Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Skkn Vận dụng phương pháp reggio emilia trong giáo dục khoa học cho trẻ mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.92 KB, 50 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, với
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đòi hỏi giáo dục
phải đáp ứng nhu cầu học tập, nhanh chóng góp phần tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng cao. Chính vì vậy mà vấn đề giáo dục được quan tâm hàng đầu. Để đạt
được mục tiêu giáo dục thì người dạy phải có phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học phù hợp. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định
trong các Nghị quyết TW từ năm 1996, được thể chế hóa trong Luật Giáo dục
(12/1998) và được tái khẳng định trong luật giáo dục (2005).
Việc đổi mới phương pháp dạy học là mối quan tâm hàng đầu của ngành
giáo dục mà đặc biệt là giáo dục mầm non. Theo quan điểm giáo dục hiện đại,
dạy học là một quá trình tương tác giữa giáo viên với trẻ, giữa trẻ với giáo viên.
Để trẻ tiếp thu kiến thức tốt thì giáo viên phải có phương pháp giúp khơi dạy
tiềm năng, tính ham hiểu biết, tự khám phá ở trẻ chứ không phải thụ động tiếp
thu những kiến thức do giáo viên sắp đặt. Chính vì vậy, đổi mới phương pháp
dạy học về cơ bản là nhằm giúp người học hướng tới việc học tập chủ động, tích
cực và sáng tạo.
Với rất nhiều phương pháp dạy học khác nhau thì phương pháp Reggio
Emilia là phương pháp dạy học đặc trưng phù hợp. Reggio Emilia là một
phương pháp khuyến khích sự sáng tạo và cảm hứng, đánh giá cao khả năng của
trẻ cũng như sức mạnh, năng lực, sự kiên trì và tiềm năng vô tận từ khi trẻ tiếp
xúc với kiến thức. Đây là phương pháp giảng dạy tiên tiến chú trọng sự sáng tạo
và trí tưởng tượng của trẻ đem lại cho trẻ cơ hội trải nghiệm, khả năng phản ứng
với mọi tình huống khiến cho trẻ tự tin, vui vẻ và sáng tạo.


trường mầm non trẻ không chỉ được chăm sóc mà trẻ còn được làm

quen với các hoạt động khác nhau, trong đó hoạt động dạy trẻ khám phá khoa
học có một vai trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ . Hoạt động dạy trẻ



1


khám phá khoa học cung cấp cho trẻ những hiểu biết ban đầu về khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội. Góp phần quan trọng trong việc hình thành phẩm
chất, năng lực và phát triển một số kĩ năng như quan sát, phân tích, tổng hợp, so
sánh để trẻ dễ dàng vận dụng vào thực tế cuộc sống . Ngoài ra việc dạy trẻ khám
phá khoa học là tạo điều kiện hình thành và phát triển ở trẻ tâm hồn trong sáng,
hồn nhiên, lòng nhân ái, tình cảm yêu thương với người thân, với cuộc sống
xung quanh trẻ, biết yêu quý và bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ những truyền thống
của quê hương đất nước, trân trọng và giữ gìn sản phẩm lao động.
Trên thực tế, trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc tiếp xúc và nhận thức về
thế giới xung quanh. Trẻ nhỏ nào cũng rất say mê với những hoạt động đuổi
bướm hái hoa. Trẻ thích nhìn trời, nhìn đất, những giọt mưa, những đám mây…
Trẻ luôn thắc mắc, đặt ra những câu hỏi như : tại sao lại có mưa? Tại sao rau lại
màu xanh? Tuy nhiên, với nhu cầu muốn khám phá thế giới xung quanh rất lớn
của trẻ thì việc áp dụng các phương pháp trong dạy học để tổ chức cho trẻ khám
phá chưa thực sự hiệu quả. Trường học chú trọng vào một khung chương trình
cố định. Giáo viên thường chú trọng cho trẻ tìm hiểu bề ngoài của đối tượng, đa
số trẻ chỉ được hỏi và trả lời, giáo viên ít đưa ra câu hỏi mở kích thích sự tìm tòi
khám phá của trẻ, trẻ ít được sờ, nếm, thao tác với đối tượng nên trẻ có ít trải
nghiệm, ít có điều kiện giải quyết vấn đề mà trẻ dự đoán. Phương pháp Reggio
Emilia có vai trò to lớn trong việc giúp trẻ có những trải nghiệm thực tế để kiểm
nghiệm những dự đoán của trẻ về sự biến đổi của các sự vật hiện tượng xung
quanh trẻ, trẻ sẽ thấy được mối liên hệ, sự tác động qua lại hay quá trình phát
triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh. Phương pháp này
giúp trẻ có khả năng tự sáng tạo, mang đến cho trẻ những hiểu biết mới, trẻ sẽ
có được những câu trả lời cho những thắc mắc qua lắng kính của chính mình.


2


Cùng với thực tế và những ưu điểm mà phương pháp Reggio Emilia mang
đến vì thế chúng tôi chọn đề tài “ Vận dụng phương pháp Reggio Emilia trong
giáo dục khoa học cho trẻ mầm non” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đề xuất quy trình vận dụng phương pháp Reggio Emilia trong giáo dục
khoa học cho trẻ mầm non.
1.3. Đối tƣợng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc vận dụng phương pháp Reggio Emilia trong
giáo dục khoa học cho trẻ mầm non.
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục khoa học cho trẻ mầm non
1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phương
pháp Reggio Emilia trong giáo dục khoa học cho trẻ mầm non.
- Đề xuất quy trình vận dụng phương pháp Reggio Emilia trong giáo dục
khoa học cho trẻ mầm non.
-Thực nghiệm khoa học để khẳng định tính khả thi đúng đắn của đề tài.
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu, thực nghiệm khoa học được tiến hành trong phạm vi hẹp
tại: trường mầm non Phúc Thắng- Phúc Yên và trường mầm non Hoa Hồng
– Phúc Yên – Vĩnh Phúc.
1.6. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng được phương pháp Reggio Emilia trong giáo dục khoa học
cho trẻ mầm non trẻ sẽ tiếp thu được kiến thức về thế giới xung quanh, phát
huy tính tích cực chủ động sáng tạo của trẻ, nâng cao hiệu quả và chất
lượng giáo dục.
1.7. Phƣơng pháp nghiên cứu
-


Phương pháp nghiên cứu lí luận

3


Nghiên cứu tài liệu về phương pháp Reggio Emilia; phân tích, tổng hợp các
tài liệu về việc giáo dục khoa học cho trẻ mầm non.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Quan sát, khảo sát các hoạt động giáo dục khoa học cho trẻ ở các trường
mầm non.
Thực nghiệm khoa học: Áp dụng quy trình vận dụng phương pháp Reggio
Emilia trong giáo dục khoa học cho trẻ mầm non trong đề tài nghiên cứu
vào thực tiễn giáo dục, dạy học ở một số trường mầm non cụ thể.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
Thông qua phiếu điều tra người nghiên cứu bắt đầu thống kê số lượng các
phương pháp dạy học mà giáo viên sử dụng, mức độ sử dụng của các
phương pháp, biện pháp, hình thức tổ chức trong giáo dục khoa học cho trẻ
mầm non. Sau khi thống kê người nghiên cứu tiến hành nhập và xử lí số
liệu bằng cách dùng Excel vẽ sơ đồ, biểu bảng.
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
Thông qua các hoạt động, người nghiên cứu tiến hành phân tích để đánh
giá hoạt động học của trẻ mầm non; những kết quả đạt được, những khó
khăn và hạn chế khi vận dụng phương pháp Reggio Emilia trong giáo dục
khoa học cho trẻ mầm non.

