Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Ứng dụng mô hình kinh tế lượng trong nghiên cứu về quyết định chi tiêu của du khách nội địa đến tỉnh Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.69 KB, 15 trang )

Số 30 (55) - Tháng 7/2017

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Ứng dụng mơ hình kinh tế lượng trong nghiên cứu về quyết
định chi tiêu của du khách nội địa đến tỉnh Bình Dương
Application of econometric model to research on spending decisions of domestic
tourists travelling to Binh Duong Province
TS. Đinh Kiệm, Trường Đại học Lao động xã hội (cơ sở II)
Dinh Kiem, Ph.D., University of Labour Social Affairs 2
Đỗ Ngọc Hân, Trường Đại học Cơng nghiệp TP.HCM
Do Ngoc Han, Industrial University of Ho Chi minh City
Tóm tắt
Nghiên cứu đi sâu vào việc ứng dụng lập mơ hình kinh tế lượng về quyết định chi tiêu của khách du lịch
nội địa đến địa bàn tỉnh Bình Dương. Mơ hình xác lập dưới dạng tuyến tính - log, trong đó biến phụ
thuộc là mức chi tiêu của du khách gắn với bộ gồm 20 biến độc lập. Kết quả kiểm định mơ hình cho
thấy các biến thuộc đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm chuyến đi, cảm nhận của du khách về sản phẩm
dịch vụ du lịch tại Bình Dương có ảnh hưởng đáng kể đến mức chi tiêu của du khách. Trong đó, quyết
định chi tiêu của du khách chịu tác động bởi mức thu nhập bình qn, độ tuổi, tình trạng hơn nhân, nghề
nghiệp, thời gian lưu trú, người đi cùng chuyến đi và tổ chức tour kết hợp nhiều điểm đến. Bên cạnh đó,
các nhân tố mới trong khung phân tích gồm cảm nhận hài lòng của du khách về tính đa dạng của sản
phẩm du lịch, và chất lượng dịch vụ du lịch, xuất xứ khu vực của du khách ở TP.HCM có ảnh hưởng
quan trọng làm gia tăng chi tiêu bình qn. Kết quả nghiên cứu cũng tạo cơ sở để đưa ra những hàm ý
quản trị cho các doanh nghiệp du lịch lữ hành và cấp quản lí chức năng trong định hướng quảng bá và
nâng cao mức chi tiêu của du khách.
Từ khóa: du khách nội địa, quyết định chi tiêu, đặc điểm nhân khẩu học, đặc điểm chuyển đi, sản phẩm
du lịch tỉnh Bình Dương.
Abstract
This research intensively focuses on the application of economic model to spending decisions of
domestic tourists travelling to Binh Duong Province. It is a log-linear model in which dependent
variable represents tourists’ spending amounts in line with a set of 20 independent variables. Tests of


the model show that variables representing demographic characteristics, tour features and tourists’
feeling on tourist service products in Binh Duong Province have remarkable impacts on their spending
amounts. Specifically, tourists’ spending decisions are definitely affected by factors including average
income, age, marital status, occupation, duration of stay, travel companion and tour destinations. In the
analytic framework, moreover, such new factors as tourist satisfaction in the diversity and quality of
tourist products/services, and whereabouts of tourists in Ho Chi Minh City take significant impacts on
increases of the average spending amount. The results of this research also recommend managerial
implications on strategy orientation to tourist companies and the authorities in charge.
Keywords: domestic tourists, spending decisions, demographic characteristics, tour features, tourism
products in Binh Duong Province.

83


ỨNG DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG TRONG NGHIÊN CỨU VỀ QUYẾT ĐỊNH CHI TIÊU CỦA DU KHÁCH…

cấp độ nghiên cứu này có mục tiêu khác
nhau nhưng hướng thứ hai có ưu điểm là
tiếp cận và đi sâu vào nội tại về sự đa dạng
trong hành vi tiêu dùng của khách du lịch
nên nhất quán và phù hợp với lí thuyết
hành vi tiêu dùng (Alegre & Pou, 2004),
sâu xa hơn nó thuộc về phạm trù cảm nhận
chất lượng sản phẩm dịch vụ
(Parasuraman, 2002). Cũng cùng hướng
nghiên cứu này nhưng đa số các nghiên
cứu trước đây được thực hiện dựa trên dữ
liệu vĩ mô trong khi có khá ít nghiên cứu ở
cấp độ cá nhân du khách (Fredman, 2008).
Nghiên cứu này sử dụng số liệu sơ cấp

qua đợt khảo sát khách du lịch trong nước
đến tham quan tỉnh Bình Dương năm 2017,
phân tích tập dữ liệu này nhằm kiểm định
các nhân tố tác động đến quyết định chi
tiêu của du khách nội địa đến địa bàn tỉnh
Bình Dương. Cũng cần nói rõ về lợi thế địa
lý tự nhiên kinh tế - xã hội của Bình
Dương, như nằm ở trung tâm của vùng
Đông Nam bộ, cửa ngõ về phía Bắc của
TP.HCM đây là một trung tâm kinh tế hàng
đầu của cả nước, Bình Dương có hạ tầng
giao thông - kỹ thuật khá thuận lợi, là địa
phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế vào
nhóm nhanh nhất của các tỉnh vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam. Bên cạnh đó về tự
nhiên, Bình Dương có 3 con sông lớn chảy
qua là sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, sông
Bé với nhiều cảnh quan sông nước hữu
tình. Môi trường, cảnh quan thiên nhiên
tươi đẹp, khí hậu ôn hòa, có nhiều hồ suối
gắn với nhiều khu sinh cảnh nông nghiệp
cùng với danh lam thắng cảnh nổi tiếng.
Ngoài ra ở đây có quá trình lịch sử gần 300
năm hình thành nên gắn liền với nhiều di
tích lịch sử - văn hóa, các sinh hoạt làng
nghề truyền thống nổi tiếng trong và ngoài
nước. Với lợi thế về điều kiện tự nhiên văn hóa, Bình dương đang tập trung khai

1. Giới thiệu
Cung cầu du lịch là hai hướng tương

tác chủ yếu có ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động phát triển du lịch. Trong đó để
phát triển du lịch trên một vùng lãnh thổ
thì cầu du lịch được xem là nhân tố chủ
đạo ảnh hưởng đến hoạt động của ngành
du lịch và các ngành nghề cung ứng dịch
vụ liên quan khác (Sinclair & Stabler,
1997). Cầu du lịch thường được đo lường
bằng số lượng khách, số ngày lưu trú hay
mức chi tiêu của một du khách trong
chuyến đi (Zorba & cộng sự, 2003). Để
đánh giá mức độ kinh tế do hoạt động du
lịch mang lại, chỉ tiêu về mức chi tiêu của
du khách được xem là nội dung cốt lõi, vì
nó phản ảnh trực tiếp đến quy mô cũng
như hiệu quả hiệu quả kinh tế của một thị
trường điểm đến du lịch nhất định. Các thị
trường du lịch cũng mong muốn thu hút
được nhiều đối tượng du khách có mức chi
tiêu cao cho các sản phẩm dịch vụ du lịch
tại địa phương.
Việc nghiên cứu về mức chi tiêu của
du khách và các yếu tố ảnh hưởng đến
quyết định chi tiêu của họ có ý nghĩa quan
trọng cả về mặt định hướng xúc tiến quảng
bá, quản lí nguồn lực và dự báo của doanh
nghiệp du lịch lữ hành cũng như các cấp
quản lý về du lịch ở địa phương. Nội dung
nghiên cứu tập trung chủ yếu ở hai cấp độ
vi mô và vĩ mô. Ở cấp độ vĩ mô, nghiên

cứu phân tích các yếu tố có ảnh hưởng đến
tổng chi tiêu của du khách từ một thị
trường du lịch điểm đến nhất định, cấp độ
vi mô đi sâu đánh giá các nhân tổ ảnh
hưởng đến quyết định chi tiêu của từng du
khách trong chuyến đi (thuộc đặc điểm
nhân khẩu học, đặc điểm chuyến đi, cảm
nhận của du khách về sản phẩm và chất
lượng dịch vụ du lịch cung ứng tại Bình
Dương…). Mặc dù hai nội dung thuộc các
84


