành nghề nhạy cảm. Các điều kiện đặt ra
luôn hướng đến việc kiểm soát và triệt tiêu những yếu tố có khả năng tác động tiêu
cực từ doanh nghiệp, góp phần phát huy quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp
nhưng vẫn đảm bảo an ninh, trật tự công cộng, đảm bảo môi trường và sức khỏe cho
người dân.
Đối với ngành nghề kinh doanh DVTHN cũng vậy. Được xác định là ngành
nghề kinh doanh nhạy cảm, dễ phát sinh những tác động tiêu cực đến đời sống cộng

11


đồng, gây mất trật tự trị an. Hoạt động kinh doanh DVTHN cũng dễ làm phát sinh
việc lợi dụng ngành nghề để thực hiện hành vi phạm tội. Vì lẽ đó, để quản lý và
kiểm soát tốt những tác động không mong muốn từ các doanh nghiệp kinh doanh
ngành nghề này, Nhà nước đã ban hành các điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp phải
đáp ứng khi muốn được cấp phép hoạt động.
Trên thực tế, mặc dù ngành nghề kinh doanh DVTHN vẫn còn nhiều phức
tạp; Song với việc xác định đây là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, tiêu chuẩn
khắt khe đối với doanh nghiệp khi muốn đầu tư kinh doanh DVTHN đã góp phần
quan trọng giúp Nhà nước quản lý, kiểm soát tốt hơn; đưa doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực này dần đi vào nền nếp.
* Các điều kiện đặt ra đối với chủ thể kinh doanh DVTHN không phải là
bất biến
So với thế giới, Việt Nam là quốc gia hội nhập sau, hội nhập muộn. Chính vì
vậy các lĩnh vực ngành nghề kinh doanh nói chung ở Việt Nam cũng phát triển sau và
muộn hơn, nhất là đối với ngành nghề kinh doanh dịch vụ (trong đó có DVTHN).
DVTHN ở Việt Nam, với tính chất là một ngành nghề được pháp luật thừa

nhận, ngành nghề này mới chỉ ra đời và phát triển được hơn chục năm (kể từ khi có
Nghị định 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ). Sự ra đời của ngành
nghề kinh doanh DVTHN có gắn với những yếu tố kinh tế, xã hội cụ thể. Khi mà
trong đời sống xã hội, nhu cầu thuê tổ chức, cá nhân chuyên nghiệp thực hiện việc
thu hồi một khoản tài sản của mình ngày càng nhiều. Trong khi đó, hành lang pháp
lý thì bỏ ngỏ; hoạt động thu hồi nợ chủ yếu được điều chỉnh bởi “luật rừng”; các
băng nhóm tội phạm đâm thuê, chém mướn – đòi nợ kiểu xã hội đen ngày càng gia
tăng. Thực tế đó đòi hỏi cần có sự điều chỉnh của pháp luật, vì vậy Nghị định
104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ra đời.
Nghị định 104/2007/NĐ-CP ra đời với nhiều chế định pháp luật cụ thể, điều
chỉnh lĩnh vực kinh doanh ngành nghề nhạy cảm, trong đó có chế định về ĐKKD,
như: điều kiện về vốn, điều kiện về người quản lý và giám đốc chi nhánh và điều
kiện về người lao động làm việc tại doanh nghiệp kinh doanh DVTHN. Đây là ba
điều kiện tiền đề bắt buộc đối với bất kỳ cá nhân, tổ chức nào muốn thành lập và

