Tải bản đầy đủ (.docx) (119 trang)

Luận văn thạc sĩ giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.61 KB, 119 trang )



LỜI CẢM ƠN
Công trình nghiên cứu “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài theo
pháp luật Việt Nam hiện nay” được hoàn thành, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của
bản thân, tôi xin được gửi lời trân trọng cảm ơn tới thầy giáo hướng dẫn khoa học
PGS.TS. Nguyễn Như Phát, người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong quá trình
tôi triển khai đề tài và viết luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng phản biện đề cương
và Hội đồng phản biện luận văn đã góp ý giúp tôi hoàn thiện tốt hơn luận văn của
mình và Lãnh đạo Học viện Khoa học xã hội, Văn phòng Khoa Luật vì đã tạo
những điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất và đảm bảo chất lượng giảng viên cho
chúng tôi trong quá trình theo học tại đây.
Học viên

Lê Thị Đào


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài nghiên cứu Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài theo pháp
luật Việt Nam hiện nay” của luận văn này là kết quả của sự nỗ lực cố gắng, nghiêm
túc tìm tòi và sáng tạo của riêng bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của
người hướng dẫn khoa học PGS.TS. Nguyễn Xuân Phát
Tôi xin cam đoan, kết quả nghiên cứu của công trình hoàn toàn là kết quả của
cuộc điều tra xã hội học và khảo sát mà tôi đã tiến hành nghiên cứu tại thành
phố Đà Nẵng. Trong công trình nghiên cứu này không hề có bất kỳ sự sao chép
nào mà không có trích dẫn nguồn, tác giả.
Tôi xin cam đoan những lời trên đây là hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin chịu
toàn bộ trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Hà Nội, tháng 8 năm 2017


Học viên

Lê Thị Đào


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI............................................... 6
1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài..................................................................................................... 6
1.2 Đặc trưng pháp lý của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. 10
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI............. 18
2.1. Những quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài............................................................................................ 18
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại tại các Trung tâm Trọng tài
thương mại tại Việt Nam................................................................................. 42
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG
TÀI TẠI VIỆT NAM .................................................................................... 59
3.1. Phương hướng .......................................................................................... 59
3.2. Giải pháp cụ thể ....................................................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu


Tên bảng

bảng

Trang

2.1.

Tính chất tranh chấp

51

2.2.

Lĩnh vực tranh chấp

52

2.3.

Trị giá tranh chấp

54

2.4.

Thời gian giải quyết tranh chấp

54



DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ
Số hiệu
hình và

Tên hình và biểu đồ

Trang

biểu đồ
2.1.

Tỷ lệ tranh chấp trong nước và tranh chấp có yếu tố
nước ngoài

51

2.2.

So sánh tỷ lệ tính chất tranh chấp từ 1993 - 2015

51

2.3.

Quốc tịch các bên tranh chấp năm 2015

52

2.4.


Lĩnh vực tranh chấp

52

2.5.

Số lượng vụ tranh chấp được thụ lý qua các năm

53

2.6.
2.7.
2.8.
2.9.

Số lượng vụ tranh chấp thụ lý tại VIAC Hà Nội và
VIAC thành phố Hồ Chí Minh
Thời gian giải quyết tranh chấp năm 2015
So sánh thời gian giải quyết tranh chấp trung bình các
năm 2013 – 2015
Trọng tài viên