ĐINH KI M - ĐỖ NGỌC HÂN

thác với các loại hình du lịch lợi thế như:
du lịch miệt vườn, du lịch sinh thái, tham
quan làng nghề, vui chơi giải trí cuối tuần,
du lịch thể thao cao cấp, di tích lịch sử văn hóa... đã tạo lợi thế cho Bình Dương
đang dần trở thành một trong những điểm
đến hấp dẫn với du khách trong và ngoài
nước. Năm 2016, tỉnh đã đón khoảng
4.390.000 lượt khách (gồm 4,185 triệu lượt
khách nội địa và hơn 205 ngàn lượt khách
quốc tế), tăng gần 10% so với năm 2015.
Thị trường khách nội địa chiếm tỉ trọng
trên 95% nhưng mức chi tiêu bình quân
vẫn còn khá thấp. Nghiên cứu này đóng
góp về mặt lí thuyết định lượng trong ứng
dụng mô hình Kinh tế lượng để lập mô

hình quyết định hành vi chi tiêu của du
khách. Quan trọng hơn, kết quả nghiên cứu
này sẽ làm cơ sở để đề xuất một số hàm ý
quản trị nhằm nâng cao mức chi tiêu của
du khách nội địa và gia tăng tỉ trọng đóng
góp kinh tế từ phân khúc kinh tế du lịch
trong tương lai.
2. Nghiên cứu hành vi chi tiêu của
khách du lịch đối với điểm đến
2.1. Cơ sở lí thuyết
Theo các chuyên gia kinh tế, khi
nghiên cứu về hành vi chi tiêu của khách
du lịch đều nhìn nhận yếu tố chi tiêu du
khách đóng vai trò quan trọng trong việc
đo lường tác động kinh tế của ngành du
lịch đối với một điểm đến vì du lịch là một
hoạt động kinh tế xuất phát từ sự tiêu dùng
sản phẩm của du khách. Thông thường để
tìm hiểu về hành vi chi tiêu của du khách
khi đi du lịch nước ngoài (outbound), hầu
hết các nghiên cứu trước đây sử dụng dữ
liệu chuỗi thời gian vĩ mô (Lee & cộng sự,
1996), các phân tích chỉ ra những yếu tố
tác động được thiết lập bởi mô hình hồi
quy trong đó các biến độc lập như thu nhập
bình quân đầu người, mức giá cả tương đối

và tỉ giá hối đoái giữa hai quốc gia, thu
nhập bình quân đầu người,… có ảnh hưởng
cùng chiều và quan trọng nhất đến biến

phụ thuộc là quyết định mức chi tiêu; trong
khi mức giá tương đổi và tỉ giá hối đoái thì
có những tác động không đồng nhất đến
mức chi tiêu.
Với mô hình nghiên cứu nêu trên, trên
góc độ nghiên cứu vĩ mô, người ta đã loại
bỏ tác động của đặc điểm cá nhân đến
quyết định chi tiêu. Điều này nó chỉ đúng
với một số thị trường điểm đến đặc thù
riêng biệt. Trong khi đó nghiên cứu rộng
hơn, trên thực tế và về lí thuyết hành vi tiêu
dùng của khách du lịch thì quyết định chi
tiêu có thể chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân
tố như đặc điểm nhân khẩu học của khách
du lịch (thu nhập, độ tuổi, giới tính, học
vấn, nghề nghiệp, v.v.) hay đặc điếm
chuyến đi (hình thức tổ chức, số lượng
người trong đoàn, số lần tham quan, v.v..).
Ngoài ra theo Downward & Lumsdon
(2003) khi nghiên cứu tại Anh ở hai điểm
đến cụ thể, lại cho thấy đối với các nhân tố
này, kết quả chỉ ra rằng mức chi tiêu của
du khách có tương quan dương và có ý
nghĩa với thời gian lưu trú và số lượng
khách tham gia trong đoàn; ngược lại thu
nhập bình quân chỉ có ý nghĩa thống kê khi
du khách lưu trú dài ngày. Một nghiên cứu
tương tự khác của Jang & cộng sự (2004),
cho thấy rằng trong hầu hết các nghiên cứu
thì thu nhập của du khách có tác động cùng

chiều đến mức chi tiêu của khách.
Cũng theo Jang & cộng sự (2004) và
Mak & cộng sự (1977) thực hiện nghiên
cứu rộng hơn cho thấy nhóm du khách lớn
tuổi chi tiêu cao hơn nhóm du khách trẻ.
Một nghiên cứu khác của Wang & cộng sự
(2006) lại cho thấy kết quả khác: xảy ra
quan hệ ngược chiều giữa tổng chi tiêu của
du khách và độ tuổi. Hầu hết các nghiên
85


ỨNG DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG TRONG NGHIÊN CỨU VỀ QUYẾT ĐỊNH CHI TIÊU CỦA DU KHÁCH…

cứu về mức chi tiêu của du khách đề có kết
luận chung là yếu tố giới tính dường như
không có nhiều ảnh hưởng đến sự khác biệt
về mức chi tiêu của khách du lịch (Agarwal
& Yochum, 2000; Jang & cộng sự, 2004).
Theo Mak & cộng sự (1977) thì du khách
độc thân có mức chi tiêu cao hơn du khách
đã lập gia đình nhưng Wang & cộng sự
(2006) thì không tìm thấy mối liên hệ giữa
tình trạng hôn nhân và mức chi tiêu của
khách du lịch.
Một nghiên cứu tại Việt Nam, tại điểm
đến tỉnh Khánh Hòa – Nha Trang, tác giả
Nguyễn Thị Hồng Đào, (2013) lại cho thấy
ngược với kết quả của Mak và cộng sự, ở
đây các du khách đã kết hôn có mức chi

tiêu bình quân thấp hơn với khách độc thân
(thấp hơn 15,7%). Jang & cộng sự (2004)
cho rằng việc du khách du lịch một mình
hay đi cùng người khác có ảnh hưởng đến
mức chi tiêu. Agarwal & Yochum (1999)
cho thấy số lượng du khách trong đoàn
càng đông thì làm tăng tổng chi tiêu song
nếu là trẻ em thì làm giảm tổng chi tiêu.
Tuy vậy, theo Wang & cộng sự (2006) thì
số lượng trẻ em trong đoàn không quan
trọng trong quyết định chi tiêu. Kết quả
trên có cùng kết luận với nghiên cứu của
Nguyễn thị Hồng Đào, đối với du khách
đến Nha Trang, du khách đi một mình chi
tiêu ít hơn khách đi với cùng nhiều người.
Thời gian lưu trú tại điểm đến có thể ảnh
hưởng đáng kể đến mức chi tiêu, số ngày
lưu trú có quan hệ cùng chiều với tổng chi
tiêu (Agarwal & Yochum, 1999) và quan
hệ ngược chiều với chi tiêu bình quân ngày
(Taylor & cộng sự, 1993). Wang & cộng
sự (2006) và Mak & cộng sự (1977) cho
rằng không có sự khác biệt về mức chi tiêu
giữa du khách tham quan lần đầu và du
khách lặp lại hành trình. Ngược lại, Jang &
cộng sự (2004) nhận xét du khách đến du

