Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về nâng cao dân trí và vận dụng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 191 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

LÊ THỊ THÚY BÌNH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NÂNG CAO DÂN TRÍ VÀ VẬN DỤNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

LÊ THỊ THÚY BÌNH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NÂNG CAO DÂN TRÍ VÀ VẬN DỤNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành:

Hồ Chí Minh học

Mã số:

62 31 02 04



LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. Đỗ Quang Hưng
PGS, TS. Doãn Thị Chín

Hà Nội – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo
đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích một
cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Nghiên cứu sinh:
Ký tên

Lê Thị Thúy Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 5
5. Đóng góp mới của luận án ................................................................................. 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ............................................................ 6

7. Kết cấu của luận án ............................................................................................ 6
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................................................. 7

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ..................................... 7
1.1.1. Tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí ................7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao
dân trí trong giai đoạn hiện nay ........................................................................20
1.2. Khái quát những kết quả đạt được và vấn đề đặt ra ...................................... 30
1.2.1. Những kết quả đạt được ..........................................................................30
1.2.2. Những vấn đề đặt ra ................................................................................31
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................................. 33
Chương 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO DÂN TRÍ.......................... 34

2.1. Một số khái niệm ........................................................................................... 34
2.1.1. Dân, Dân trí .............................................................................................34
2.1.2. Nâng cao dân trí ......................................................................................41
2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí ............................................42
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí – một số vấn đề cơ bản ................ 42
2.2.1. Mục tiêu nâng cao dân trí ........................................................................42
2.2.2. Điều kiện nâng cao dân trí ......................................................................50
2.2.3. Chủ thể và đối tượng nâng cao dân trí ....................................................56
2.2.4. Nội dung nâng cao dân trí .......................................................................64
2.2.5. Biện pháp nâng cao dân trí ......................................................................72
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................................. 84


Chương 3. THỰC TRẠNG NÂNG CAO DÂN TRÍ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA............................ 85

3.1. Thực trạng nâng cao dân trí theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn

hiện nay ................................................................................................................ 85
3.1.1. Về mục tiêu nâng cao dân trí ..................................................................85
3.1.2. Về điều kiện nâng cao dân trí..................................................................86
3.1.3. Về chủ thể và đối tượng nâng cao dân trí ...............................................91
3.1.4. Về nội dung nâng cao dân trí ..................................................................97
3.1.5. Về biện pháp nâng cao dân trí ...............................................................111
3.2. Một số vấn đề đặt ra .................................................................................... 121
Tiểu kết chương 3.............................................................................................................. 124
Chương 4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO DÂN TRÍ THEO TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ..................................... 125

4.1. Những yếu tố tác động đến việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng
cao dân trí trong giai đoạn hiện nay ................................................................... 125
4.1.1. Toàn cầu hóa, kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ...............................125
4.1.2. Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ
thông tin, hệ thống truyền thông .....................................................................126
4.1.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ...................................127
4.1.4. Tiềm lực của đất nước ...........................................................................128
4.1.5. Thực trạng hoạt động giáo dục..............................................................131
4.2. Phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí trong giai
đoạn hiện nay ...................................................................................................... 135
4.3. Những giải pháp nhằm vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân
trí trong giai đoạn hiện nay.................................................................................... 139
4.3.1. Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện sự nghiệp giáo dục – đào tạo, phát
triển khoa học và công nghệ ...........................................................................139
4.3.2. Đẩy mạnh xây dựng và phát triển nền kinh tế – xã hội làm cơ sở, tiền đề
cho việc nâng cao dân trí.................................................................................150
4.3.3. Đổi mới nội dung và hình thức hợp tác quốc tế về văn hóa, giáo dục,
khoa học kỹ thuật ............................................................................................153



4.3.4. Đổi mới nội dung, phương pháp của công tác thông tin đại chúng ......155
4.3.5. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về vấn đề dân trí, tăng cường ý thức làm
chủ của người dân ...........................................................................................158
4.3.6. Nâng cao ý thức, kĩ năng tự học, nhu cầu học tập suốt đời, kĩ năng tiếp
nhận và xử lý thông tin của nhân dân .............................................................162
Tiểu kết chương 4 ............................................................................................................ 164
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 165
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ ......................................................................... 168
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 169
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Người luôn đặc biệt quan tâm tới vấn đề dân trí và nâng cao dân trí, xem đó là một
trong các mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam, là yếu tố quan trọng tác động tới
sự phát triển, phồn vinh của đất nước. Người cũng nhiều lần chỉ ra bài học nền tảng
của cách mạng Việt Nam: dân là gốc của nước, có dân là có tất cả. Nhưng nhân dân
ở đây phải là những con người có năng lực ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ. Năng
lực của nhân dân trước hết phải là năng lực trí tuệ – tức dân trí – bởi “một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu” [84, 7], dốt nát đứng ngoài chính trị. Chính vì xem nâng cao
dân trí là mục tiêu cốt yếu, Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm sâu sắc trên cả
phương diện tư tưởng và tổ chức thực tiễn để nâng cao trình độ hiểu biết của nhân
dân. Điều này dẫn đến việc hình thành hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của
Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí.
Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, Người đã xác định, dốt nát là
một trong ba thứ giặc nguy hiểm, câu kết chặt chẽ với nhau để áp bức, bóc lột nhân