4


PHẦN 2. NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN
DỤNG PHƢƠNG PHÁP REGGIO EMILIA TRONG GIÁO DỤC KHOA
HỌC CHO TRẺ MẦM NON
1.1. Cơ sở lí luận của việc vận dụng phƣơng pháp Reggio Emilia trong giáo
dục khoa học cho trẻ mầm non
1.1.1. Một số vấn đề về phương pháp Reggio Emilia
1.1.1.1. Lịch sử ra đời của phương pháp Reggio Emilia
Reggio Emilia là một thành phố thịnh vượng với một truyền thống lâu đời
của ngân hàng, thương mại và sản xuất có từ thời La Mã. Nó được bao quanh
bởi khu vực nông thôn trong đó bao gồm nhiều trang trại nhỏ và tiểu điền.
Reggio luôn luôn là một khu vực mà các vấn đề xã hội được thực hiện nghiêm
túc và là nơi mọi người được đóng góp một phần trong cuộc sống của các địa
phương, cộng đồng.
Các trường mầm non đầu tiên được thành lập vào năm 1945. Khu vực này
của Ý đã bị tàn phá bởi những tác động của chiến tranh, nhiều của những người
đàn ông trẻ đã bị giết. Trong ngôi làng nhỏ của Villa Cella, trên vùng ngoại ô
của Reggio Emilia, một lượng nhỏ tiền đã được trao cho các cộng đồng sau khi
bán một chiếc xe tăng, một vài con ngựa và một bị bỏ rơi. Các dân làng đã phải
bắt đầu xây dựng lại cuộc sống của họ và họ đã quyết định rằng họ sẽ bắt đầu
bằng việc xây dựng một trường mầm non. Họ thấy điều này như là một cách để
cho con cái của họ có một tương lai tốt hơn bằng cách xây dựng một loại trường
mới - một nơi mà trẻ em sẽ được trải nghiệm và tin tưởng vào khả năng của
chúng.
Trong những năm 1960, hội đồng địa phương Reggio Emilia giao trách
nhiệm cho việc phát triển và quản lý một mạng lưới các trường mầm non cho trẻ
em tuổi từ 3-6 và được cam kết tiếp cận Reggio.

5



Năm 1970 mạng lưới các trường mầm non đã được mở rộng khi các trung
tâm trẻ sơ sinh bé đầu tiên, cho trẻ từ 3 tháng đến 3 năm, đã được mở ra. Đây là
sự đáp ứng với nhu cầu của các bà mẹ có trẻ nhỏ, những người muốn trở lại làm
việc.
Năm 1991, tạp chí Mỹ, Newsweek, đặt tên là trường mầm non Diana là
một trong mười trường học tốt nhất trên thế giới. Điều này dẫn đến rất nhiều
người quan tâm đến phương pháp tiếp cận Reggio Emilia từ khắp nơi trên thế
giới. Năm 1994 tổ chức Reggio trẻ em được thành lập để tổ chức tham quan học
tập quốc tế.
Những người chủ chốt chịu trách nhiệm cho sự phát triển của phương pháp
tiếp cận Reggio Emilia là Loris Malaguzzi. Năm 1945 Loris Malaguzzi là một
giáo viên làm việc tại Reggio Emilia. Khi ông nghe nói về trường mầm non mà
đã được xây dựng tại Villa Cella ông đạp xe đến làng để tìm hiểu chuyện gì đã
xảy ra. Khi lắng nghe những người phụ nữ đang làm việc, và khám phá ra tầm
quan trọng của giáo dục mầm non với họ, ông đã truyền cảm hứng để tìm hiểu
thêm về những đứa trẻ nhỏ như một nhà tâm lý học.
Cách thức mà phương pháp tiếp cận Reggio đã phát triển đã chịu ảnh
hưởng bởi văn hóa của khu vực xung quanh. Người dân của Reggio Emilia được
tham gia các cuộc họp, được tham gia trong các cuộc thảo luận và chia sẻ quan
điểm khác nhau. Người lớn và trẻ em được gợi ý cho những ý tưởng mới và sẵn
lòng thử những cách khác nhau để làm việc.
Dưới sự hướng dẫn của Loris Malaguzzi, các cán bộ của các trung tâm và
trường mầm non tại Reggio đã nghiên cứu và thực hành tốt không chỉ tại đó mà
còn khắp thế giới. Họ được tham gia vào các dự án nghiên cứu liên tục vào tăng
sự hiểu biết về trẻ như thế nào và trẻ em suy nghĩ và học như thế nào. Cho đến
khi ông qua đời vào năm 1994, Loris Malaguzzi dành trọn cuộc đời mình để
phát triển những gì chúng ta gọi là phương pháp tiếp cận Reggio. Phương pháp
này đã được đặt tên theo ngôi làng Reggio Emilia ở phía bắc Italy.

6



1.1.1.2. Khái niệm phương pháp Reggio Emilia
Phương pháp là con đường, là cách thức hoạt động của chủ thể tác động
vào đối tượng nhằm chiếm lĩnh hoặc biến đổi đối tượng theo mục đích đã định.
Phương pháp Reggio Emilia không phải là một phương pháp “giảng dạy”
và cũng không có một trường đại học, cao đẳng nào đào tạo các giáo viên
Reggio Emilia. Nó là một phương pháp tiếp cận dựa trên sự hứng thú học tập
của trẻ (đứa trẻ có nhu cầu học tập không ngừng, chính sự mong muốn con học
tập những thứ con không thích và không liên quan khiến con ngừng lại sự ham
muốn học tập này). Reggio Emilia là một phương pháp khuyến khích sự sáng
tạo và tạo cảm hứng, đánh giá cao khả năng của trẻ như sức mạnh, năng lực, sự
kiên trì và tiềm năng vô tận từ trẻ khi tiếp thu kiến thức.
Phương pháp Reggio Emilia bắt nguồn từ niềm tin cho rằng trong mỗi trẻ
đều chứa đựng một tiềm năng lớn và tiềm năng đó sẽ được phát triển nhờ chính
trí tò mò vốn có của trẻ. Trẻ cố gắng tìm hiểu thế giới xung quanh và tự đưa ra
cách riêng của mình để giải thích sự vận động của thế giới xung quanh trẻ.
Như vậy, theo Reggio Emilia, mỗi cá nhân chúng ta đều xây dựng kiến
thức của mình từ những kinh nghiệm thực tế, thông qua những tương tác của
mỗi người với môi trường và xã hội. Trẻ em cũng vậy, trẻ cần được nhà trường
và gia đình trao cho những cơ hội để xây dựng kho kiến thức của mình dựa trên
trí tò mò tự nhiên của trẻ.
1.1.1.3. Đặc điểm của phương pháp Regiio Emilia
Reggio Emilia không phải là một chương trình. Phương pháp tiếp cận
theo cảm hứng Reggio Emilia tin rằng trẻ học hỏi thông qua tương tác với
những người khác như phụ huynh, giáo viên và bè bạn trong một môi trường
học tập thân thiện. Trẻ được coi như những người học thuần thục, biết tận dụng
tài nguyên, luôn tò mò giàu trí tưởng tượng và có tiềm năng sáng chế, đồng thời
trẻ có một niềm khao khát được tương tác và giao tiếp với người khác. Theo
phương pháp Reggio Emilia, học sinh là đối tượng có khả năng chủ động quá