lịch lần đầu chi tiêu cho mua sắm cao hơn.
Laesser & Crouch (2006) chỉ ra du khách
đi theo tour có chi tiêu thấp hơn 10% so

với mức chi trung bình của khách du lịch
đến Úc.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đều
kiểm định ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố
nhân khẩu học và đặc điểm chuyến đi. Kết
quả ước lượng cho thấy sự không đồng
nhất về ảnh hưởng của các nhân tố này mà
chúng tùy thuộc vào từng đối tượng khách
và điểm đến cụ thể. Nghiên cứu điển hình
của Peter Fredman (2008) được đánh giá
cao về việc đề xuất hai dạng mô hình hồi
quy tuyến tính-log nhưng do nghiên cứu du
lịch miền núi (Determinants of visistor
expenditures in mountain tourism) nhưng
không thấy tác giả đưa yếu tố về cảm nhận
của du khách hay yếu tố về phía cung
không được đưa vào mô hình, về lí thuyết
lẫn thực tiễn thì sự cảm nhận hay mức độ
hài lòng của du khách đối với chất lượng
dịch vụ du lịch và đặc điểm các sản phẩm
du lịch tại điểm đến có thể đóng vai trò
quan trọng trong hành vi chi tiêu của họ.
Theo Hill & Alexander (2006) thì khách
hàng sẽ sẵn lòng chi trả cao hơn cho sản
phẩm hay dịch vụ thoả mãn nhu cầu của
họ. Thực tiễn nghiên cứu hành vi về chi
tiêu của du khách nội địa tại Việt Nam, qua
nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Đào tại
điểm đến Khánh Hòa – Nha Trang cho
thấy yếu tố cảm nhận về sự phong phú đa

dạng sản phẩm cung ứng, cảm nhận chất
lượng dịch vụ của du khách là những yếu
tố hết sức quan trọng cần thiết đưa vào mô
hình (các biến đều đạt mức ý nghĩa thống
kê). Tuy nhiên đối với địa bàn khách du
lịch phía Nam, nhóm tác giả trong nghiên
cứu này còn phát hiện được yếu tố xuất xứ
của khách đến từ TP.HCM có mức chi tiêu
cao hơn so với các tỉnh phía Nam khác. Do
86


ĐINH KI M - ĐỖ NGỌC HÂN

Tham khảo từ các nghiên cứu nước
ngoài (Downward & Lumsdon, 2003; Jang
& cộng sự, 2004; Agarwal & Yochum,
2000; Wang & cộng sự, 2006; Fredman,
2008), nhóm tác giả cũng sử dụng biến
nhân khẩu học và biến đặc điểm chuyến đi.
Và từ nghiên cứu trong nước của Nguyễn
Thị Hồng Đào (2013) mô hình được mở
rộng bằng cách thêm vào các biến cảm
nhận của du khách về đặc điểm sản phẩm
du lịch và chất lượng dịch vụ du lịch, được
bổ sung thêm biến xuất xứ nguồn khách để
phân tích các yếu tố tác động đến quyết
định chi tiêu của du khách.

vậy, nghiên cứu này sẽ bổ sung vào mô

hình yếu tố cảm nhận của du khách về sản
phẩm dịch vụ du lịch bên cạnh các đặc
điểm cá nhân, đặc điểm chuyến đi, xuất xứ
nguồn khách trong quyết định chi tiêu của
du khách nội địa.
2.2. Mô hình nghiên cứu
Mô hình được thiết lập chủ yếu dự trên
dạng mô hình tuyến tính – log trong đó
biến phụ thuộc về mức chi tiêu được log
hóa, các biến độc lập ngoài biến định lượng
là thu nhập bình quân của khách (log hóa)
có lại các biến được đưa vào dưới dạng
biến giả (Dummy Variables).
ĐẶC
ĐIỂM
NHÂN
KHẨU
HỌC

* Thu nhập
* Nghề nghiệp
* Học vấn
* Xuất xứ

ĐẶC
ĐIỂM
CHUYỂN
ĐI

CẢM

NHẬN
CỦA
DU
KHÁCH

* Độ tuổi
* Giới tính
* Hôn nhân

* Số ngày lưu trú
* Số lần đến du lịch
* Kết hợp các điểm đến
* Người đi cùng
* Hình thức tổ chức

Quyết định chi
tiêu của du khách
nội địa

* Cảm nhận của du khách vềsự
đa dạng của sản phẩm du lịch
* Cảm nhận của du khách về
chất lượng dịch vụ du lịch

Hình 1: Sơ đồ nghiên cứu tổng quát
β17Sanpham2i + β18Dichvu1i+ β19Dichvu2i
+ β20Xuatxui + εi
(1)
Trong đó, biến mục tiêu Ln(Chitieui) là
logarit tự nhiên của mức chi tiêu bình quân

ngày của du khách tại Bình Dương, εi là
sai số ngẫu nhiên εi ~ N(0,δ2).
Các biến độc lập được định nghĩa như
sau:
- Biến nhân khẩu học: Ln(Thunhapi)

Mô hình kinh tế lượng từ khung phân
tích trên được biếu diễn dưới dạng hàm hồi
quy như sau:
Ln(Chitieui) = β0 + β1 Ln(Thunhapi)+
β2Tuoi1i + β3Tuoi2i + β4Gioii +
β5Honnhani + β6 Hocvan1i + β7Hocvan2i +
β8 Congviec1i + β9Congviec2i + β10Luutru1i
+ β11Luutru2i + β12Landeni + β13Dicungi, +
β14Kethop1 + β15Touri + β16Sanpham1i +
87


ỨNG DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG TRONG NGHIÊN CỨU VỀ QUYẾT ĐỊNH CHI TIÊU CỦA DU KHÁCH…

là logarit tự nhiên của thu nhập bình
quân/tháng của du khách; Tuoili/ là độ tuổi
(=1 nếu ≤ 35 tuổi, 0 nếu khác); Tuoi2i (=1
nếu từ 36 - 55 tuổi, 0 nếu khác); Gioii là
giới tính (=1 nếu là nam, 0 nếu là nữ);
Honnhani là tình trạng hôn nhân (=1 nếu
kết hôn, 0 nếu khác), Hocvanli là trình độ
học vấn (=1 nếu tốt nghiệp đại học, 0 nếu
khác); Hocvan2i (=1 nếu tốt nghiệp sau đại
học, 0 nếu khác); Congviec1i là nghề