dân ta (bên cạnh giặc đói và giặc ngoại xâm). Hồ Chí Minh là người đã khởi xướng
phong trào chống nạn mù chữ, chống nạn thất học, phát động phong trào “Bình dân
học vụ” nhằm góp phần nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân để nhân dân tham
gia một cách tự giác vào công cuộc kháng chiến và xây dựng nước nhà, tạo ra nguồn
lực cho sự phát triển đất nước, nâng cao sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Hưởng ứng
lời kêu gọi của Người, cả nước đã dấy lên một phong trào thi đua sôi nổi, rầm rộ,
rộng khắp chưa từng thấy, lôi cuốn hàng triệu người đủ mọi tầng lớp, mọi ngành, mọi
giới, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo phấn khởi, tự nguyện
tham gia phong trào xóa nạn mù chữ. Cùng với việc ra lời kêu gọi toàn dân ra sức học
tập, nâng cao trình độ hiểu biết, ký các sắc lệnh, Hồ Chí Minh còn trực tiếp, sát sao
chỉ đạo phong trào, giám sát cụ thể, tới từng địa phương, viết thư khen ngợi, trao tặng
huy hiệu, kiểm tra việc thực hiện phong trào Bình dân học vụ và học tập nâng cao
dân trí của nhân dân. Những hoạt động chỉ đạo trong thực tiễn và hệ thống quan điểm
1


lý luận về nâng cao dân trí của Hồ Chí Minh đã soi đường cho mọi nỗ lực nâng cao
trình độ hiểu biết của nhân dân do toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện trong giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp nâng cao dân trí của
Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu. Tính đến
nay, trình độ dân trí của Việt Nam đã có nhiều bước phát triển đáng kể, như đánh
giá của Báo cáo tổng kết 30 năm đổi mới để chuẩn bị cho Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam: trình độ dân trí, nhận thức của
người dân đối với quyền của mình ngày một cao lên. Chúng ta đã tiến hành phổ
cập giáo dục tiểu học và đang tiến hành phổ cập trung học cơ sở; số lượng trường
đại học, sinh viên tốt nghiệp ra trường, số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ…
tăng đều hàng năm; chỉ số phát triển con người HDI Việt Nam tăng nhanh (41%
trong vòng hai thập kỷ)… Thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung,

thành tựu to lớn trên lĩnh vực nâng cao dân trí nói riêng khẳng định tầm vóc và giá
trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí. Tuy nhiên, thực trạng vấn
đề dân trí và nâng cao dân trí ở Việt Nam hiện nay lại đang tồn tại nhiều vấn đề,
cần được nhận thức và giải quyết thấu đáo. Việt Nam đang có nguy cơ bị biến
thành “bãi rác khoa học – công nghệ” và “thuộc địa văn hóa” của các nước phát
triển trên thế giới, nguy cơ tụt hậu so với thế giới và khu vực, không chỉ trong lĩnh
vực kinh tế mà còn trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa, xã hội; trình độ dân trí của
Việt Nam so với khu vực và thế giới nhìn chung là còn thấp; hiện nay, trình độ
học vấn, đời sống vật chất được nâng lên rất nhiều so với trước nhưng vẫn tồn tại
phổ biến những hành vi ứng xử thiếu văn hóa – biểu hiện của dân trí thấp, những
biểu hiện của lối sống vô cảm, thờ ơ với vận mệnh đất nước, dân tộc, cộng đồng,
mà một nội dung rất quan trọng của dân trí là sự ý thức, giác ngộ về trách nhiệm,
nghĩa vụ công dân, tinh thần dấn thân; sự chênh lệch về thu nhập và trình độ dân
trí giữa các khu vực: thành thị và nông thôn, miền ngược và miền xuôi còn phổ
biến, thậm chí là ngày càng trầm trọng hơn; nhiều chủ thể nâng cao dân trí, đặc
biệt là đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, công nhân
2