12


đăng ký kinh doanh DVTHN. Song, các điều kiện trên không phải là bất biến. Sở dĩ
ĐKKD DVTHN có thể thay đổi là bởi điều kiện này được hình thành trên cơ sở
những điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể. Và khi những điều kiện kinh tế, xã hội làm
cơ sở hình thành thay đổi thì ĐKKD phải thay đổi theo. ĐKKD DVTHN có thể
được thay đổi theo những xu hướng sau:
Thứ nhất, điều kiện, tiêu chuẩn được siết chặt hơn: Do kinh doanh DVTHN
là lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm. Việc ràng buộc các điều kiện tiêu chuẩn cụ thể
khi hoạt động kinh doanh ngành nghề này chính là thực hiện chức năng quản lý nhà
nước nhằm kiểm soát những hoạt động kinh doanh có khả năng tác động không tốt
đến đời sống cộng đồng. Chính vì vậy, nếu hoạt động kinh doanh DVTHN vẫn diễn
ra phức tạp thì việc duy trì và bổ sung các điều kiện để siết chặt hoạt động kinh
doanh lĩnh vực này vẫn được đặt ra và cần thiết phải đặt ra.

Thứ hai, điều kiện tiêu chuẩn sẽ được nới lỏng, thậm chí bỏ đi: sở dĩ xác định
ngành nghề kinh doanh DVTHN là ngành nghề nhạy cảm, phức tạp là bởi những
hiện tượng xã hội tiêu cực xảy ra từ hoạt động này (như bắt người, dùng vũ lực
cưỡng đoạt tài sản, khủng bố về tinh thần đối với khách nợ và người thân của khách
nợ ...). Chính vì vậy, các ĐKKD sẽ được nới lỏng hoặc thậm chí bỏ đi khi các hiện
tượng tiêu cực trên thuyên giảm hoặc không còn xảy ra.
* ĐKKD DVTHN luôn gắn liền với hạn chế quyền tự do kinh doanh của tổ
chức, cá nhân, quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp
Kể từ sau đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng, đề cao vai
trò của doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh) đối với sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước. Trên thực tế doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vai
trò ngày càng quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất
nước, nhất là trong bối cảnh tái cấu trúc, điều chỉnh phạm vi hoạt động của Doanh
nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng góp 43,22% GDP và 39%
vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế [2].
Tuy nhiên, bên cạnh việc xác định rõ vai trò tầm quan trọng của doanh
nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng, doanh nghiệp nói chung đối với sự nghiệp cách
mạng chung của đất nước thì vấn đề luôn được đặt ra đối với cơ quan nhà nước có

13


thẩm quyền là phải quản lý, kiểm soát được doanh nghiệp, nhất là những doanh
nghiệp kinh doanh ngành nghề có khả năng tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.
Một trong những công cụ mà Nhà nước thường sử dụng để quản lý, kiểm soát
doanh nghiệp là chính sách pháp luật thông qua những điều kiện, những yêu cầu
phải đáp ứng khi hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Điều kiện đặt ra đối với doanh nghiệp là sự ràng buộc tiêu chuẩn pháp lý mà
cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh ngành nghề có điều kiện phải đáp
ứng. Mặc dù xác định ĐKKD là công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước và là công