53
54
55
55


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

Bộ Luật Tố tụng dân sự

BLDS

Bộ Luật Dân sự

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TAND

Tòa án nhân dân

VIAC

VIAC là tên viết tắt tiếng Anh của cụm từ
“Vietnam International Arbitration Centre”,
tiếng Việt có nghĩa là “Trung tâm Trọng tài
Quốc tế Việt Nam”.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra
trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Trong quá trình hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp đều cần hoạt động ký kết hợp đồng, vấn đề phát sinh các
mâu thuẫn hay tranh chấp là điều không thể tránh khỏi cho nên cần phải có các cơ

quan giải quyết tranh chấp. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả của nó
gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói
chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt
động này, cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy
định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật. Tìm hiểu về tranh chấp thương mại là
cơ sở quan trọng để tìm hiểu và áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam tồn tại 4 phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại cơ bản. Tất cả đều nhằm giải quyết một cách có hiệu quả
nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đều được bảo đảm. Các phương thức
giải quyết tranh chấp được các quốc gia quy định trong pháp luật của mỗi quốc gia
phải thích ứng với điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia đó, điển hình các phương
thức được nhiều quốc gia lựa chọn để giải quyết tranh chấp, bao gồm: “Thương
lượng, Hòa giải, Trọng tài thương mại, Tòa án”.
Những năm gần đây, phương thức Tòa án và Trọng tài là hai phương thức giải
quyết tranh chấp được các bên lựa chọn nhiều nhất và được sử dụng phổ biến
nhất. Tại Việt Nam, các tranh chấp thương mại diễn ra ngày càng nhiều. Số lượng
các vụ án giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án cũng tăng đáng kể, nên tạo
nhiều áp lực cho những người tiến hành tố tụng, điều này làm ảnh hưởng đến chất
lượng xét xử của Tòa án. Trong khi đó, các tranh chấp thương mại được giải
quyết tại các Trung tâm trọng tài thì quá ít, thậm chí có Trung tâm trọng tài từ khi
thành lập đến nay vẫn chưa giải quyết bất kỳ tranh chấp nào. Pháp luật quy định
về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án rất chặt chẽ, rất
phức tạp. Song quy định về trọng tài thì mềm dẻo và linh hoạt hơn, ưu điểm của
phương thức này là tạo


1


quyền chủ động cho các bên, nhanh chóng và tiết kiệm được thời gian, có thể rút

ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Phán quyết trọng tài không
được công bố công khai, rộng rãi nên các bên có thể giữ được bí quyết kinh
doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. So với Tòa án thì thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có
quyền lựa chọn bất kỳ Trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp của mình,
và một ưu điểm nổi trội hơn nữa là phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm,
nghĩa là không bị kháng cáo, kháng nghị như bản án của Tòa án. Tuy nhiên, các
quy định pháp luật về trọng tài cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, pháp luật trọng
tài chưa phát huy được đầy đủ vai trò của mình trong môi trường kinh tế xã hội
hiện nay, nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của các chủ thể tham gia hợp đồng
thương mại chưa đầy đủ, bên cạnh đó quy định về thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp thương mại chưa rõ ràng… Do đó, pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại
bằng phương thức trọng tài cần phải hoàn thiện hơn nhằm đáp ứng yêu cầu giải
quyết tranh chấp thương mại phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế. Từ các vấn
đề phân tích nêu trên, tác giả chọn “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu vấn đề về pháp luật trọng tài luôn được nhiều nhà khoa học
pháp lý quan tâm. Một số bài báo, bài viết về vấn đề này chỉ đề cập đến khía cạnh
thực tiễn áp dụng pháp Luật trọng tài thương mại, về hình thức của Trọng tài
thương mại như: TS. Nguyễn Am Hiểu có bài “Một số đặc điểm của pháp luật trọng
tài phi chính phủ ở Việt Nam hiện nay” (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
5/1997); PGS.TS. Nguyễn Như Phát có bài “Pháp luật tố tụng và các hình thức tố
tụng kinh tế” (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2001); PGS.TS. Dương Đăng
Huệ có bài “Trọng tài kinh tế phi chính phủ ở Việt Nam – Thực trạng và những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nó” (Thông tin khoa học pháp lý –
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, số 5/1999). Các bài viết này đề cập
đến những vấn đề pháp luật của Việt Nam trước khi ban hành Pháp lệnh Trọng tài
thương mại, các bài viết đã đề xuất những giải pháp nhằm củng cố hoàn thiện hơn