7


trình/diễn biến bài học của mình. Bởi vậy, thay vì một chương trình học cố định,
các lớp học Reggio rất năng động và linh hoạt. Giáo viên đưa ra các bài học dựa
trên sở thích của học sinh, nên lớp học từ kì này sang kì khác, hay lớp học này
so với lớp học khác thì đều không có sự giống nhau. Các đặc điểm của phương
pháp Reggio Emilia:
* Trẻ là một người tham gia học tập chủ động: Theo phương pháp
Reggio Emilia, trẻ em là một người tự đề xuất và tự khởi xướng quá trình học
tập. Trẻ được phép làm việc theo suy nghĩ và nhu cầu của riêng mình để kết quả
có được là lợi ích thực sự của quá trình tư duy từ trẻ. Ví dụ: Các học sinh trong
lớp học muốn xây dựng một toà nhà, cô giáo sẽ mang vào lớp một khúc cây, các
mảnh gỗ và các vật liệu khác để trẻ tha hồ sáng tạo theo suy nghĩ và mong muốn
của mình. Trẻ sẽ được theo đuổi sở thích của chúng nhưng không phải là sao
cũng được. Ví dụ, khi trẻ trong lớp học tỏ ra thích thú với trò chơi xây dựng thì
giáo viên sẽ cung cấp thêm các thanh gỗ nhỏ với các màu sắc, kiểu dáng khác
nhau và các vật liệu khác nhằm giúp trẻ có vật liệu để phát triển tiếp ý tưởng và
sở thích sẵn có. Trong khi trẻ đang say sưa khám phá thì giáo viên sẽ đưa thêm
các cơ hội để học và làm quen với kỹ năng tính toán, giải quyết vấn đề, sự hợp
tác của cá nhân trong nhóm hay phải tự mình sáng tạo trong dự án thực hành học
tập...tất cả được thể hiện trong quá trình và kết quả làm việc của trẻ.
* Trẻ có thể giao tiếp bằng hàng trăm thứ ngôn ngữ khác nhau: Reggio
giúp trẻ nói lên được ngôn ngữ riêng của chúng, hiện thực hóa suy nghĩ của
chúng bằng nhiều cách, không chỉ bằng ngôn ngữ. Khía cạnh nổi bật nhất trong
phương pháp tiếp cận Reggio Emilia chính là niềm tin rằng trẻ thể hiện sự hiểu
biết và diễn tả suy nghĩ cũng như sáng tạo của mình bằng rất nhiều cách khác
nhau. Có hàng trăm cách suy nghĩ, khám phá và học tập. Thông qua các bức vẽ
và điêu khắc, hay các hoạt động nhảy múa và vận động, thông qua mỹ thuật và

đóng kịch cũng như các mô hình và âm nhạc và mỗi một cách trong “Hàng trăm
ngôn ngữ” này đều phải được coi trọng cũng như giáo dục. Tất cả những điều

8


này là một phần của trẻ em; học và chơi không thể tách rời. Phương pháp
Reggio Emilia nhấn mạnh cho phép trẻ sử dụng tất cả các giác quan và ngôn ngữ
của mình để học.
* Giáo viên- cha mẹ- trẻ đóng vai trò như những người hợp tác trong
quá trình học: theo Reggio Emilia mỗi đứa trẻ sẽ cố gắng tìm hiểu và tự đưa ra
ý kiến cá nhân để giải thích sự vận động của sự vật hiện tượng theo cách riêng
của mình. Trẻ có được những cơ hội tìm hiểu, khám phá, mở rộng kiến thức
thông qua cách tiếp cận theo chuyên đề, đông thời được trao đổi với bạn bè.
Giáo viên không phải là người “cho” kiến thức và trẻ là người “nhận” kiến thức.
Giáo viên là người bạn cùng học tập với trẻ, hỗ trợ trẻ thu thập thông tin, cùng
tìm hiểu, học hỏi về một chủ đề và sẽ là nhân tố quan trọng đóng góp vào quá
trình phát triển khả năng tư duy của trẻ.
Reggio Emilia kết nối trẻ với cộng đồng, gia đình, xã hội. Theo Reggio
Emilia đứa trẻ là một thực thể toàn thể không tách rời, trẻ em không phải là thứ
bị chia cắt bởi gia đình một phần, nhà trường một phần và xã hội một phần, do
đó nhà trường luôn là cầu nối với gia đình và xã hội cho trẻ.
Vì sống trong môi trường đầy sức sống và tình yêu, được là chính mình và hiểu
cuộc sống và các mối quan hệ, đứa trẻ Reggio là đứa trẻ biết giải quyết vấn đề
mà không dùng bạo lực, biết sống mà không sợ hãi vì biết tương tác và trải
nghiệm liên tục, biết làm việc không vì lợi ích bản thân và biết yêu vô điều kiện.
* Môi trường đóng vai trò quan trọng trong việc học của trẻ: Môi
trường là người thầy thứ ba cũng chính là nơi định giá quá trình học tập của trẻ,
là nơi cung cấp cho trẻ những công cụ để hiện thực hóa ý tưởng của trẻ và trong
phương pháp Reggio Emilia, sự hợp tác giữa các trẻ được đánh giá cao. Hầu hết

các trường học Reggio Emilia lý tưởng đều có một "xưởng nghệ thuật" được lấp
đầy với các vật liệu như đất sét, sơn và các nguyên vật liệu thiên nhiên, các tác
phẩm sáng tạo của trẻ. Trẻ em sử dụng các vật liệu trong “xưởng nghệ thuật” để