nghiệp (=1 nếu là công chức, viên chức
nhà nước, 0 nếu khác); Congviec2i (=1 nếu
là kinh doanh, 0 nếu khác).
- Biến đặc điểm chuyến đi: Luutruli
là thời gian lưu trú (=1 nếu chỉ 1 – 2 ngày,
0 nếu khác); Luutru2i, (=1 nếu từ 3 - 5
ngày, 0 nếu khác); Landeni là số lần đến du
lịch Bình Dương (=1 nếu là lần đầu, 0 nếu
từ 2 lần trở lên); Dicungi là người đi cùng
du khách (=1 nếu đi một mình, 0 nếu đi
cùng ngưòi thân/bạn bè/đồng nghiệp);
Kethopi là việc kết hợp du lịch các điểm
khác ngoài Bình Dương (=1 nếu có, 0 nếu
không); Touri là hình thức tổ chức chuyến
đi (=1 nếu tổ chức theo tour, 0 nếu khác).
- Biến cảm nhận của du khách:
Sanphamli là cảm nhận của du khách về
mức độ phong phú đa dạng của các sản
phẩm du lịch (=1 nếu bình thường, 0 nếu
khác); Sanpham2i, (=1 nếu hài lòng, 0 nếu
khác); Dichvu li là cảm nhận của du khách
về chất lượng dịch vụ du lịch (=1 nếu bình
thường, 0 nếu khác); Dichvu2i (=1 nếu hài
lòng, 0 nếu khác); Xuatxui là xuất xứ của
du khách =1 nếu từ TP. Hồ Chí Minh đến,
0 nếu từ các tỉnh khác phía Nam).
3. Phuơng pháp nghiên cứu và dữ liệu
3.1. Phương pháp và bảng hỏi khảo sát
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
gồm định tính và định lượng, Nghiên cứu

được thực hiện theo hai giai đoạn. Nghiên
cứu ban đầu chủ yếu tham khảo các mô

hình đã có trong và ngoài nước, tiến hành
tổng hợp và phân tích lí thuyết nền và
nghiên cứu lý thuyết quy định về hành vi
chi tiêu của du khách để từ đó xác định các
yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến mức chi
tiêu của khách du lịch nội địa. Từ cơ sở lý
thuyết nền, các mô hình tham khảo, nhóm
tác giả lập bảng hỏi sơ bộ, trao đổi tham
khảo chuyên gia. Sau khi bảng câu hỏi
khảo sát du khách được thiết kế dựa trên
yêu cầu cung cấp thông tin dữ liệu cho
thực hiện công đoạn chạy hồi quy và và
thực hiện khảo sát ý kiến du khách về một
số chỉ tiêu phân tích định tính. Tiến hành
phỏng vấn thử 20 du khách nội địa tham
quan tại một số điểm du lịch ở Bình Dương
(chọn ở Khu Đại Nam và Dìn Ký - Lái
Thiêu). Tiếp đến, bảng câu hỏi được xem
xét và điều chỉnh để đảm bảo tính thuận
tiện và logic, bổ sung những thông tin phản
hồi trong quá trình khảo sát.
Bảng câu hỏi chính thức bao gồm các
thông tin về về ba nhóm biến như sơ đồ
nêu trên. Tổng hợp thông tin từ các bảng
hỏi, các câu trả lời được giới hạn và phân
nhóm mã hóa để tạo biến giả,biến về về
mức chi tiêu và thu nhập bình quân của du

khách là biến định lượng được log hóa.
Mô hình hồi quy dùng cho nghiên cứu
có quy định khá nghiêm ngặt, Theo N.
Gujarati (2003), đối với những chuỗi dữ
liệu có thang đo biến thiên lớn (như số liệu
doanh thu, chi phí quảng cáo, thu nhập,..)
nên sử dụng mô hình log-log, semi-log
hoặc xử lý các biến bằng sai phân. Theo
Fredman (2008), đối với mô hình về chi
tiêu của khách du lịch nên chọn dạng hàm
tuyến tính log vì nó liên quan đến bản chất
của mối quan hệ giữa các biến cũng như
tính chính xác của các ước lượng. Theo đó,
so với các dạng hàm khác như hàm tuyến
tính và hàm bán logarit thì dạng hàm hồi
88


ĐINH KI M - ĐỖ NGỌC HÂN

quy tuyến tính log có thể kiểm soát được
vấn đề dữ liệu không phân phối chuẩn và
phương sai có hiện tượng thay đổi. Nghiên
Cứu này sử dụng mô hình tuyến tính log.
Đặc điểm của mô hình tuyến tính log là hệ
số góc β biểu thị hệ số co giãn của biến phụ
thuộc đối với biến độc lập và hệ số co giãn
này không thay đổi. Ngoài ra, do mô hình
gồm nhiều biến độc lập nên vấn đề đa cộng
tuyến cũng được kiểm định. Nghiên cứu sử

dụng phân mềm Eview 9.0 cho phân tích
định lượng.
3.2. Mẫu, kích thước và đặc điểm mẫu
Phương pháp lấy mẫu thuân tiện, đối
tượng là khách du lịch nội địa đã đến du
lịch tỉnh Bình Dương (chủ yếu từ các tỉnh

thành khác phía Nam). Địa bàn khảo sát
được chọn các điểm có lượng khách tập
trung lớn nhưng đảm bảo phân bố rộng trên
địa bàn Bình Dương (khu Lái Thiêu, Chợ
và thành phố Thủ Dầu Một, Khu DL Đại
Nam, Khu DL Hồ Dầu Tiếng,…). Sau khi
xem xét quy định của mẫu đối với mô hình
hồi quy bội: Kích thước mẫu tối thiểu n=
8p+50, trong đó p là số biến độc lập tham
gia mô hình, (Fidell& Tabachnic, 2003)
Vậy số lượng mẫu phù hợp yêu cầu đưa
vào nghiên cứu là 210 (với p =20). Để
nâng cao độ tin cậy của mô hình kích thước
mẫu được chọn là 293 mẫu.
Mô tả mẫu nghiên cứu được trình bày
trong bảng dưới đây:

Bảng 1. Mô tả mẫu nghiên cứu
Biến quan sát

Tần số Tần suất
(người)
(%)


Biến quan sát

Tần số
(người)

Tần suất
(%)

Số ngày lưu trú

Chi tiêu bình quân
Dưới 1 triệu

40

13,7

Từ 1 – 2 ngày

139

47.6

Từ 1 - 2 triệu

101

34.5


Từ 3 - 5 ngày

113

38.7

Tù 2 - 3 triệu

98

33.4

Từ 5 ngày trở lên

41

13.7

Trên 3 triệu

54

18.4

Số lần đến Bình Dương
Lần đầu

198

67.6


Thu nhập bình quân
Dưới 5 triệu VND

50

17.1

Lần thứ hai

61

20.8

Từ 5-10 triệu VND

150

51.2

Từ 3 lần trở lên

34

11.6

Trên 10 triệu VND

93


31.7

Đi với ai (Người đi cùng)

Độ tuổi

Một mình

50

17.1

Dưới 35

100

34.1

Cùng gia đình

84

28.7

Từ 36-55 tuổi

99

33.8


Bạn bè, đồng nghiệp

108

36.9

Trên 55 tuổi

94

32.1

Khác

51

17.3

Giới
tính
Nam

144

Kết hợp thăm viếng khác ngoài Bình Dương
49.1


89


110

37,7


ỨNG DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG TRONG NGHIÊN CỨU VỀ QUYẾT ĐỊNH CHI TIÊU CỦA DU KHÁCH…

Biến quan sát
Nữ

Tần số Tần suất
(người)
(%)
149

Biến quan sát

Tần số
(người)

Tần suất
(%)