cụ cần thiết để kiểm soát đối với những ngành nghề kinh doanh có khả năng tác
động xấu đến an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe cộng
đồng ... song, ĐKKD luôn là rào cản đối với việc khai thác và phát huy mọi nguồn
lực vào phát triển kinh tế đất nước. Nhà nước càng ban hành nhiều điều kiện, tiêu
chuẩn đối với doanh nghiệp thì quyền tự chủ, tự quyết của doanh nghiệp càng bị
hạn chế và khả năng thu hút đầu tư đối với tổ chức, cá nhân càng giảm sút. Chính vì
vậy, trong bối cảnh hiện nay Nhà nước cần phát huy tốt vai trò của mình trong quản
lý doanh nghiệp. Quản lý doanh nghiệp của Nhà nước phải vừa đảm bảo phát huy
mọi khả năng sáng tạo, thu hút mọi nguồn lực xã hội vào phát triển đất nước; vừa
phải quản lý kiểm soát có hiệu quả về doanh nghiệp; phải giúp doanh nghiệp nhận
thức được sự quản lý Nhà nước đối với những ngành nghề nhất định thông qua các
ĐKKD là sự cần thiết. Sự ràng buộc các điều kiện kinh doanh không phải vì mục
tiêu hạn chế quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp mà nhằm đảm bảo môi
trường xã hội, môi trường kinh doanh được lành mạnh hơn.
1.1.3. Ý nghĩa của Điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ
* Tạo cơ sở pháp lý để DVTHN tồn tại và phát triển
Quy định pháp luật về kinh doanh DVTHN nói chung, về ĐKKD DVTHN
nói riêng là cơ sở pháp lý đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của nghề thu nợ.
Trong lịch sử, đã có một thời gian dài nghề thu nợ không được pháp luật công nhận.
Vì vậy trong hệ thống ngành nghề đăng ký kinh doanh được cấp mã ngành, không
có ngành nghề DVTHN. Các tổ chức kinh doanh muốn hành nghề thu nợ thì phải
đăng ký dưới dạng là dịch vụ hậu mãi (một mã ngành khác). Chính vì vậy trên thực

14


tế DVTHN kém phát triển; đồng thời mỗi doanh nghiệp kinh doanh DVTHN hoạt
động theo một kiểu, gây khó khăn cho công tác quản lý.
Kể từ khi Nghị định 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ra đời đã
mở ra cho nghề DVTHN một giai đoạn mới; DVTHN đã chính thức được công

nhận là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện và được cấp mã ngành độc lập.
Các điều kiện hành nghề thu hồi nợ theo quy định đã tạo ra hành lang pháp lý để
Nhà nước quản lý và kiểm soát doanh nghiệp có hiệu quả.
Tuy nhiên, thời gian qua dư luận xã hội rất hoang mang khi những vụ việc
đòi nợ thuê theo kiểu xã hội đen liên tục xảy ra. Với nhiều thủ đoạn phi pháp khác
nhau, như bắt giữ người, chiếm giữ tài sản, khủng bố tinh thần đối với con nợ hoặc
người thân của con nợ, dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ... các đối tượng đã cưỡng
đoạt tài sản trái phép nhằm siết nợ, trừ nợ. Các vụ việc xảy ra đã làm dấy lên sự lo
ngại cho công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự xã hội. Trước tình hình đó, có
nhiều ý kiến quan điểm trái chiều, khác nhau về việc có nên thừa nhận hay không
loại hình DVTHN.
Phải nói rằng, trước khi Nhà nước thừa nhận thu hồi nợ là một ngành nghề
kinh doanh có điều kiện thông qua việc ban hành hệ thống các quy phạm pháp luật
điều chỉnh lĩnh vực ngành nghề này, nghề thu hồi nợ đã ra đời và tồn tại khách
quan. Bên cạnh các doanh nghiệp kinh doanh DVTHN dựa trên nền tảng pháp luật,
các “dịch vụ” đòi nợ theo kiểu xã hội đen cũng song song tồn tại. Điển hình là các
băng nhóm tội phạm được cầm đầu bởi những tay anh chị khét tiếng như Khánh
Trắng, Năm Cam, Phúc “bồ”. Riêng đối với Khánh trắng, vào những năm chín
mươi, đòi nợ là một nguồn thu nhập lớn của Khánh. Để đòi được nợ, Khánh không
chỉ tàn ác với con nợ mà còn tàn nhẫn cả với chủ nợ. Vào năm 1992 Khánh thực
hiện “dịch vụ” đòi nợ thuê cho chị Phạm Thị Ngọc Trang ở 105/3 đường Nguyễn
Kiệm, thành phố Hồ Chí Minh. Chị Trang thuê Khánh đòi tiền chị Nhung ở 58 phố
Hàng Bạc, Hà Nội với tổng số tiền gần 925 triệu đồng và chị Trang đã phải chi cho
Khánh 500 triệu đồng. Để “hợp pháp” hóa việc thuê mướn này, chị Trang phải viết
giấy là vay của Khánh “trắng” 500 triệu đồng [13].
Và cho đến nay, mặc dù đã có quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực ngành