2


pháp luật về Trọng tài thương mại. Khi pháp lệnh Trọng tài thương mại được ban
hành, cũng có một số bài viết về vấn đề trọng tài như: PGS.TS. Dương Đăng
Huệ có bài “Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 – Động lực mới cho sự phát
triển của trọng tài phi chính phủ ở nước ta”; Luận án tiến sĩ “Vai trò của Tòa án
trong hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam” của
tác giả Vũ Ánh Dương, năm 2006. Tuy nhiên, các bài viết này chỉ đề cập đến
những vấn đề chung của trọng tài thương mại như khái niệm, đặc điểm, bản chất
của trọng tài, thực trạng tổ chức và hoạt động của Trung tâm trọng tài, sự hỗ trợ
của Tòa án trong hoạt động tố tụng trọng tài. Kể từ ngày ban hành Luật trọng tài
thương mại, có một số đề tài nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ “Hủy phán quyết
của Trọng tài thương mại theo Luật trọng tài thương mại năm 2010” của tác giả
Phạm Minh; Luận văn thạc sĩ “Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài theo Luật trọng tài
thương mại năm 2010” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn. Tuy nhiên, vấn đề nghiên
cứu pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài lại
hạn chế, lĩnh vực nghiên cứu này giúp các chủ thể tham gia hợp đồng thương mại
xác định được thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài, nhằm phát huy
được đầy đủ vai trò của trọng tài trong quá trình hội nhập quốc tế và đây cũng
là một trong những điểm mới quan trọng được quy định trong Luật trọng tài
thương mại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là để hoàn thiện những quy định của pháp luật về
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, nghiên cứu về mặt lý luận của giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng trọng tài như: khái niệm, đặc trưng pháp lý và ý nghĩa của
phương thức này.

Hai là, phân tích kiểm tra thực trạng quy định của pháp luật về giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài.
Ba là, phân tích để làm rõ các tình huống, tranh chấp từ thực tiễn giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài.


3


Bốn là, Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật
Luận văn cũng phân tích những điểm còn hạn chế, bất cập trong các quy định
của pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, đồng
thời đưa ra những kiến nghị cụ thể góp phần sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất
cập, thiếu sót trong pháp luật hiện hành.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn công tác giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài tại thực tiễn Việt Nam.
4.1. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả chỉ tập trung phân tích, so sánh các quy
định của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài như: thẩm
quyền của trọng tài, điều kiện và thủ tục thụ lý; Phân tích, rút ra những vướng mắc,
hạn chế, bất cập từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài. Từ đó đề
xuất hướng hoàn thiện pháp luật quy định về giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm biện chứng và duy vật của
chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về

Nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học truyền thống như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn góp phần hoàn thiện hơn về nhận thức và pháp luật quy định về giải
quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. Đồng thời là tài liệu tham khảo tốt cho

4


giới doanh nghiệp, phục vụ và đáp ứng nhu cầu hiểu biết pháp luật về trọng tài cho
các nhà kinh doanh, giúp họ tin tưởng và sử dụng một cách thường xuyên phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn cũng rất bổ ích cho việc học tập, nghiên
cứu và giảng dạy pháp luật về Trọng tài thương mại tại các Trung tâm đào tạo khoa
học pháp lý tại Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học cho việc xây
dựng và hoàn thiện hơn pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, thì toàn
bộ nội dung của luận văn được xây dựng thành ba chương cụ thể sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực
tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài tại Việt Nam
Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại theo Luật Thương mại Việt Nam
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc
trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này được sử dụng
rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây cùng với sự nhường
bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc của cơ chế kế
hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam....
Ở Việt Nam, khái niệm “tranh chấp thương mại” lần đầu tiên được quy định
trong Luật thương mại 1997 thì “tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh
do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương
mại”. Nếu hiểu theo quy định này thì Hợp đồng thương mại có nội hàm bị giới
hạn, được hiểu theo nghĩa hẹp một cách chung chung. Hoạt động thương mại là
việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh
bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý
thương mại; ký gởi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng;
đầu tư; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa,
khách hàng bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành
vi thương mại khác theo quy định của pháp luật [44, tr. 5].
Vấn đề này đã được khắc phục khi Luật thương mại 2005 được ban hành, khái
niệm hoạt động thương mại hiện nay đã được hiểu theo nghĩa rộng. Từ đó, có

thể hiểu “Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung
đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt
động thương mại”. Như vậy, khi Luật Thương mại được ban hành thì khái
niệm hoạt động