các khu công nghiệp… chưa được tiếp cận và thụ hưởng đầy đủ những lợi ích từ
chính sách nâng cao dân trí của Nhà nước; tiềm lực, chi phí nâng cao dân trí còn
nhiều hạn chế; các chính sách nâng cao dân trí còn nhiều điều bất cập, phát triển
giáo dục – đào tạo là giải pháp hàng đầu để nâng cao dân trí nhưng trong lĩnh vực
này vẫn còn quá nhiều hạn chế, bất cập, từ đội ngũ giáo viên đến chương trình,
sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy…
Bước sang thế kỷ XXI, nhân loại đang chuyển tiếp từ nền văn minh công nghiệp
sang nền văn minh tri thức với những thành tựu vĩ đại của cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại, đặc biệt là cuộc cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu
mới, năng lượng. Đặc trưng cơ bản của thời đại văn minh tri thức là ở chỗ, nó chủ yếu
dựa vào nguồn lực trí tuệ của con người, gắn liền với tri thức và “chất xám”. Đây là

nguồn lực vô tận, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước,
đặc biệt trong bối cảnh nguồn lực vật chất – tự nhiên đang ngày càng trở nên cạn kiệt.
Trong nền kinh tế tri thức ấy, tri thức là vốn quý nhất, là nguồn lực hàng đầu tạo sự
tăng trưởng. Tri thức và thông tin được tăng lên khi sử dụng, chứ không bị mất đi như
các nguồn vốn khác. Bởi vậy, trong xu thế phát triển hiện nay, việc xây dựng xã hội
học tập, phát triển giáo dục được chú trọng, đầu tư vô hình (đầu tư cho con người, giáo
dục, khoa học) ngày càng chiếm tỷ lệ cao so với đầu tư hữu hình (cơ sở vật chất).
Trong bối cảnh chung của nhân loại, để đạt được mục tiêu sớm đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục
nguy cơ “tụt hậu về văn hóa”, chúng ta cần phải huy động đến mức cao nhất các
nguồn lực, trong đó có nguồn lực trí tuệ Việt Nam. Mà muốn phát huy tốt nguồn lực
này thì không thể không nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết, trình độ tri thức của
toàn dân. Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về khoa học –
công nghệ, về pháp luật, về đội ngũ trí thức, về công tác cán bộ, đặc biệt là chủ
trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục… để nâng cao dân trí trong công cuộc
đổi mới hiện nay. Vì vậy, việc kế thừa, vận dụng những quan điểm và biện pháp của
Hồ Chí Minh nhằm nâng cao dân trí ở Việt Nam được Người nêu ra từ đầu thế kỷ
XX cho đến nay vẫn mang tính thời sự và giữ nguyên giá trị. Nghiên cứu sự vận
dụng di sản Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí Việt Nam trong giai đoạn đổi mới

3


hiện nay sẽ là cơ hội cụ thể hóa, hiện thực hóa lời dạy và tấm gương của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh đổi mới của đất nước.
Về mặt khoa học, vấn đề dân trí và nâng cao dân trí trong di sản Hồ Chí Minh
hiện nay vẫn còn khoảng trống khá lớn. Các công trình nghiên cứu tính đến nay mới
chủ yếu tiếp cận vấn đề nâng cao dân trí trong tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua lĩnh
vực giáo dục, văn hóa hay tư tưởng chứ chưa có công trình nào nghiên cứu trực
tiếp, hệ thống và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí.

Vì những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao
dân trí và vận dụng trong giai đoạn hiện nay” để thực hiện luận án nghiên cứu sinh.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về nâng cao
dân trí và sự vận dụng hệ thống quan điểm đó nhằm nâng cao dân trí của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí và
sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí, bao gồm: mục tiêu
nâng cao dân trí, điều kiện nâng cao dân trí, chủ thể và đối tượng nâng cao dân trí, nội
dung nâng cao dân trí và giải pháp nâng cao dân trí.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nâng cao dân trí theo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của những
thành tựu và hạn chế cùng những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nâng cao dân trí Việt Nam hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí thông qua các bài
nói, bài viết và hoạt động thực tiễn của Người, thực trạng và giải pháp nâng cao dân trí
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam hiện nay.
4