15



nghề thu hồi nợ, đòi nợ kiểu xã hội đen như Công ty cổ phần Thu nợ Phương Đông,
Công ty TNHH dịch vụ thu nợ Quang Anh vẫn tồn tại và trở thành một nỗi lo cho
cộng đồng [1] [14]. Các tổ chức đòi nợ thuê kiểu xã hội đen tồn tại không phải xuất
phát từ việc Nhà nước thừa nhận kinh doanh DVTHN là một ngành nghề. Do vậy
không thể vì xã hội có kiểu đòi nợ trái pháp luật mà Nhà nước lại cấm, không cho
DVTHN hợp pháp tồn tại. Trong khi đó, quyền thu hồi nợ (quyền đòi nợ) là một
quyền phái sinh từ quyền đối với tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ.
Người có tài sản cho vay, cho mượn hoặc cho tổ chức, cá nhân khác nợ thông qua
một giao dịch dân sự hợp pháp, người đó có quyền thu hồi lại tài sản mà tổ chức, cá
nhân khác đang mắc nợ mình. Việc thu hồi lại tài sản cho mình có thể do chính tổ
chức, cá nhân đó thực hiện hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện theo
quy định của pháp luật (Điều 450 BLDS). Mặt khác Đảng, Nhà nước ta đang chủ
trương đa thành phần kinh tế, phát triển đa dạng loại hình kinh doanh, dịch vụ khác
nhau nhằm phát huy mọi nguồn lực xã hội vào sự nghiệp cách mạng chung của đất
nước. Trong bối cảnh ấy, quan điểm, nhận thức cần phải cấm DVTHN là một quan
điểm, nhận thức sai lầm, duy ý chí.
Vậy tại sao đòi nợ theo kiểu xã hội đen vẫn tồn tại và có xu hướng gia tăng
gây bức xúc dư luận? Cần đánh giá một cách khách quan, đòi nợ theo kiểu xã hội
đen có xu hướng gia tăng là do sự yếu kém trong công tác quản lý của Nhà nước;
văn bản pháp quy điều chỉnh lĩnh vực ngành nghề kinh doanh DVTHN còn khá sơ
sài, chậm sửa đổi, kìm chế hoạt động DVTHN hợp pháp phát triển. Bên cạnh đó,
một nguyên nhân cũng hết sức quan trọng thúc đẩy kiểu đòi nợ xã hội đen phát triển
là do DVTHN hợp pháp hoạt động chưa hiệu quả. Để hạn chế và kiểm soát hiện
tượng đòi nợ thuê theo kiểu xã hội đen, Nhà nước cần phải thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp. Trong đó cần phải quan tâm giải pháp siết chặt công tác quản lý, ban
hành hệ thống văn bản pháp luật phù hợp, kịp thời. Các giải pháp đặt ra phải hướng
đến việc đảm bảo thực hiện quyền đòi nợ hợp pháp, kích thích, thúc đẩy các doanh
nghiệp kinh doanh DVTHN hợp pháp hoạt động hiệu quả.
Từ những phân tích trên cho thấy, xét từ góc độ quản lý ngành nghề kinh
doanh DVTHN, Nhà nước còn rất nhiều việc phải làm. Trong đó, việc phải làm