6


thương mại được hiểu theo nghĩa rộng hơn và kế thừa khái niệm hoạt động thương
mại của pháp lệnh Trọng tài thương mại, quy định: Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác [41, tr. ]5],
với cách hiểu này thì mọi tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại của các chủ
thể tham gia đều là tranh chấp thương mại, chủ thể tham gia hoạt động thương mại
không chỉ là các doanh nghiệp, mà còn là các chủ thể khác chỉ cần tham gia nhằm
mục đích sinh lợi.
1.1.1.2. Khái niệm tranh chấp thương mại theo Luật trọng tài thương mại
2010
Luật trọng tài thương mại 2010 không nêu định nghĩa về tranh chấp thương
mại mà chỉ nêu đối tượng thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
[K.6, Đ2]. Đến khi Luật trọng tài thương mại được ban hành thì Luật này đã đương
nhiên thừa nhận thuật ngữ hoạt động thương mại và xác định thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp của Trọng tài mang tính rộng hơn và phù hợp với xu hướng thống
nhất khi ban hành các văn bản pháp luật, cụ thể Luật này quy định về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của Trọng tài là các tranh chấp sau:
1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
3. Tranh chấp giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng

tài. [41, tr. 4]
Như vậy, qua việc nghiên cứu hai khái niệm này tác giả nhận thấy rằng phạm
vi của những hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại là rất rộng. Trong xu
thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đa dạng và phức tạp hiện nay, nhu cầu cần phải có
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, một hành lang pháp lý an toàn về vấn đề giải
quyết tranh chấp thương mại ngày một lớn.
1.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại bằng trong tài
Trọng tài thương mại là phương thức có tính chất tài phán, quyết định giải

7


quyết tranh chấp do một bên chủ thể thứ ba nêu ra, có giá trị ràng buộc các bên
tranh chấp. Như vậy, khái niệm tranh chấp thương mại được hiểu là những tranh
chấp trong hoạt động thương mại diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh, các thương
nhân (bao gồm các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh) từ các khoản đầu tư,
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi, là kết quả của sự bất đồng chính kiến hay sự xung đột về quyền và lợi
ích hợp pháp giữa các chủ thể kể từ khi tham gia, xác lập, thực hiện và chấm dứt
các hoạt động kinh doanh thương mại. Vậy, việc các chủ thể kinh doanh, các
thương nhân (bao gồm các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh) lựa chọn các
phương thức, loại hình thích hợp mà pháp luật có quy định để khắc phục, loại trừ
các tranh chấp kinh doanh thương mại đã phát sinh, giải tỏa các mâu thuẫn, xung
đột, bất đồng của các bên có tranh chấp kinh doanh thương mại, để đạt được kết
quả mà các bên tranh chấp kinh doanh thương mại có thể chấp nhận được và tự
nguyện chấp hành.
Như vậy, có thể hiểu giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài chính
là cách thức áp dụng các quy định của pháp luật nhằm giải tỏa các mâu thuẫn, bất
đồng, xung đột quyền và lợi ích giữa các bên, tạo lập sự cân bằng về mặt lợi ích
mà các bên tranh chấp có thể nhận được trong quá trình thực hiện các hoạt động