9


thể hiện những suy nghĩ và hiểu biết của trẻ về những gì trẻ suy nghĩ hay đã học
được trong các dự án.
* Việc học tập là trực quan sinh động: Theo phương pháp Reggio
Emilia, các giáo viên sủa dụng nhiều kiểu để lưu lại quá trình học tập của trẻ,
chẳng hạn như quay phim, chụp ảnh, viết nhận kí, lưu lại các ý tưởng và các sản
phẩm hoat động của trẻ. Giáo viên thường có một bìa hồ sơ lưu lại các ảnh chụp
các sản phẩm sáng tạo của trẻ, thậm chí các câu hỏi của trẻ. Điều đó giúp trẻ
cảm thấy rất tự hào và hãnh diện với quá trình học tập và sự tiến bộ của chính
mình.
1.1.2. Một số vấn đề về giáo dục khoa học cho trẻ mầm non
1.1.2.1. Khái niệm giáo dục
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia: “Giáo dục, theo nghĩa tổng quát là
hình thức học tập trong đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người
từ thế hệ này (người truyền đạt) được chuyển giao sang thế hệ kế tiếp (người thụ
huấn) thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra
dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học. Bất cứ
trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận,
hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục”.
Theo Từ Điển Giáo dục học: “ Giáo dục là truyền thụ những tri thức và
kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần
thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân
cách phù hợp với mục đích, mục tiêu, chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động
sản xuất và đời sống xã hội.

Giáo dục theo nghĩa rộng, là một quá trình đào tạo con người một cách có
mục đích, nhằm chuẩn bị cho họ tham gia vào đời sống xã hội, lao động sản
xuất, bằng cách tổ chức việc tuyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử
của xã hội loài người…

10


Giáo dục theo nghĩa hẹp, là một quá trình hoạt động có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch của một người hay một nhóm người- gọi là giáo viên- nhằm
tác động vào hệ thống nhận thức của người đó, để làm phát triển trí thông minh,
phát triển khả năng nhận thức phù hợp với thế giới khách quan, và làm phát
triển nhận thức của người đó lên; qua đó tạo ra một con người mới, có phẩm
chất phù hợp với yêu cầu được đặt ra.
Như vậy, với trẻ mầm non, giáo dục được hiểu là quá trình được tổ chức
có ý thức hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình
cảm, thái độ của trẻ theo hướng tích cực. Trên cơ sở đó mà từng bước hình thành
và hoàn thiện nhân cách cho trẻ theo phương hướng, yêu cầu mà xã hội đặt ra.
1.1.2.2. Khái niệm khoa học
- Khoa học là một thuật ngữ được sử dụng tương đối phổ biến trong cuộc
sống hàng ngày. Liên quan đến thuật ngữ này có rất nhiều cụm từ khá phổ biến
như : „kiến thức khoa học”, “nghiên cứu khoa học”, ngành khoa học‟.
- Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, “Khoa học là hệ thống
tri thức tích lũy trong quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh; phản ánh
những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như các hoạt động tinh
thần của con người; giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực”. Như
vậy, kiến thức khoa học là những kiến thức chính xác ở múc độ cao, còn nghiên
cứu khoa học được hiểu là hoạt động tìm tòi, khám phá của loài người để phát
minh ra tri thức có thể giải thích được các hiện tượng có trong tự nhiên, trong xã
hội, trong chính con người và cải tạo thế giới. Có hai nghành khoa học điển hình

là khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Theo GS. Nguyễn Văn Lê “ Khoa học được hiểu là những tri thức về tự
nhiên xã hội và tư duy về những quy luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Nó giải thích đúng dắn nguồn gốc của những sự kiện ấy, phát hiện
ra những mối liên hệ của các hiện tượng, vũ trang cho con người tri thức về

11


quy luật khách quan của thế giới hiện thực để con người áp dụng vào thực tiễn
sản xuất và đời sống.
Ở lứa tuổi mầm non, khoa học là những hiểu biết về thế giới khách quan
mà trẻ phát hiện, tích lũy trong các hoạt động tìm kiếm, khám phá các sự vật,
hiện tượng xung quanh mà trẻ tiếp xúc, để từ đó giải quyết những thắc mắc, tò
mò của trẻ về một hiện tượng, sự việc xảy ra. Từ đó trẻ thu được lượng kiến
thức khoa học đơn giản và quan trộng hơn là trẻ phát huy các năng lực cơ bản
như quan sat, tư duy logic, giải quyết vấn đề, hợp tác…
Như vậy, theo tôi khoa học đối với trẻ mẫu giáo không hẳn là những kiến
thức chính xác ở mức độ cao, nhưng chúng phải phong phú, thỏa mãn trí tò mò
của trẻ, góp phần làm giàu vốn kinh nghiệm để trẻ có thể giải quyết các tình
huống đơn giản, gần gũi với trẻ, chứ không nhất thiết là những kiến thức, những
lập luận biện chứng, trừu tượng thuần túy.
1.1.2.3. Mục tiêu của việc giáo dục khoa học cho trẻ mầm non
Điều 22, Luật Giáo dục (2005), “mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp
trẻ phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu
tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1”.
Dựa trên mục đích giáo dục cho trẻ mầm non, đặc điểm phát triển trẻ mầm
non, có thể xác định mục tiêu tron giáo dục khoa học cho trẻ mầm non như sau:
Về kiến thức: Củng cố, làm chính xác hóa những biểu tượng mà trẻ đã có,
cung cấp những biểu tượng mới. Những biểu tượng cũ là cơ sở, nền tảng để xây

dựng những biểu tượng mới.
Ngoài cung cấp biểu tượng mới cho trẻ thì giáo viên cũng cần mở rộng vốn hiểu
biết cho trẻ các kiến thức khoa học về sự vật, hiện tượng trong thế giới , đây
cũng là nhiệm vụ quan trọng của giáo viên nói chung và cả người lớn xung
quanh trẻ.
Cần giúp trẻ tích lũy vốn kiến thức một cách hệ thống, tổng hợp và khái quát.
Trong khi tổ chức các hoạt động GDKH cho trẻ cần giúp trẻ gọi tên chính xác