Không

183

62.3

50.9


Hình thức tổ chức chuyến đi

Tình trạng hôn nhân
Đã lập gia đình

138

47.1

Đặt theo tour

77

26.3

Độc thân

155

52.9

Tự sắp xếp

216

73.7

Trình độ văn hóa


Sự đa dạng của sản phẩm du lịch

THCS
Phổ thông

6
19

2.0
6.5

Hài lòng

150

51.2

Trung cấp/Cao đẳng

21

7.2

Bình thường

122

41.6

Đại học


210

71.7

Không hài lòng

21

7.2

Sau đại học

37

12.6

Chất lượng dịch vụ du lịch

Nghề nghiệp

Hài lòng

144

49.2

Học sinh sinh viên

12


4.1

Bình thường

111

38.2

Công chức, viên chức

94

32.1

Không hài lòng

38

12.6

Kinh doanh

148

50.5

Xuất xứ của du khách

Nghỉ hưu


2

7.0

Khác

37

12.6

Từ Thành phố HCM
Tây Nam bộ
Đông nam bộ
Khác

156
43
51
43

53.2
14.7
17.4
14.7

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra của tác giả (2017)

Thống kê cho thấy đa phần du khách
có mức chi tiêu bình quân từ 1-3 triệu đồng

(chiếm 67,9%). Thu nhập bình quân du
khách khá cao với 51,2% có thu nhập từ 510 triệu đồng/tháng. Phần lớn du khách có
độ tuổi dưới 55 (gần 68%); nữ chiếm tỷ lệ
cao hơn với gần 51%; gần 53% du khách
còn độc thân; phần lớn du khách có trình
độ đại học và sau đại học (84,3%) và làm
việc trong lĩnh vực kinh doanh (50,5%). Về
đặc điểm chuyến đi, số ngày du khách lưu
lại Bình Dương phần lớn là 1 – 2 ngày
chiếm 47,60%; có trên 88,4% du khách là
lần đầu hoặc lần thứ 2 đến với Bình

Dương; khách chủ yếu đi du lịch cùng
người thân và bạn bè, đồng nghiệp (gần
66%); đa phần khách nội địa chỉ đi Bình
Dương du lịch (62,30%); và phần lớn số du
khách tự tổ chức chuyến đi (73,70%). Về
sự cảm nhận của du khách, trên 50% du
khách được hỏi hài lòng về sự đa dạng
phong phú của các sản phẩm du lịch
(51,20%) và hài lòng về chất lượng dịch vụ
du lịch thì thấp hơn (49,20%) tại Bình
Dương. Về xuất xứ nguồn khách phần lớn
du khách nội địa đến từ khu vực TP.HCM
(53,20%) có lẽ do cự ly gần và đường sá
thuận lợi.
90


ĐINH KI M - ĐỖ NGỌC HÂN


hệ số R2 có giá trị khá cao, khi đưa thêm
biến xuất xứ nguồn khách HCMCi đạt
70,66% (nếu không đưa biến này vào chỉ
khoảng hơn 60%). Hệ số R2 điều chỉnh cho
thấy các biến độc lập tham gia có khả năng
giải thích được 68,49% sự biến thiên về
mức chi tiêu của du khách. Giá trị P-value
tương ứng với F rất nhỏ (P =0.000<0.05)
nên mô hình hồi quy xác lập là phù hợp.

4. Kiểm định và phân tích mô hình
nghiên cứu
4.1. Kiểm định mô hình
Các nghiên cứu trước đây của
Fredman (2008) cho thấy hệ số xác định
này thường không quá cao, thường chỉ đạt
mức trên dưới 50%. Tiến hành kiểm định
tổng quát mô hình hồi quy về sự phù hợp
của mô hình (kiểm định ANOVA) cho thấy


Kiểm định sai số (phần dư) của mô hình theo phân phối chuẩn:

Nguồn: Tác giả xử lý trên phần mềm Eviews 9.0

Với giá trị P-value (Jarque-Bera) = 0.0146 > 0.01 cho thấy ở mức ý nghĩa 1% sai số thỏa
mãn điền kiện tuân theo phân phối chuẩn.



Kiểm định White về tính chất phương sai của sai số thay đổi (Heteroskedasticity):

Nguồn: Tác giả xử lý trên phần mềm Eviews 9.0

P-value của đại lương kiểm định = 0.0296 cho thấy ở mức ý nghĩa 1% mô hình không
xãy ra hiện tượng phương sai sai số thay đổi.


Kiểm định tự tương quan của sai số mô hình (kiểm định Breusch-Godfrey)

Nguồn: Tác giả xử lý trên phần mềm Eviews 9.0

91


ỨNG DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG TRONG NGHIÊN CỨU VỀ QUYẾT ĐỊNH CHI TIÊU CỦA DU KHÁCH…

mức độ đa cộng tuyến trở nên nghiêm
trọng khi hệ số VIF lớn hơn 10. Vì vậy,
kết quả Bảng 2 cho thấy các hệ số
Phương sai phóng đại VIF đều nhỏ hơn
10 nên có thể kết luận hiện tượng đa cộng
tuyến không có ảnh hưởng đáng kể đến
mô hình.

P-value của đại lượng kiểm định =
0.0132 cho thấy ở mức ý nghĩa 1% mô
hình không xảy ra hiện tượng tự tương
quan của sai số trong mô hình.
Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

thông qua hệ số phóng đại phương sai
VIF. Theo Neter & cộng sự (1990) thì

Bảng 2. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy tuyến tính log
Hệ số

Sai số
chuẩn

Thống kê
t

Giá trị
P

Hệ số
VIF

Thu nhập BQ (Thunhapi)

0,265148***

0,050645

5,235436

0,0000

1,769


Độ tuổi ( Tuoili )

-0,206472***

0,063666

-3,243061

0,0013

2,388

Độ tuổi ( Tuoi2i )

-0,136725***

0,051499

-2,654887

0,0084

1,500

Giới tính ( Gioii )

-0,022517

0,040462


-0,556513

0,5783

1,060

Hôn nhân ( Honnhani )

-0,236666***

0,045817

-5,165471

0,0000

1,356

Học vấn 1 (Hocvan1i)
Học vẩn 2 (Hocvan2i)

-0,050960
0,057358

0,055888
0,075439

-0,911825
0,760318


0,3627
0,4477

1,635
1,707

Nghề nghiệp 1 (Congviecli)

0,331579***

0,064291

5,157503

0,0000

2,355

Nghề nghiệp 2 (Congviec2i)

0,342632***

0,077985

4,393550

0,0000

3,940


Thời gian lưu trú 1 (Luutruli)
Thời gian lưu trú 2 (Luutru2i)

0,216317***
0,227415***

0,051683
0,049095

4,185450
4,632142

0,0000
0,0000

1,377
1,2802

0,073177*

0,040836

1,791969

0,0743

1,074

Người đi cùng (Dicung i )


-0,182525***

0,048558

-3,758875

0,0002

1,166

Kết hợp điểm đến (Kethopi)
Hình thức tổ chức (Touri)

-0,037328***
-0,025753

0,047056
0,066979

-0,793266
-0,384494

0,4238
0,7009

1,413
1,103

Sản phẩm đa dạng 1 (Sanphamli)


0,158044*

0,087142

1,813631

0,0708

4,787

Sản phẩm đa dạng 2 (Sanpham2i)

0,159925*

0,091245

1,752700

0,0808

5,392

Chất lượng dịch vụ 1 (Dichvuli)

0,182760**

0,080148

2,280280


0,0234

3,936

Chất lượng dịch vụ 2 (Dichvu2i)

0,271997***

0,084239

3,228876

0,0014

4,596

Xuất xứ nguồn khách (Xuatxui)
Hằng số ( _cons)
Số quan sát (obs)

0,181370***
-0,571407

0,050559 3,587311
0,146970 -3,887902
293

0,0004
0,0001


1,652

Tên biến

Số lần đến Bình Dương (Landeni)

Prob (F)

0,0000

2

Hệ số R

2

0,7066
2

Hệ số R hiệu chỉnh (Adj R )

0,6849

Ghi chú: ***, ** và * lần lượt kí hiệu các mức ý nghĩa thống kê 1%, 5% và 10%.
Nguồn: Ước lượng từ dữ liệu điều tra của tác giả với Eviews 9.0 (2017).