thương mại.
Theo quan điểm phổ biến hiện nay trọng tài là bên thứ ba trung gian được sự
tín nhiệm của các bên, đứng ra để thực hiện công việc được các bên ủy thác nhằm
đạt đến một kết quả công bằng, thỏa đáng.
Ở Việt Nam vào những năm 1960, khái niệm trọng tài kinh tế xuất hiện cùng
với sự ra đời của chế độ hợp đồng kinh tế thông qua việc ban hành Nghị định số
04/TTg ngày 04/01/1960 của Thủ tướng Chính phủ quy định điều lệ tạm thời về chế
độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và các cơ quan Nhà nước; Nghị
định số 20/TTg ngày 14/01/1960 về tổ chức trọng tài kinh tế nhà nước quy định tạm
thời về các nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, trọng tài kinh tế ở
giai đoạn này là cơ quan Nhà nước.
Tháng 7 năm 1994, trọng tài kinh tế nhà nước bị giải thể, cả nước có nhu cầu

8


thiết lập trọng tài phi chính phủ, là một tổ chức độc lập, không thuộc hệ thống các
cơ quan Nhà nước, khái niệm “trọng tài kinh tế” lại được hiểu theo một nghĩa
khác. Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty với các thành viên
của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau, liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ
phiếu, trái phiếu [4, tr. 1].
Ở Việt Nam, khái niệm trọng tài thương mại dù xuất hiện khá muộn (kể từ khi
ban hành (pháp lệnh Trọng tài thương mại), theo đó thì Trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận
và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định [44, tr.
5], trọng tài theo quy định của Luật này được hiểu là một phương thức giải quyết
tranh chấp do các bên tranh chấp lựa chọn, quá trình giải quyết tranh chấp phải tuân
thủ các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

Từ những phân tích nêu trên có thể định nghĩa một cách khái quát về trọng tài
như sau: trọng tài có thể là cá nhân hoặc có thể là tổ chức được thành lập dựa trên
sự thống nhất ý chí, sự tự do thỏa thuận giữa các bên đối lập để giải quyết khi tranh
chấp phát sinh giữa chính các bên đó. Hay nói cách khác, trọng tài là một phương
thức giải quyết tranh chấp mà các bên đối lập thỏa thuận lựa chọn dựa trên sự tự
nguyện.
Với quy định này trọng tài được hiểu là một tổ chức được thành lập hợp pháp
để giải quyết các tranh chấp liên quan đến các hoạt động kinh doanh thương mại,
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài chỉ là giải quyết loại tranh chấp kinh
tế, đó là tranh chấp hoạt động kinh tế và các tranh chấp liên quan đến hoạt động
kinh doanh của công ty. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài phương
thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi chính phủ do các đương sự thỏa
thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp thương mại. Trọng tài chính là bên trung
gian thứ ba được các bên tranh chấp chọn ra để giúp các bên giải quyết những xung
đột, bất đồng giữa họ trên cơ sở đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên.
Như vậy, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một phương pháp pháp lý giải

9


quyết tranh chấp ngoài tòa án, theo đó các bên tranh chấp thỏa thuận đưa tranh chấp
của mình đến một trọng tài viên hay một hội đồng trọng tài để giải quyết theo
quy định của Luật trọng tài thương mại và chấp nhận chịu sự ràng buộc về mặt
pháp lý, tuân thủ phán quyết của trọng tài viên hay của hội đồng trọng tài. Trọng
tài thường được sử dụng để giải quyết các bất đồng trong hoạt động thương
mại, thường là thương mại quốc tế.
1.2 Đặc trưng pháp lý của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài
1.2.1. Thẩm quyền trọng tài phát sinh khi có thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng

tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh [41, tr. 5]. Thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài không mang tính đương nhiên như Tòa án. Một
tranh chấp thương mại khi không có thỏa thuận giải quyết tranh chấp thì nghiễm
nhiên cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ là Tòa án. Tuy nhiên nếu như có lựa chọn
thỏa thuận cơ quan giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo phương thức
trọng tài thì tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể
được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp [41, tr. 10] và Thỏa thuận trọng tài
phải có hiệu lực pháp luật, tức Thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp vô
hiệu [41, tr. 22]. Thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới hai hình thức: điều khoản
trọng tài hoặc thỏa thuận riêng, trong đó điều khoản trọng tài thường được xác
định trong hợp đồng ký kết giữa các bên hoặc các phụ lục không tách khỏi hợp
đồng, còn thỏa thuận riêng thì các bên có thể xác lập tại thời điểm tranh chấp đã
phát sinh mà trong hợp đồng không quy định điều khoản trọng tài.
1.2.2. Tính chất của tổ chức trọng tài thương mại
Tố tụng trọng tài bắt đầu khi trung tâm trọng tài nhận được đơn kiện của
nguyên đơn hoặc từ bị đơn nhận được đơn nhận được đơn kiện của nguyên đơn.
Nếu giải quyết tại tại trung tâm trọng tài, thì trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể
từ khi nhận được đơn kiện, trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn
kiện của nguyên đơn và những chứng cứ tài liệu mà nguyên đơn đã gửi. Chính



10


vậy, nên thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại đơn giản, không có nhiều công
đoạn tố tụng. Nếu như các bên lựa chọn trọng tài viên là người giải quyết tranh
chấp thì hầu như không có quy định bắt buộc về thủ tục tố tụng nào. Chỉ khi lựa
chọn Hội đồng trọng tài hoặc Trung tâm trọng tài, các bên mới phải tuân thủ thủ
tục tố tụng trọng tài. Khi xem xét thực tiễn hoạt động của trọng tài thương mại ở

mỗi quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế, các nhà nghiên cứu đều nhận xét
rằng quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài diễn ra nhanh hơn rất nhiều so
với thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Mặc dù trong một vài
trường hợp, tính nhanh chóng của thủ tục trọng tài có thể bị hạn chế và thời gian
giải quyết tranh chấp phải kéo dài thêm, nhất là khi tòa án ra quyết định hủy bỏ
quyết định của trọng tài; tuy nhiên các bên tranh chấp vẫn đánh giá cao ưu điểm
này của trọng tài. Thủ tục giải quyết thông qua trọng tài nhanh, gọn, linh hoạt đáp
ứng đòi hỏi hoạt động thương mại của các bên có liên quan. Chính vì vậy, mà so
với việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án, Phương thức trọng tài vẫn được ưu tiên,
bởi tính linh hoạt, hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp. Nhà
nước không can thiệp sâu vào các hoạt động của cơ quan trọng tài, nhưng sẽ thực
hiện vai trò quản lý của mình thông qua hệ thống các quy định pháp luật, cũng
như những tác động khác như tham gia điều ước quốc tế, đào tạo, hỗ trợ kinh phí
và cơ sở vật chất.
1.2.3 Đặc điểm của tố tụng Trong tài
Khi giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài, tại đây diễn ra quá
trình tranh tụng, theo đó các bên tranh chấp phải phát biểu và trả lời những câu
hỏi của Hội đồng trọng tài. Phiên họp giải quyết tranh chấp không công khai, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Các bên có thể trực tiếp hay ủy quyền
cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp. Các bên có thể mời
nhân chứng, luật sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tham dự phiên
họp giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp được các bên yêu cầu, Hội đồng
trọng tài có thể căn cứ vào hồ sơ để giải quyết tranh chấp mà không cần sự có
mặt của các bên. Hội đồng trọng tài phải lập biên bản phiên họp giải quyết tranh