12


sự vật hiện tượng; nhận biết những dấu hiệu bên ngoài cơ bản có ý nghĩa trong
việc xác định đối tượng và mỗi quan hệ giữa đối tượng với đối tượng, mỗi liên
quan giữa con người với con người.
Về kỹ năng:
- Kỹ năng về mặt nhận thức (trí óc), rèn luyện các thao tác của tư duy,
phát triển các quá trình nhận thức, rèn kỹ năng quan sát, so sánh, tổng hợp, khái
quát các đối tượng, các nhóm đối tượng.
- Kỹ năng ngôn ngữ: Góp phần mở rộng vốn từ, hệ thống hóa và tích cực
hóa vốn từ cho trẻ. Có thể giúp trẻ mở rộng hoặc hệ thống hóa vốn từ, thêm chủ
đề hoặc loại từ để trẻ biết sắp sếp các từ, vốn từ theo lôgic, tật tự nhât định. Kỹ
năng diễn đạt ngắn gọn, rõ ràng, với thái độ mạnh dạn, tự tin, biết lắng nghe và
bày tỏ thái độ tôn trọng khi người khác trình bày.
- Kỹ năng nghiên cứu: sưu tầm tranh ảnh, tiêu bản, mẫu vật…
- Kỹ năng sống: làm việc nhóm, quản lí hành vi của bản thân, an toàn cho
bản thâ…
- Ngoài ra còn rèn luyện cho trẻ làm quen với các kỹ năng khác như: kỹ
năng vận động, kỹ năng ứng xử, kỹ năng đưa ra vấn đề và giải quyết vấn đề…
Về thái độ:
- Khơi gợi ở trẻ hứng thú và sự sẵn sàng khám phá các sự vật, hiện

tượng, kể cả các sự vật, hiện tượng không quen thuộc.
- Giáo dục ở trẻ ý thức tự giác giữ gìn, bảo vệ thiên nhiên và thế giới đồ
vật. Tùy từng nội dung và từng độ tuổi của trẻ mà có các nhiệm vụ cụ thể.
- Giáo dục ở trẻ sự tôn trọng, thiện cảm với mọi cơ thể sống, sự cảm
thông, chia sẻ, quan tâm tới những người thân trong gia đình, bạn bè và mọi
người xung quanh. Sống nhân hậu với con người, động vật, cỏ cây hoa lá, sống
hòa đồng, gắn bó với môi trường.

13


- Hình thành và rèn luyện các thói quen có văn hóa, văn minh như: thói
quen vệ sinh, lễ phép trong giao tiếp, kỹ năng lao động tự phụ vụ, chăm sóc cây
cối và kỹ năng học tập.
1.1.2.4. Nội dung của việc giáo dục khoa học cho trẻ mầm
non - Nội dung giáo dục khoa học tự nhiên:
+ Thế giới tự nhiên vô sinh (đất, nước, ánh sáng, không khí, cát sỏi) ở
nội dung này GV có thể cho trẻ KPKH: sự hòa tan của nước, gió có từ đâu, bảy
sắc cầu vồng, ánh sáng đi như thế nào, các đám mây…
+ Thế giới tự nhiên hữu sinh (Động vật, thực vật, con người): mầm và rễ,
cây cần gì để lớn lên và phát triển, hoa nở như thế nào, sự chuyển động của cá…

Với các mối quan hệ và liên hệ có tính quy luật của thế giới tự nhiên vô
sinh và hữu sinh, với những thay đổi liên tục và không ngừng là nguồn cung cấp
thông tin, kiến thức phong phú, là nguyên liệu cho tư duy và mục đích của
những khám phá ở trẻ. Nó là nguồn cảm hứng vô tận kích thích tính sáng tạo và
phát triển óc thẩm mĩ cho trẻ.
- Nội dung giáo dục khoa học xã hội: Đối với trẻ lứa tuổi mầm non, nội
dung giáo dục khoa học xã hội bao gồm những đồ vật, những sự kiện xã hội cụ
thể, các mối quan hệ qua lại giữa người với người. Có thể chia nội dung giáo

dục khoa học xã hội thành 2 nhóm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của
trẻ, đó là:
+ Môi trường hẹp (bản thân, gia đình, trường mầm non): khám phá về một
số giác quan của cơ thể con người
+ Môi trường rộng (làng, xóm,quê hương, đất nước): Trẻ sẽ tìm hiểu
những nét tiêu biểu, đặc trưng chính của quê hương mình để có cách sống và
ứng xử phù hợp.

14


Môi trường rộng còn có hành tinh, vũ trụ: tuy không gần gũi nhưng nó lôi
cuốn sự chú ý, quan tâm của trẻ. Cung cấp cho trẻ những thông tin, tạo cơ hội
cho trẻ được khám phá, tìm hiểu như một nhà khoa học.
Nội dung giáo dục khoa học cho trẻ mầm non tuy đơn giản và dễ hiểu
nhưng cần được lựa chọn để đối tượng mà trẻ khám phá mang tính điển hình, đủ
sức khái quát cho một nhóm các đối tượng khác. Hoặc cũng có thể khuyến kích,
tạo điều kiện cho trẻ có thể lựa chọn các đối tượng, các sự vật hiện tượng mà trẻ
thích để trẻ khám phá.
Những nội dung giáo dục khoa học cho trẻ mầm non mang tính thực tiễn
cao bởi nội dung, đốitượng mà trẻ học, trẻ khám phá là các sự vật hiện tượng
hàng ngày, hàng giờ xuất hiện trong cuộc sống của trẻ. Những kiến thức này vừa
giúp trẻ có nền tảng để khẳng định bản thân, tạo tiền đề để trẻ học những bậc
học tiếp theo.
1.1.3. Một số đặc điểm của trẻ mầm non
1.1.3.1.Đặc điểm tâm lí của trẻ mầm non
Nhà tâm lý học lỗi lạc Jean Piaget đã giải thích tính ham hiểu biết của trẻ
và khát vọng hành động của trẻ trong môi trường bởi quá trình tự điều chỉnh hay
còn gọi là sự cân bằng. Ở trẻ mầm non các quá trình tâm lí đang trong quá trình
hình thành và phát triển, trẻ ở lứa tuổi này rất có nhu cầu nhận thức về mọi vật

xung quanh; trẻ tò mò, ham tìm hiểu, thích khám phá và thường đặt ra các câu
hỏi đây là cái gì? Tại sao? Như thế nào? Khi tiếp xúc với các sự vật hiện tượng
xung quanh. Cùng với đó hoạt động vui chơi của trẻ mầm non đạt tới dạng chính
thức và đang phát triển tới mức hoàn thiện. Trong hoạt động vui chơi trẻ có thể
lựa chọn nội dung và chủ đề chơi, lựa chọn bạn chơi. Tự do tham gia vào trò
chơi mà mình thích hay có thể tự do rút ra khỏi trò chơi mà mình chán.