16


ngay là hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về kinh doanh DVTHN nói chung,
pháp luật về ĐKKD DVTHN nói riêng nhằm tạo hành lang pháp lý thông thoáng,
phù hợp để ngành nghề này tồn tại và phát triển. Việc ban hành hệ thống quy phạm
pháp luật về ĐKKD DVTHN thừa nhận sự tồn tại loại hình kinh doanh này; đồng
thời thừa nhận một thực tiễn khách quan, phản ánh nhu cầu của xã hội.
* Giúp nhà nước quản lý, kiểm soát xã hội và doanh nghiệp được tốt hơn
Với tính chất là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc và được đảm bảo thực hiện
bằng quyền lực Nhà nước, pháp luật luôn là công cụ đắc lực để Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý và kiểm soát xã hội được hiệu quả. Trong bối cảnh Việt Nam đẩy
mạnh thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, nền kinh tế hội nhập ngày
càng sâu. Những thành quả mang lại cho đất nước là rất lớn, kinh tế tăng trưởng
nhanh, chất lượng đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế Việt Nam trên trường
quốc tế ngày càng lớn mạnh. Bên cạnh những tác động tích cực từ thể chế kinh tế
thị trường, mặt trái và những tác động tiêu cực không ngừng phát triển; tệ nạn và tội
phạm không ngừng gia tăng. Bên cạnh việc phát huy mọi nguồn lực vào phát triển
kinh tế, đa dạng và mở rộng các thành phần kinh tế, thu hút mọi tổ chức, cá nhân
đầu tư sản xuất, kinh doanh theo sở trường (với phương châm tất cả cho mục tiêu
tạo dựng cơ sở vật chất giàu có, hiện đại, xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc cho
thời kỳ quá độ tiến lên XHCN); Nhà nước cần quản lý và kiểm soát tốt những lĩnh
vực kinh doanh có khả năng tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng và phát triển
đất nước, tác động tiêu cực đến an ninh, quốc phòng, trật tự công cộng, tác động
đến sức khỏe cộng đồng. Một trong những công cụ giúp Nhà nước quản lý, kiểm
soát có hiệu quả các lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm này là pháp luật. Thông qua
những quy định cụ thể của pháp luật buộc tổ chức, cá nhân phải đáp ứng các điều
kiện, tiêu chuẩn nhất định nếu muốn đầu tư sản xuất, kinh doanh. Cũng giống như
các ngành nghề kinh doanh có điều kiện khác, kinh doanh DVTHN cũng là ngành

nghề kinh doanh được xếp vào loại ngành nghề nhạy cảm. Hoạt động ngành nghề
DVTHN dễ tác động trái chiều đến đời sống cộng đồng, xâm hại quyền lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức liên quan, dễ bị lợi dụng để thực hiện tội phạm và các
hoạt động kinh doanh trá hình khác. Xuất phát từ tính đặc thù và sự nhạy cảm của

17


ngành nghề, nhất là khả năng tác động đến trật tự trị an nên Nhà nước ban hành các
điều kiện, tiêu chuẩn để tổ chức, cá nhân kinh doanh DVTHN phải đáp ứng. Các
điều kiện tiêu chuẩn Nhà nước đặt ra tuy có hạn chế quyền tự do kinh doanh, quyền
tự quyết của doanh nghiệp nhưng việc quy định các điều kiện, tiêu chuẩn đã loại bỏ
việc thành lập doanh nghiệp kinh doanh DVTHN một cách tràn lan; công tác quản
lý, kiểm soát tốt hơn, nền nếp và hiệu quả hơn.
1.2. Khái quát chung pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ thu hồi nợ
1.2.1. Sự phát triển của quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch
vụ thu hồi nợ
Thu hồi nợ là ngành nghề kinh doanh dịch vụ có lịch sử hình thành và phát
triển muộn hơn nhiều so với các ngành nghề dịch vụ tài chính, ngân hàng và các
lĩnh vực dịch vụ truyền thống. Tuy nhiên, so với lịch sử hình thành và phát triển của
nghề thu nợ thì quy định của pháp luật về kinh doanh ngành nghề dịch vụ này nói
chung, quy định về ĐKKD DVTHN nói riêng còn ra đời muộn và chậm hơn rất
nhiều. Sau khi DVTHN ra đời một cách tự phát và hoạt động được khoảng trên dưới
10 năm thì Nhà nước mới ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh lĩnh
vực kinh doanh nghành nghề này. Việc chậm ban hành các văn bản pháp luật tạo
hành lang pháp lý cho ngành nghề thu nợ phát triển là thể hiện sự hạn chế, phản ứng
thị trường chậm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Mặc dù có lịch sử hình thành và phát triển không lâu nhưng ngành nghề kinh
doanh DVTHN luôn thu hút được sự quan tâm của các nhà doanh nghiệp, nhà quản
lý và toàn xã hội. Để rõ hơn về ĐKKD DVTHN, tác giả trình bày lược sử lập pháp