11


chấp, đây là văn bản ghi nhận tiến trình của thủ tục trọng tài, cũng như toàn bộ
nội dung của quá trình tranh tụng. Và quá trình này có sự kết hợp giữa yếu tố

thỏa thuận và tài phán.
Thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết thoát ly
những yếu tố đã được thỏa thuận. Do đó, về nguyên tắc thẩm quyền của trọng tài
không bị giới hạn bởi pháp luật, các đương sự có thể lựa chọn bất kì lúc nào, bất
cứ trọng tài hoặc trung tâm trọng tài nào trên thế giới. Tuy nhiên để bảo vệ lợi
ích của nhà nước (lợi ích công), một số nước trên thế giới chỉ thừa nhận thầm
quyền của trọng tài trong lĩnh vực luật tư; ở Việt Nam tuy không phân biệt luật
công và luật tư nhưng pháp luật nước ta cũng chỉ thừa nhận thẩm quyền của
trọng tài trong lĩnh vực thương mại và một số lĩnh vực nhất định (Điều 2 luật
trọng tài năm 2010).
Kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng
tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp. Phán quyết của trọng tài vừa là sự
kết hợp của yếu tố thỏa thuận (các đương sự có thể thỏa thuận về nội dung tranh
chấp, cách thức giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với vụ tranh chấp) vừa là
sự kết hợp của yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên).
Trước tiên, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các
bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của pháp luật về trọng tài. Một
trong những nguyên tắc cơ bản của trọng tài đó là thẩm quyền được hình thành từ
ý chí thỏa thuận của các bên tranh chấp. Chính vì vậy mà phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài chỉ được thực hiện khi các bên có thỏa thuận trọng tài
nhằm đề cao ý chỉ tự do thoả thuận của các bên tranh chấp. Thỏa thuận trọng tài ở
đây có thể trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp. Tính thỏa thuận được thể hiện
ở việc các bên đương sự được tự do lựa chọn trung tâm trọng tài, thành lập Hội
đồng trọng tài, lựa chọn trọng tài viên và chỉ những trung tâm trọng tài, Hội đồng
trọng tài, trọng tài viên được lựa chọn đó mới có thẩm quyền giải quyết.
Bên cạnh đó, cũng như phương thức giải quyết bằng tòa án, Trọng tài thương
mại cũng có cách thức xử lý vụ việc theo quy trình, trình tự thủ tục rõ ràng, trọng

12



tài chỉ xét xử một lần các tranh chấp kinh doanh. Phán quyết của trọng tài là quyết
định chung thẩm, có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy
nhiên, tố tụng trọng tài là một thủ tục hết sức mềm dẻo và linh hoạt. Các thủ tục tố
tụng đơn giản, thuận tiện, đảm bảo thời cơ kinh doanh của các bên tranh chấp.
Đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài so với tố tụng tòa án. Nguyên tắc
này xuất phát từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí và quyền định
đoạt của các bên đương sự. Các bên đương sự đã tự do lựa chọn và tín nhiệm
người phán xử cho mình thì đương nhiên phải phục tùng quyết định của người đó.
Quyết định trọng tài là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án
của Toà án và nó được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những
tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quá hạn đó, bên được thi hành
có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh, nơi có trụ sở, nơi cư trú
hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành quyết định trọng tài. Đây được xem là ưu
điểm vượt trội của trọng tài thương mại so với biện pháp thương lượng, hòa giải
bởi thương lượng, hòa giải không có bất kỳ một chế tài nào áp dụng nếu một bên
vi phạm.
1.2.4. Tự định đoạt trong hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Phương thức trọng tài bảo đảm quyền tự định đoạt của các đương sự cao hơn
so với phương thức Tòa án, thể hiện cơ bản là các đương sự trong tố tụng trọng tài
có quyền lựa chọn trọng tài viên, địa điểm giải quyết tranh chấp, quy tắc tố
tụng, luật áp dụng đối với tranh chấp.
Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn quy tắc trọng tài, luật áp
dụng để giải quyết tranh chấp. Luật trọng tài năm 2010 tại Điều 14 đã quy định.
Ngoài ra một trong các nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài thương mại là phiên họp giải quyết tranh chấp không diễn ra công khai
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, nguyên tắc này đã thể hiện được sự tôn
trọng tối đa quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp trong giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, phương thức giải quyết trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xử
kín. Điều đó có nghĩa là không cần phải đưa các vấn đề tranh chấp, cơ sở của các


13


×