15


Trong hoạt động vui chơi, trẻ dần biết thiết lập những quan hệ rộng rãi và phong
phú với bạn cùng chơi.
Với những đặc điểm tâm lí đó của trẻ thì việc vận dụng phương pháp
Reggio Emilia trong giáo dục khoa học cho trẻ mầm non là hoàn toàn phù hợp
sẽ tạo cơ hội cho trẻ được khám phá, được trải nghiệm thực tế để tìm ra câu trả
lời cho những câu hỏi và được tự trải nghiệm những giả thuyết mà chúng đặt ra.
Reggio Emilia sẽ kết nối trẻ với bạn bè, cộng đồng, xã hội. Một “xã hội trẻ em”
được hình thành.
1.1.3.2. Đặc điểm sinh lí của trẻ mầm non
Hệ thần kinh:
Hệ thần kinh của trẻ dần hoàn thiện ở từng lứa tuổi. Trẻ có khả năng phân
tích, đánh giá, hình thành những kĩ năng, kĩ xảo vận động và phân biệt được các
hiện tượng xung quanh.
Hệ vận động:
Hệ vận động của trẻ đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện. Trẻ rất
ưa hoạt động, sẵn sàng và tích cực tham gia các hoạt động mà giáo viên tổ chức.
Hệ hô hấp:
Phổi của trẻ em lớn dần theo độ tuổi, số nhịp thở của trẻ giảm dần theo lứ tuổi.
Hệ tuần hoàn:
Diện tích lồng ngực của trẻ dần phát triển. Lúc dầu tim ở tư thế nằm

ngang, trẻ càng lớn tim sẽ ở tư thế thẳng so với người lớn. Các mạch máu của
trẻ rộng hơn so với người lớn.
Hệ trao đổi chất:
Cơ thể của trẻ đang phát triển, tuổi càng nhỏ quá trình lớn lên và hình thành các
tế bào và mô của trẻ diễn ra càng mạnh.
Cốt lõi của phương pháp Reggio Emilia là trẻ học thông qua trải nghiệm
thực tế ( sờ, nghe, quan sát, vận động). Trong khi đó cơ thể, các hệ cơ quan, hệ
vận động của trẻ đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện, trẻ rất thích hoạt

16


động và tích cực tham gia các hoạt động. Đây chính là điều kiện tốt nhất để giúp
trẻ có sức khỏe, có thể lực tốt để tham gia vào quá trình học tập, đặc biệt là các
hoạt động tìm tòi và khám phá thế giới.
1.1.3.3. Đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non
Trẻ có nhu cầu cao trong việc nhận thức về đặc điểm của các sự vật hiện
tượng trong thế giới xung quanh. Quá trình nhận thức thực chất là quá trình tồn
tại khách quan của sự vật, hiện tượng xung quanh. Nó xuất hiện ở trẻ ngay từ
sau khi sinh và phát triển mạnh vào cuối tuổi nhà trẻ và ở lứa tuổi mẫu giáo. Tuy
nhiên, do hạn chế của lứa tuổi về khả năng nhận thức, kinh nghiệm và mức độ
tích lũy tri thức nên sự nhận thức của trẻ nhiều khi không phản ánh đúng quy
luật tồn tại khách quan của thế giới mà lại theo tình cảm và cách nghĩ riêng của
trẻ.
Trẻ thường dùng trực giác để suy đoán, giải thích sự vật hiện tượng theo
cảm nhận. Logic của trẻ thường mang nặng cảm tính và chúng thường dùng
“phép màu” để giải thích những điều đang xảy ra xung quanh chúng. Màu sắc
cảm tính trong nhận thức của trẻ nhỏ đã được Piagiê khẳng định và coi đó là tính
tất yếu trong quá trình nhận thức ở trẻ. Ông cho rằng, học hỏi là quá trình bên
trong, trẻ giải thích sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh chúng bằng cách định

sẵn cho nó một cái ý nghĩa nào đó, chứ không phải là do nó tồn tại thực sự như
vậy.
Việc nắm được đặc điểm nhận thức này ở trẻ nhỏ là cần thiết để các nhà
giáo dục tìm cách tác động phù hợp với trẻ nhằm giúp chúng dễ dàng lĩnh hội tri
thức về môi trường xung quanh. Chúng ta không thể khắc phục yếu tố trực quan
cảm tính trong nhận thức của trẻ nhỏ bằng cách cố gắng giải thích để mong trẻ
hiểu đúng bản chất của sự vật và hiệ tượng, thay đổi quan điểm trước đó của
chúng. Một việc tích cực mà chúng ta có thể làm là tạo ra nhiều cơ hội cho trẻ
được trải nghiệm nhanh hơn quãng đường phát triển mà trẻ đang đi, chứ không

17


nên thúc ép, bỏ qua các giai đoạn trong quá trình nhận thức. Cần giúp trẻ bước
sang các giai đoạn phát triển kế tiếp một cách tự nhiên.
Phương pháp Reggio Emilia sẽ giúp trẻ giải quyết được những vấn đề trên
vì phương pháp này khuyến khích dành nhiều thời gian cho trẻ tự khảo sát, tự
khám phá, tự trải nhiệm, được thực hành rồi rút ra kết luận - tư duy logic được
hình thành. Nhưng ngay cả khi tư duy logic bắt đầu hình thành, trẻ vẫn cần được
thao tác trực tiếp với các đối tượng khi muốn tìm hiểu chúng. Do đó, việc vận
dụng phương pháp Reggio Emilia là cách tốt nhất mà các nhà giáo dục có thể
làm giúp trẻ trong giáo dục khoa học cho trẻ mầm non.quá trình đi đến sự hiểu
biết cái mới.
1.1.4. Phương pháp Reggio Emilia trong giáo dục khoa học cho trẻ mầm non
Phương pháp Reggio Emilia trẻ sẽ có một môi trường lí tưởng, tạo cảm
hứng sáng tạo cho trẻ, giúp trẻ trải nghiệm tương tác, giao tiếp, khám phá và đặc
biệt là để trẻ học khoa học. Ở phương pháp này, trẻ học từ môi trường xung
quanh, môi trường Reggio Emilia như một nhà kho đầy mĩ thuật, chứa đầy đủ
những vật liệu thiên nhiên, vật liệu mở hay tái chế, giúp con tự sáng tạo dựa trên
ý tưởng của mình. Trẻ được học cách bảo vệ môi trường từ rất sớm, ý thức từ rất

sớm ý nghĩa của thiên nhiên.
Với Reggio Emilia mỗi đứa trẻ được định hướng bởi chính sự thích thú
của trẻ để hiểu biết và tìm hiểu sâu rộng hơn. Trong mỗi đứa trẻ đều chứa đựng
một tiềm năng lớn và tiềm năng đó sẽ được phát triển nhờ trí tò mò vốn có của
trẻ. Trẻ tự học, tự tìm ra kiến thức thông qua khả năng tư duy, tìm hiểu và khám
phá của mình. Thông qua sự tự do khám phá trẻ em tìm được chân lý cuộc sống
qua lăng kính của chính mình.
- Trẻ được rèn luyện các kĩ năng thực hành từ các hoạt động. Từ đó mà
hình thành ở trẻ các năng lực quan sát, khả năng tư duy trừu tượng, khả năng
phán đoán, khả năng thực hành nhóm. Trẻ trở nên năng động, độc lập, tích cực.