92


ĐINH KI M - ĐỖ NGỌC HÂN


yếu tố khác không đổi.
Đối với tình trạng hôn nhân: của du
khách cũng có ảnh hưởng đáng kể đến
quyết định chi tiêu trong chuyến đi. Hệ số
ước lượng âm và có ý nghĩa của biến
Honnhani cho thấy các khách du lịch đã kết
hôn có mức chi tiêu bình quân thấp hơn
21,07% so với những khách du lịch còn
độc thân (e-0,236666 -1 = -0,210745), với
điều kiện các yếu tố khác không thay đổi.
Điều này cho thấy có thể những du khách
đã lập gia đình thường có nhiều kinh
nghiệm hơn về quản lí tài chính cũng như
tâm lí tiết kiệm trong chi tiêu (Mak & cộng
sự, 1977) và (Nguyễn Thị Hồng Đào,
2013).
Đối với mức chi tiêu: của du khách
cũng có sự khác biệt tùy vào nghề nghiệp
của họ. Trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi thì nhóm du khách là cán bộ
công chức, viên chức nhà nước
(Congviec1i) và du khách làm nghề kinh
doanh (Congviec2i) có mức chi tiêu bình
quân cao hơn các nhóm du khách khác
(gồm học sinh sinh viên và hưu trí) lần lượt
là 39,31% và 40,86% (e0,331579 - 1 =
0,3931662 và e0,342632 -1 = 0,4086503).
4.2.2. Đặc điểm chuyến đi và quyết
định chi tiêu của du khách

Kết quả ước lượng cho thấy quyết định
chi tiêu của du khách nội địa cũng chịu tác
động bởi các đặc điểm của chuyến đi.
Đối với thời gian lưu trú với hệ số
hồi quy dương và mức ý nghĩa cao
(P_value = 0,000) cho thấy yếu tố này
đóng vai trò rất quan trọng. Khách lưu trú
ngắn ngày có mức chi tiêu bình quân cao
hơn so với khách lưu trú dài ngày (tương tự
kết quả của Taylor & cộng sự, 1993 và của
Nguyễn Thị Hồng Đào, 2013). Với điều
kiện các yếu tố khác không đổi thì du
khách nội địa lưu trú từ 1 - 2 ngày

4.2. Phân tích kết quả và kiểm định
mô hình nghiên cứu
4.2.1. Đặc điểm nhân khẩu học và
quyết định chi tiêu của du khách
Kết quả ước lượng mô hình (1) cho
thấy các đặc điểm nhân khẩu học đóng vai
trò quan trọng trong quyết định chi tiêu của
du khách. Ngoại trừ biến giới tính và học
vấn thì các biến còn lại đều có ý nghĩa
thống kê.
Đối với thu nhập bình quân của du
khách (Ln(Thunhapi)): có ảnh hưởng
cùng chiều và có ý nghĩa thống kê cao đến
mức chi tiêu (P value = 0,000). Trong mô
hình tuyến tính log thì hệ số hồi quy đồng
thời là hệ số co giãn nên nếu thu nhập tăng

1% thì mức chi tiêu của khách du lịch sẽ
tăng tương ứng 0,265% với điều kiện các
yếu tố khác không đổi. Đây là kết quả
không nằm ngoài kì vọng vì thu nhập được
xem là yếu tổ quan trọng quyết định mức
chi tiêu của du khách trong các nghiên cứu
trước (Jang & cộng sự, 2004) và cả nghiên
cứu trong nước (Nguyễn Thị Hồng Đào,
2013).
Đối với mức chi tiêu của du khách
nội địa: cũng chịu tác động bởi yếu tố độ
tuổi. Hệ số ước lượng của biến Tuoi1i, và
Tuoi2i đều mang dấu âm và đều có ý nghĩa
thống kê ở mức 1%. Điều này cho thấy du
khách lớn tuổi có chi tiêu bình quân cao
hơn du khách trẻ (tương tự kết quả của
Jang & cộng sự, 2004 và Mak & cộng sự,
1977). Với điều kiện các yếu tố khác
không đổi thì nhóm du khách có độ tuổi từ
35 trở xuống (Tuoi1i) có mức chi tiêu bình
quân thấp hơn 18,66 % so với nhóm du
khách trên 55 tuổi (e-0,206472 -1 = 0,186551). Nhóm du khách từ 36 - 55 tuổi
có mức chi tiêu bình quân thấp hơn
12,78% so với nhóm du khách trên 55 tuổi
(e-0,136725 -1 = -0,12779), với điều kiện các
93


ỨNG DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG TRONG NGHIÊN CỨU VỀ QUYẾT ĐỊNH CHI TIÊU CỦA DU KHÁCH…


Cuối cùng, hệ số ước lượng của biến
Touri có giá trị âm nghĩa là du khách đi
theo tour có mức chi tiêu bình quân thấp
hơn du khách tự tổ chức hành trình, tuy
vậy biến này cũng không có ý nghĩa thống
kê nên không có tác động đến quyết định
chi tiêu của du khách.
4.2.3. Cảm nhận về sản phẩm dịch vụ
du lịch và quyết định chi tiêu của du khách
Theo thống kê từ bảng 2 thì cảm nhận
và đánh giá của du khách về sản phẩm dịch
vụ du lịch tại điểm đến là yếu tổ quan trọng
tác động đến quyết định chi tiêu trong
chuyến đi của họ.
Đối với hệ số ước lượng của 2 biến
Sanpham1i và Sanpham2i có giá trị
dương và có ý nghĩa thống kê (mức ý nghĩa
10%) cho thấy quan điểm đánh giá về sản
phẩm phục vụ du lịch không quá khắt khe.
Hai nhóm du khách đánh giá tốt hài lòng
và chấp nhận tương đối về sự đa dạng,
phong phú của các sản phẩm du lịch có thể
làm gia tăng mức chi tiêu của họ tại điểm
đến. Hai nhóm có mức chi tiêu cao hơn so
với những du khách không hài lòng về tính
đa dạng của sản phẩm du lịch lần lượt là
17,12% và 17,34% trong điều kiện các yếu
tố khác không thay đổi (e0,158044 -1 =
0,1712177 ; e0,159925-1 = 0,1734229)
Đối với chất lượng dịch vụ du lịch

cũng có ảnh hưởng đáng kể đến mức chi
tiêu của du khách. Điều này được kiểm
định thể hiện qua biến Dichvu2i có hệ số
ước lượng dương và ý nghĩa thống kê cao
(P_value = 0,0014). Trong khi đó biến
Dichvu1i có ý nghĩa thống kê ở mức thấp
hơn. Có thể nói những du khách đánh giá
cao - hài lòng và nhóm tạm chấp nhận về
chất lượng dịch vụ du lịch thì có mức chi
tiêu bình quân cao hơn lần lượt là 31,26%
và 20,05% so với nhóm những du khách
không hài lòng, với điều kiện các yếu tố