về ĐKKD DVTHN ở nước ta theo hai giai đoạn:
* Giai đoạn trước khi Nghị định 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi
nợ có hiệu lực thi hành
Đòi nợ là một loại quyền với tài sản được pháp luật ghi nhận và bảo vệ từ rất
sớm. Ở nước ta, ngay từ khi BLDS đầu tiên ra đời đã ghi nhận quyền đòi nợ là
quyền tài sản được phép mua bán, chuyển nhượng (Điều 442 BLDS 1995).
Trong lịch sử, khi thu hồi nợ chưa phát triển thành một nghề kinh doanh dịch
vụ thì trong đời sống xã hội, hoạt động thu hồi nợ vẫn phát sinh, tồn tại như bao

18


hiện tượng xã hội khác. Đòi nợ lúc này được thực hiện gắn với quyền tài sản của cá
nhân, tổ chức và do chính cá nhân, tổ chức là chủ nợ thực hiện.
Với chủ nợ là cá nhân, cá nhân sẽ thực hiện quyền thu hồi nợ thông qua việc
gặp gỡ trực tiếp hoặc qua điện thoại để trao đổi, thương thảo, nhắc nợ, yêu cầu trả
nợ. Với chủ nợ là tổ chức (doanh nghiệp), các biện pháp thu hồi nợ của các tổ chức
có đa dạng hơn so với cá nhân, song chủ yếu vẫn được thực hiện thông qua hình
thức điện thoại hoặc bằng văn bản để nhắc nợ, yêu cầu thanh toán công nợ. Tuy
nhiên, dù chủ nợ là cá nhân hay tổ chức thì giữa họ có một điểm chung: Nếu khách
nợ có thiện chí thì khoản nợ sẽ được thanh toán trên cơ sở trao đổi, bàn bạc giữa hai
bên. Nhưng nếu khách nợ không có thiện chí, khách nợ chây ỳ hoặc có ý định
chiếm dụng vốn để tái đầu tư sản xuất, kinh doanh, trong trường hợp này, các chủ
nợ đều rơi vào bế tắc. Khi khoản nợ không được thu hồi hiệu quả, con nợ nhiều lần
cam kết nhưng không trả, các chủ nợ sẽ gặp muôn vàn khó khăn trong việc tìm ra
biện pháp thu hồi. Biện pháp cuối cùng dành cho chủ nợ lúc này là khởi kiện. Tuy
nhiên, việc quyết định lựa chọn biện pháp khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp thẩm
quyền để giải quyết theo quy định cũng không phải là sự lựa chọn dễ dàng đối với
chủ nợ. Trước khi quyết định việc khởi kiện, cá nhân và tổ chức là chủ nợ luôn gặp
phải những trở ngại sau đây: Thứ nhất, chi phí về thời gian, tiền của dành cho vụ