18


Hình thành ở trẻ những đức tính cần thiết của người lao động mới cẩn thận, kiên
trì, khoa học, nhanh nhẹn và có kỉ luật.
- Mỗi một hoạt động mang đến cho trẻ những hiểu biết mới về các sự vật
hiện tượng trong thế giới xung quanh. Từ đó mà trẻ được củng cố, mở rộng hiểu
biết về những sự vật hiện tượng mà trẻ đã được làm quen, đã được học. Cung
cấp biểu tượng mới cho trẻ và làm chính xác hóa các sự vật hiện tượng.
- Giúp trẻ thấy được mối liên hệ, sự tác động qua lại, mối tương tác, quá
trình phát triển của sự vật hiện tượng trong hiện thực khác quan. Trẻ hiểu
nguyên nhân, diễn biến, kết quả, sự vận động, biến đổi của các quá trình phát
triển của sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh. Các sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan luôn có mỗi quan hệ tác động quan lại lẫn nhau, hỗ trợ
lẫn nhau trong quá trình sinh tồn và phát triển.
- Trong quá trình khám phá trẻ phải tập trung chú ý vào đối tượng, không
ngừng quan sát để khám phá ra những cái chưa biết, trẻ tò mò muốn biết sự thay
đổi, biến mất hay xuất hiện của một sự vật, hiện tượng. Chính những điều đó mà
tính tư duy trừu tượng, khả năng quan sát, so sánh đối chiếu, phán đoán của trẻ

được phát triển, trẻ được thỏa mãn trí tò mò, ham hiểu biết.
- Phương pháp Reggio Emilia hình thành ở trẻ tình yêu khoa học, có
niềm tin và niềm đam mê khoa học. Trẻ có khả năng giao tiếp tự nhiên. Khả
năng giao tiếp của trẻ là một quá trình từ cách khám phá thế giới xung quanh,
cách đặt câu hỏi, sử dụng ngôn ngữ khi chơi. Trẻ được khuyến khích sử dụng
ngôn ngữ để tư duy, tìm hiểu và khám phá và được trải nghiệm qua chính các
giao tiếp của trẻ với giáo viên, với gia đình và những người xung quanh. Trẻ
được lắng nghe với sự chú ý cao nhất và các câu hỏi quan sát của trẻ được tôn
trọng. Người lớn và trẻ cùng nhau giao tiếp trong việc tìm kiếm thông tin cho
các câu trả lời của trẻ. Trong khi trả lời câu hỏi của cô hay khi thảo luận nhóm
để tìm ra kết quả trẻ phải sử dụng từ ngữ khoa học, chính xác, phải diễn giải sao

19


cho câu nói trở nên mạch lạc, rõ ràng, dễ hiểu, có đủ thành phần chủ - vị trong
câu từ đó mà ngôn ngữ của trẻ được phát triển.
Theo Reggio Emiia trẻ có thể sử dụng toàn bộ các giác quan và toàn bộ
ngôn ngữ để học. Đây là nét riêng biệt và thú vị nhất của phương pháp, trẻ sử
dụng nhiều cách khác nhau để biểu lộ hiểu biết, giải thích cách tư duy và sáng
tạo. Có hàng trăm cách để suy nghĩ, để khám phá và để học.
Phương pháp tiếp cận này khơi dậy được nội tâm của trẻ và phát hiện
được bản chất của trẻ thông qua việc tạo nên sự hứng thú học tập thông qua sự
tinh tế phát hiện và khơi dậy của cô giáo và cha mẹ, từ đó chính cha mẹ và cô
giáo tạo ra cho trẻ một môi trường khơi gợi đầy khám phá.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phƣơng pháp Reggio Emilia trong
giáo dục khoa học cho trẻ mầm non
1.2.1. Thực trạng của việc sử dụng các phương pháp, biện pháp trong giáo
dục khoa học cho trẻ ở trường mầm non hiện nay
Trong giáo dục hiện nay, việc lựa chọn phương pháp, biện pháp giảng

dạy của hầu hết các giáo viên mầm non (chủ yếu là vùng nông thôn) vẫn theo
kiểu truyền thống tức sử dụng các phương pháp giảng giải thuyết trình,
phương pháp quan sát, đàm thoại hay sử dụng trò chơi, câu đố….Giáo viên
mầm non chưa hoặc ít khi sử dụng các phương pháp hiện đại. Qua trao đổi với
giáo viên họ cho rằng những phương pháp đó rất khó thực hiện, không dễ dàng
để tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động.
Bảng 1.2.1.1: Mức độ sử dụng các phương pháp, biện pháp trong giáo dục khoa
học cho trẻ ở trường mầm non hiện nay
Mức độ sử dụng
PPDH

Thường

Thỉnh

xuyên

thoảng

SL

%
20

SL

Hiếm khi
%

SL


%


Quan sát

95

100

0

0

0

0

Đàm thoại, giảng giải

95

100

0

0

0


0

Chỉ dẫn, nêu yêu cầu

75

71

20

29

0

0

Sử dụng tác phẩm văn học

80

76

15

24

0

0


Sử dụng âm nhac

73

69

22

31

0

0

Phương pháp trò chơi

90

86

5

14

0

0

Sử dụng hoạt động tạo hình


20

19

75

81

0

0

Phương pháp thí nghiệm

10

9.5

75

81

10

9.5

Mô hình hóa

0


0

12

11,4

83

88,6

Thảo luận nhóm

25

24

60

57

10

19

Phương pháp Reggio Emilia

1

0,95


4

3,8

90

95,25

Phương pháp khác…
=> Kết quả điều tra cho thấy giáo viên mầm non đều sử dụng phương pháp dạy
học truyền thống: Phương pháp đàm thoại, giảng giải (100%), phương pháp
quan sát (100%), phương pháp trò chơi (86%),phương pháp chỉ dẫn, nêu yêu
cầu(76%). Những phương pháp hiện đại đã được giáo viênmầm non sử dụng tuy
nhiên tỉ lệ sử dụng vẫn chưa cao cụ thể; phương phápthảo luận nhóm (24%),
phương pháp Reggio Emilia (0,95%).
Từ kết quả trên người nghiên cứu nhận thấy giáo viên chưa hiểu được vai
trò của phương pháp Reggio Emilia và việc vận dụng trong GDKH cho trẻ mầm
non còn hạn chế.
1.2.2. Thực trạng của việc sử dụng các hình thức tổ chức trong giáo dục khoa
học cho trẻ ở trường mầm non hiện nay
* Điều tra qua phiếu khảo sát
Bảng 1.2.2.1 Mức độ sử dụng các hình thức tổ chức trong giáo dục khoa học
cho trẻ ở trường mầm non