{Luutru1i) có chi tiêu bình quân cao hơn
24,15% so với những du khách lưu trú dài
ngày (trên 5 ngày) (e0,216317 -1 =
0,2414959). Du khách có thời gian lưu lại
từ 3-5 ngày (Days2 i) có mức chi tiêu bình
quân cao hơn du khách lưu lại trên 5 ngày
là 25,53% (e0.227415 -1 = 0,2553507).
Bên cạnh đó trái ngược với kết quả của
Jang & cộng sự (2004), nghiên cứu này
cho thấy người đi cùng du khách cũng ảnh
hưởng đến việc du khách chi tiêu nhiều hay
ít trong chuyến đi. Hệ số ước lượng của
biến Dicungi âm và có ý nghĩa thống kê có
nghĩa là những du khách nội địa đi du lịch
một mình thì có mức chi tiêu bình quân
thấp hơn 16,67% so với những du khách đi
cùng người thân hay bạn bè, trong điều

kiện các yếu tố khác không thay đổi (e 0.182525
-1 =-0,1666836). Điều này cho thấy
những người đi cùng đóng vai trò nhóm
tham khảo có thể tác động làm gia tăng
đáng kể mức chi tiêu của khách du lịch.
Đối với việc du khách kết hợp du
lịch nhiều điểm đến: trong một chuyến đi
theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng
Đào, (2013) có ảnh hưởng đến mức chi tiêu
bình quân của họ. Tuy nhiên trong nghiên
cứu này biến Kethop i không có ý nghĩa
thống kê cho thấy du khách đến du lịch
Bình Dương ít kết hợp với các điểm
đến khác.
Đối với số lần đến kết quả ước lượng
cho thấy du khách đến Bình Dương lần đầu
có mức chi tiêu bình quân cao hơn các
khách đã đến nhiều lần trước đó. Tuy nhiên
biến Landeni, chỉ có ý nghĩa thống kê ở
mức ý nghĩa 10%. Về ý nghĩa thực tế cho
thấy trong điều kiện các yếu tố khác không
đổi thì nhóm du khách đến lần đầu có mức
chi tiêu bình quân cao hơn các nhóm du
khách đến nhiều lần tại Bình Dương là
7,59% (e0,073177 - 1 = 0,075921).
94


ĐINH KI M - ĐỖ NGỌC HÂN


khác không đổi (e0.271997-1= 0,3125831,
e0.18276 -1= 0,2005262). Tuy nhiên, theo lý
thuyết hành vi khách du lịch, sự đánh giá
của du khách về sản phẩm dịch vụ tác
động đến chi tiêu khi họ thực sự cảm thấy
hài lòng và họ sẵn sàng chi tiêu ở mức
cao hơn.
Tóm lại, nghiên cứu này đã ứng dụng
mô hình Kinh tế lượng để lập mô hình và
kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định chi tiêu của du khách nội địa
đến Bình Dương. Kết quả ước lượng cho
thấy thu nhập bình quân của du khách có
ảnh hưởng cùng chiều đến mức chi tiêu; du
khách lớn tuổi có mức chi tiêu cao hơn du
khách trẻ; du khách độc thân có mức chi
tiêu cao hơn du khách lập gia đình; du
khách doanh nhân có chi tiêu cao hơn du
khách trong các nhóm ngành khác. Với
thời gian lưu trú từ 1-2 ngày thì du khách
có chi tiêu cao hơn; việc đi du lịch cùng gia
đình, bạn bè làm tăng mức chi tiêu. Cảm
nhận hài lòng về sự đa dạng của sản phẩm
du lịch và chất lượng dịch vụ du lịch có
ảnh hưởng cùng chiều đến quyết định chi
tiêu của du khách. Kết quả nghiên cứu đưa
ra một số hàm ý quản trị về cung ứng du
lịch dịch vụ với doanh nghiệp và các cấp
quản lí du lịch địa phương nhằm hướng
đến làm gia tăng nguồn thu từ thị trường du

khách nội địa.
5. Một số hàm ý quản trị
5.1. Đầu tư và đa dạng hóa các
sản phẩm dịch vụ du lịch
Qua hai chỉ tiêu về sản phẩm và chất
lượng dịch vụ khảo sát trực tiếp thấy tỷ lệ
thực sự hài lòng của du khách chỉ khoảng
50% (Bảng 2), Và qua kết quả nghiên cứu
từ mô hình cho thấy những du khách hài
lòng về tính đa dạng của sản phẩm du lịch
có mức chi tiêu bình quân cao hơn 17% so
với các du khách khác. Do đó, các doanh

nghiệp và cấp quản lý du lịch cần quan tâm
đến chiến lược đa dạng hóa các sản phẩm
dịch vụ du lịch nhằm kích thích tiêu dùng
và gia tăng nguồn thu từ phân khúc thị
trường khách du lịch nội địa. Bên cạnh sản
phẩm chính hiện nay là du lịch sông nước,
sông hồ, du lịch làng nghề, du lịch nhà
vườn,... Bình Dương cần phát triển các sản
phẩm bổ sung như hàng lưu niệm gốm sứ,
sơn mài, sự kiện lễ hội, du lịch văn hóa tâm linh, lễ hội văn hóa ẩm thực địa
phương, dịch vụ mua sắm, vui chơi giải
trí… Đặc biệt cần nghiên cứu các loại hình
thể thao khám phá, cắm trại, chèo thuyền ở
vùng đồi núi, du lịch thưởng ngoạn trên
sông hồ để thu hút đối tượng là học sinh
sinh viên. Ngoài ra một số sản phẩm du
lịch tiềm năng mà địa phương có thể phát

triển để tăng tính đa dạng và sự lựa chọn
cho du khách như sau:
Chú trọng phát triển các sản phẩm
thủ công mỹ nghệ phục vụ du lịch: Bình
Dương vốn nổi tiếng về gốm sứ trong cả
nước, có nhiều tiềm năng đẩy mạnh phát
triển về các ngành nghề thủ công mỹ nghệ
truyền thống (hiện có 9 nghề truyền thống
và 32 làng nghề), việc đẩy mạnh đầu tư và
phát triển du lịch làng nghè gốm sứ Bình
Dương sẽ góp phần không nhỏ vào thu
nhập kinh tế của Tỉnh. Ngoài ra cũng giải
quyết được nhiều vấn đề xã hội có liên
quan. Tuy nhiên, việc tổ chức phát triển
các sản phẩm hiện nay để phục vụ du lịch
vẫn còn bất cập như: sản phẩm chưa phong
phú về mẫu mã, còn thiếu tính đặc thù địa
phương khiến cho việc thu hút chi tiêu của
du khách khó phát triển. Do vậy, các cấp
quản lí cần có chính sách khuyến khích tạo
sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa các làng nghề,
cơ sở sản xuất với doanh nghiệp và khách
du lịch nhằm đa dạng hóa sản phẩm và thu
hút chi tiêu của du khách.
95