kiện là rất lớn, nhất là khi hệ thống pháp luật Việt Nam còn thiếu đồng bộ, trình tự
tố tụng ở Việt Nam còn khá phức tạp và kéo dài; Thứ hai, sự am hiểu về pháp luật
của tổ chức, cá nhân về cơ bản là còn hạn chế; Thứ ba, tâm lý e ngại kiện tụng là
một đặc điểm tâm lý cố hữu của người Việt Nam (Vô phúc đáo tụng đình); Thứ tư,
người khởi kiện có thể bị mất đi những bạn hàng, đối tác truyền thống; Thứ năm,
tính bảo đảm thi hành trên thực tế của các bán án sau khi có hiệu lực ở Việt Nam
còn rất hạn chế.
Trước những khó khăn, trở ngại và sự kém hiệu quả trong việc tự thu hồi
công nợ, cá nhân, tổ chức là chủ nợ phát sinh nhu cầu cần có những tổ chức cung
cấp DVTHN chuyên nghiệp ra đời.
Như vậy, cùng với thực tiễn phát sinh và nhu cầu thiết thực của đời sống xã
hội, DVTHN với tính chất là một ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh đã chính thức ra

19


đời ở Việt Nam.
Để xác định chính xác, ở nước ta DVTHN có từ khi nào thì chưa có tài liệu
làm cơ sở khẳng định. Song, vào khoảng những năm cuối cùng của thập niên 90 thế
kỷ XX, ở Việt Nam đã bắt đầu hình thành các doanh nghiệp cung cấp DVTHN
chuyên nghiệp như Công ty TNHH dịch vụ hậu mãi Công Minh (thành lập ngày
08/7/1999, Mã doanh nghiệp: 0100907754) [37], sau đó là công ty TNHH hậu mãi
Công Lý (nay là Công ty CP Dịch vụ tài chính và xử lý nợ DFC (thành lập ngày
04/08/2004, Mã doanh nghiệp: 0101514185 [38]. Thời điểm mới thành lập các
doanh nghiệp cung cấp DVTHN còn hoạt động khá đơn giản, các khoản nợ mà chủ
nợ yêu cầu thu hồi chưa nhiều, chưa đa dạng mà chủ yếu là các khoản nợ cước phí
viễn thông (như các khoản nợ của Vinaphone, FPT, VMS ..... ) và đã được các
doanh nghiệp kinh doanh DVTHN thực hiện có hiệu quả. DVTHN đã ngày càng
được xã hội biết đến như một dịch vụ hợp pháp, chuyên nghiệp và cần thiết cho tổ
chức, cá nhân có nhu cầu [20].

Tuy nhiên, vào thời điểm này, mặc dù DVTHN trên thực tế đã ra đời nhưng
chưa được Nhà nước công nhận với tư cách là một ngành nghề kinh doanh độc lập.
Chính vì vậy trong hệ thống ngành nghề được định danh và cấp phép hoạt động,
không có ngành nghề DVTHN (hay đòi nợ thuê). Trong GCNĐKKD của doanh
nghiệp, DVTHN được ẩn mình trong các ngành nghề dịch vụ hậu mãi (sau bán
hàng). Điển hình như Công ty TNHH thương mại và dịch vụ hậu mãi Công Lý. Khi
thành lập, để được kinh doanh ngành nghề thu hồi nợ, doanh nghiệp này đã phải
đăng ký và được cấp phép DVTHN ẩn trong ngành nghề dịch vụ hậu mãi như sau:
“Dịch vụ thương mại cung cấp dịch vụ sau bán hàng gồm: sửa chữa, bảo hành các
thiết bị điện tử tin học; thu hồi các khoản tiền nợ sau bán hàng, tiền nợ trả góp, tiền
chậm trả, tiền cước phí, tiền hàng, tiền hàng trả theo địa chỉ”.
Mặc dù vào thời điểm này, DVTHN chưa được Nhà nước thừa nhận và chưa
có văn bản pháp luật nào quy định về nghề DVTHN cũng như quy định về ĐKKD
DVTHN. Song, với việc ra đời của các doanh nghiệp kinh doanh DVTHN trên thực
tế đã đánh dấu một bước phát triển mới cho loại hình kinh doanh dịch vụ mới trên
thị trường. Loại hình dịch vụ mới tuy chưa được Nhà nước công nhận nhưng cũng

20


×