21


Mức độ sử dụng
Hình thức


Thường xuyên
SL
%

Thỉnh thoảng
SL
%

Hiếm khi
SL
%

Tiết học

95

100

0

0

0

0

Dạo chơi

95


100

0

0

0

0

Tham quan

0

0

45

Hoạt động góc

95

100

0

0

0


0

Tổ chức lễ hội

0

0

25

23,75

70

76,25

Lao động, chơi tự do

25

23,75

30

28,5

40

47,75


50

Hình thức khác

Nhận xét:
Dựa vào kết quả điều tra về các hình thức được sử dụng trong giáo dục
khoa học cho trẻ mầm non các hình thức thường xuyên được sử dụng là: tiết học
(100%), dạo chơi (100%). Tiết học được 100% GV lựa chọn vị đây là hoạt động
dạy học có chủ đích ở trường mầm non, dễ dàng cho việc GV tiến hành tổ chức
cho trẻ khám phá khoa học. Dạo chơi, và hoạt động góc không phải là hoạt động
chủ đích, tuy nhiên lại rất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, nhu cầu vận động
của trẻ và môi trường lại sẵn có nên rất dễ dàng trong việc GV lên kế hoạch bài
dạy.Hai hình thức này được tổ chức thường xuyên trong ngày và đã được quy
định trong chương trình GDMN hiện hành. Bên cạnh đó, các hình thức tham
quan, tổ chức ngày lễ hội ở trường mầm non lại rất ít được sử dụng do chi phí tổ
chức tốn kém, công tác quản lý, liên hệ khó khăn. Do đó, hai hình thức này ít
được giáo viên sử dụng trong GDKH cho trẻ mầm non.
1.2.3. Thực trạng cách tổ chức hoạt động giáo dục khoa học cho trẻ mầm non
hiện nay
Qua tiến hành điều tra bằng phiếu, đồng thời có phỏng vấn một số giáo viên
và dự một số giờ dạy học ở trường mầm non Phúc Thắng – Phúc Yên –

22


Vĩnh Phúc và trường mầm non Hoa Hồng – Phúc yên – Vĩnh phúc chúng tôi đã
thu được kết quả về thực trạng sử dụng phương pháp Reggio Emilia ở trường
mầm non của giáo viên như sau:
Bảng 1.2.3.1: Kết quả thực trạng cách giáo viên tổ chức hoạt động
GDKH cho trẻ ở trường mầm non hiện nay.

Cách tổ chức

Thường xuyên

Thỉnh
thoảng

Hiếm khi

Chưa
bao giờ

Giáo viên cho trẻ quan
sát đối tượng sau đó đặt

60%

30%

10%

0%

Giáo viên tổ chức cho trẻ 75%
nhận biết khám phá các

20%

5%


0%

30%

10%

40%

15%

20%

55%

câu hỏi và mời trẻ trả lời.

sự vật hiện tượng xung
quanh bằng cảm nhận
của các giác quan rồi đưa
ra các câu hỏi cho trẻ trả
lời
Giáo viên cho trẻ tham
20%
gia vào một số hoạt động
trong quá trình khám
phá.
Giáo viên đòi hỏi trẻ huy 10%
động vốn kinh nghiệm
và hiểu biết thực tế để
nhận biết, khám phá đối

tượng.

23


Biểu đồ 1: Thực trạng cách giáo viên tổ chức hoạt động GDKH cho trẻ ở
trường mầm non hiện nay.

Mức độ 60
sử dụng
50
40
30
Thường xuyên
Thỉnh thoảng

20

Hiếm Khi

10

Chưa bao giờ

0
HT 1

HT 2

HT 3


HT 4

Hình thức

Qua biểu đồ trên ta thấy, kết quả về việc giáo viên hiểu và vận dụng phương
pháp Reggio Emilia khi tổ chức hoạt động GDKH cho trẻ ở trường mầm non
như sau:
− 60% Giáo viên cho trẻ quan sát và nêu kết quả. Với cách làm này, giáo viên
đóng
vai trò trung tâm của cả quá trình khám phá. Trẻ chỉ là người quan sát, phán
đoán và nêu lên kết quả mà không được tham gia vào trải nghiệm sự thay đổi
của các sự vật, hiện tượng. Như vậy, trẻ trở nên bị động, nhanh quên, nhanh
chán, trẻ trở nên thụ động và không phát huy được tính tích cực của trẻ mầm
non.
-

75% giáo viên tổ chức cho trẻ quan sát, sau đó cho trẻ cảm nhận bằng

các hoạt động sờ, nếm sau đó nêu kết quả, 20% giáo viên thỉnh thoảng cũng làm
như vậy. Trẻ đã được thao tác với đối tượng, tuy nhiên sự trải nhiệm vẫn còn hạn
chế.

24


− 20% giáo viên là người hướng dẫn, dẫn dắt trẻ tham gia vào các hoạt động là
một phần của môi trường đó. Kết quả này cho thấy một số giáo viên đã quan tâm
đến việc thay đổi phương pháp trong việc tổ chức hoạt động trong GDKH cho
trẻ mầm non.

- 55% giáo viên không đòi hỏi trẻ huy động vốn kinh nghiệm và hiểu biết
thực tế để nhận biết, khám phá đối tượng. Vì vậy việc GDKH cho trẻ mầm non
không đạt được hiệu quả mong muốn và trẻ chưa thực sự được trải nghiệm theo
tinh thần của phương pháp Reggio Emilia.
1.2.4. Nhận thức của giáo viên mầm non về việc vận dụng phương pháp
Reggio Emilia trong giáo dục khoa học cho trẻ mầm non
Trong quá trình điều tra ý kiến, làm trắc nghiệm các giáo viên ở trường
mầm non Phúc Thắng – Phúc yên– Vĩnh Phúc và trường mầm non Hoa Hồng –
Phúc Yên – Vĩnh Phúc về việc cần thiết phải sử dụng phương pháp Reggio
Emilia trong giáo dục khoa học cho trẻ mầm non thì hầu hết giáo viên cho rằng:
Đây là phương pháp rất cần thiết và quan trọng. Bởi vì, bản thân phương pháp
Reggio Emilia có một sự hấp dẫn kì lạ, thôi thúc nhu cầu trẻ phải khám phá,
nhận biết thế giới xung quanh. Từ đó trẻ yêu thích hoạt động học hơn, yêu thích
các sự vật xung quanh trẻ, trẻ gần gũi với thiên nhiên hơn. Thông qua phương
pháp Reggio Emilia trẻ tự cho mình làm một nhà khoa học thực sự, trẻ được tự
làm, tự khám phá và hiểu rõ hơn về bản chất của các sự vật hiện tượng, từ đó mà
trẻ nhớ lâu hơn. Tuy nhiên một số giáo viên mầm non cho rằng phương pháp
Reggio Emilia trong dạy học chiếm nhiều thời gian và sử dụng nhiều đồ dùng và
cần môi trường học tập. Ngoài ra, giáo viên nghĩ phương pháp này không đảm
bảo tính kỉ luật của lớp học, khó thực hiện, không dễ dàng tổ chức cho trẻ tham
gia vào các hoạt động để đạt kết quả cao.Bên cạnh đó, có một số ý kiến cho rằng
phương pháp Reggio Emilia sẽ phát huy được tính tích cực của trẻ.Trẻ say mê
hoạt động, hứng thú với giờ học. Trẻ tích cực cùng cô tiến hành khám phá đưa
ra những giả thuyết và kết quả chính xác.

25


×