ỨNG DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG TRONG NGHIÊN CỨU VỀ QUYẾT ĐỊNH CHI TIÊU CỦA DU KHÁCH…

kết quả này có thể gợi ý về cách tổ chức

phân khúc thị trường nội địa dựa trên mức
chi tiêu cho các doanh nghiệp du lịch trong
xây dựng chiến lược kinh doanh của mình.
Qua đó các doanh nghiệp có thể nhận diện
để xây dựng chiến lược quảng bá thu hút
du khách đối với từng phân khúc cụ thể
nhằm gia tăng thị phần và có chính sách
hợp lý để tiếp tục khuyến khích, nâng cao
mức chi tiêu của họ.
Thực tế trong hoạt động du lịch, du
khách có thu nhập cao và du khách doanh
nhân thường có mức chi tiêu cao hơn các
đối tượng khác. Tuy nhiên họ thường đòi
hỏi khắt khe hơn về các sản phẩm và dịch
vụ du lịch cao cấp, chất lượng dịch vụ
tương xứng.
Mặc dầu tỷ lệ đến Bình Dương của
đối tượng này chưa nhiều (chiếm 31,70%).
Đây là đối tượng khách mục tiêu cho các
khu du lịch thể thao cao cấp như sân golf
khu du lịch sinh thái ven sông hồ, khu du
thuyền… Các kỳ nghỉ cuối tuần, các kỳ lễ
hội truyền thống của địa phương cần
hướng đến. Do vậy, một mặt phát triển
các sản phấm chất lượng, mặt khác những
doanh nghiệp này cần khai thác các kênh
phân phối và phương thức quảng bá phù
hợp với đẳng cấp của đối tượng khách
hạng sang như giới thiệu sản phẩm du lịch
thông qua các sự kiện thể thao, xã hội, sự

kiện về du lịch lễ hội đặc biệt, song song
sử dụng giới thiệu trên các website du
lịch uy tín; các chương trình quảng bá
trên truyền hình, tạp chí du lịch, thời
trang cao cấp; các câu lạc bộ thành viên
và chương trình ưu đãi cho khách hàng
thường xuyên...
Đối với đối tượng du khách lớn tuổi và
du khách đi du lịch cùng bạn bè, người
thân qua nghiên cứu cho thấy có mức chi
tiêu cao hơn các đối tượng khác. Họ

Đầu tư, phát triến loại hình du lịch
MICE: Với lợi thế về cảnh quan thiên
nhiên đa dạng, đẹp mắt, sông nước cảnh trí
hữu tình, môi trường thiên nhiên trong
lành, cơ sở hạ tầng du lịch khá phát triển,
thêm vào đó Bình Dương còn có lợi thế là
nằm sát TP.HCM, một trung tâm kinh tế
năng động nhất của cả nước, có nhu cầu
cao về loại hình du lịch MICE (Du lịch kết
hợp hội nghị, hội thảo, sự kiện)… Bình
Dương có thể tận dụng những lợi thế này
để trở thành điểm đến hấp dẫn cho du
khách MICE để phát triển hiệu quả sản
phấm du lịch này thì bên cạnh việc đầu tư
nâng cấp cơ sở vật chất và tiêu chuẩn phục
vụ cần đầu tư cho các trung tâm dịch vụ
mua sắm, các địa điểm nghỉ dưỡng vui
chơi cuối tuần vốn còn thiếu thốn và đơn

điệu như hiện nay.
Khai thác tài nguyên du lịch nhân
văn: So với các tỉnh vùng Đông Nam bộ,
Bình Dương là địa phương giàu tài nguyên
văn hóa nhân văn. Hiện có di tích lịch sử
được xếp hạng trong đó có 11 di tích cấp
quốc gia, còn có trên 500 di tích là đền
chùa, miếu mạo có lịch sử lâu đời khác,...
Để phát huy hiệu quả các lợi thế du lịch
nhân văn đòi hỏi chính sách hỗ trợ và tham
gia tích cực của chính quyền địa phương,
các nhà nghiên cứu văn hóa, các doanh
nghiệp du lịch cũng như cộng đồng địa
phương trong việc phục dựng lễ hội truyền
thống lâu đời, gắn với các di tích văn hóa
phi vật thể như đờn ca tài tử Bình Dương
với các lễ hội tâm linh khác (như lễ hội
Chùa Bà Thiên Hậu…).
5.2. Đầu tư thu hút phân khúc
du khách có mức chi tiêu cao
Phân tích từ kết quả ước lượng của mô
hình cho thấy du khách nội địa có hành vi
chi tiêu khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm
nhân khẩu học và đặc điểm chuyến đi. Từ
96


ĐINH KI M - ĐỖ NGỌC HÂN

quan trọng hơn là thu hút họ quay lại lần

sau và chi tiêu nhiều hơn.

thường đi du lịch theo đoàn và có nhu cầu
cao về giao lưu, chia sẻ trong các hoạt
động vui chơi, mua sắm, lưu trú qua đêm.
Để thu hút đối tượng du khách này thì cần
đẩy mạnh kênh kết nối với các công ty lữ
hành trong nước và thiết kế các chương
trình, sản phẩm du lịch có nhiều không
gian cho các hoạt động tập thể, khai thác
các lợi thế sẵn có của địa phương (du lịch
sinh thái, du lịch miệt vườn,du lịch làng
nghề, tour sông nước, trung tâm mua sắm
v.v..). Các doanh nghiệp du lịch cần thực
hiện những nghiên cứu sâu hơn về các đặc
điểm, nhu cầu của đối tượng du khách tiềm
năng này để xây dựng các sản phẩm du lịch
phù hợp.
5.3. Cải thiện và nâng cao chất lượng
dịch vụ du lịch
Qua ước lượng từ mô hình hồi quy cho
thấy những du khách đánh giá cao và hài
lòng về chất lượng dịch vụ du lịch thì có
mức chi tiêu bình quân cao hơn so với
những du khách không hài lòng. Do đó, các
doanh nghiệp du lịch và các cấp quản lý
cần chú trọng cải thiện và nâng cao chất
lượng dịch vụ. Điều này không chỉ giúp gia
tăng mức chi tiêu hiện tại của du khách mà
Ngày nhận bài: 28/6/2017


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Kiệm (2009), Bài giảng Kinh tế lượng
Ứng dụng, Đại học Tài chính Marketing.
2. Đinh Kiệm (2013), Bài giảng Ứng dụng thực
hành kinh tế lượng với phần mềm Eviews 9.0,
Đại học Tài chính Marketing.
3. Agarwal, V. B., and Yochum, G. R. (2000),
“Determinants of Tourist Spending”, In A.G.
4. Alegre, J., & Pou, L. (2004), “MicroEconomic Determinants of the Probability of
Tourism Consumption”, Tourism Economics,
10(2), 125-144.
5. Damodar N. Gujarati (2004) “Basis
Econometrics” Third Edition, The McGraw
Hill Company.
6. Downward, p., & Lumsdon, L. (2003),
“Beyond the Demand for Day-Visits: An
Analysis of Visitor Spending”, Tourism
Economics, 9(1), 67-76.
7. Frechtling, D. c. (2006), “An Assessment of
Visitor Expenditure Methods and Models”,
Journal of Travel Research, 45(1), 26-35.
8. Woodside & cộng sự (Eds.), Consumer
Psychology of Tourism, Hospitality and
Leisure, Vol. 1, pp. 311- 330, Wallingford,
UK: CABI Publishing.

Biên tập xong: 15/7/2017

97


Duyệt đăng: 20/7/2017



×