3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: tìm hiểu di sản Hồ Chí Minh (bao gồm tư tưởng, hoạt động

và chỉ đạo) về nâng cao dân trí được thể hiện trong các tác phẩm và thực tiễn chỉ đạo
cách mạng Việt Nam của Người; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân
trí trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi không gian: Việt Nam
- Phạm vi thời gian: toàn bộ quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh về nâng cao dân trí; khảo cứu thực trạng nâng cao dân trí ở Việt Nam theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là giai đoạn 2015 – 2018.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được triển khai trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân trí, về nguồn lực trí tuệ và nâng cao dân
trí trong điều kiện thực tế của Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp: kết hợp lôgic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, quy
nạp, diễn dịch, gắn lý luận với thực tiễn, đối chiếu, so sánh, nghiên cứu tài liệu lưu trữ…
Các phương pháp được sử dụng phù hợp yêu cầu của từng nội dung cụ thể của luận án:
Phương pháp lôgic được tác giả sử dụng để làm sáng tỏ nội hàm, bản chất các
khái niệm cơ bản của đề tài; phân tích, luận giải những nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về nâng cao dân trí.
Phương pháp lịch sử được tác giả sử dụng để diễn giải, làm rõ, minh chứng các nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí; thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về nâng cao dân trí theo tiến trình thời gian từ năm 2015 đến 2018.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu lưu trữ được tác giả sử dụng trong nghiên
cứu lịch sử phong trào Bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ và nâng cao dân trí trong
thời kỳ kháng chiến kiến quốc.
Phương pháp so sánh được tác giả sử dụng để làm rõ điểm giống, khác giữa
quan điểm về dân trí và nâng cao dân trí của Hồ Chí Minh so với Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh; so sánh một số chỉ tiêu về giáo dục, về GDP, về HDI của Việt
Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.

5


Phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, gắn lý luận với thực tiễn
được sử dụng nhằm làm rõ các luận điểm, luận đề về thực trạng vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí và những yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay.

5. Đóng góp mới của luận án
- Trên cơ sở khảo cứu các nguồn tài liệu có liên quan, luận án bước đầu làm rõ
khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí. Đồng thời, luận án khái quát
một cách hệ thống và toàn diện những luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về nâng cao dân trí.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao
dân trí trong giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra, luận án đưa ra những giải pháp
có tính khả thi nhằm vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí, góp
phần quan trọng vào việc phát triển con người toàn diện, xây dựng nguồn nhân lực chất
lượng cao, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển bền vững và lâu dài của đất nước.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Qua việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí và vận
dụng trong giai đoạn hiện nay, luận án đã phân tích, góp phần chứng minh vai
trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn
phát triển giáo dục và nâng cao dân trí ở Việt Nam hiện nay; góp phần bổ sung,
phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh thực tế Việt
Nam của Hồ Chí Minh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Sản phẩm nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh của giảng viên, các
nhà nghiên cứu, những ai quan tâm, sinh viên các trường đại học không chuyên và

chuyên ngành trong cả nước.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
kết cấu thành 4 chương, 9 tiết.

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí được hình thành từ sự kế thừa truyền
thống hiếu học, coi trọng hiền tài, trí thức của dân tộc, gắn với thực tiễn đấu tranh
chống chính sách ngu dân, mở mang trí óc, nâng cao dân trí của cách mạng Việt Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong phong trào đấu tranh ấy nổi lên hoạt động rất
sôi nổi của những chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, phong trào
Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Hội truyền bá chữ quốc ngữ. Nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí cần nắm vững và hiểu được những yếu tố tác động
trực tiếp, là một cơ sở quan trọng hình thành nên tư tưởng của Người. Một số công
trình tiêu biểu nghiên cứu về hoạt động “khai dân trí” của các cá nhân, tổ chức này là:
cuốn sách “Hội truyền bá quốc ngữ - một tổ chức công khai của Đảng chống nạn mù
chữ” [126], cuốn sách “Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế
kỷ XX” [117], cuốn sách “Hội truyền bá quốc ngữ trong sự nghiệp chống nạn mù chữ”
[64], luận văn “Phan Châu Trinh với công cuộc canh tân trong lĩnh vực văn hóa đầu thế
kỷ XX” [98], luận án “Hội truyền bá quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội Việt Nam
(1938 – 1945) [103]… Hoạt động của những cá nhân và phong trào này để lại nhiều
bài học kinh nghiệm quý báu, là tiền đề quan trọng, để khi chính quyền về tay nhân
dân, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí có

đầy đủ điều kiện để hiện thực hóa, đi vào mọi tầng lớp nhân dân, trở thành phong trào
quần chúng sâu rộng như Bình dân học vụ, bổ túc văn hóa.
Tính đến nay, hầu như chưa có công trình nào của các nhà khoa học nghiên cứu
trực tiếp tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí mà chủ yếu tiếp cận vấn đề dân trí
thông qua phương diện giáo dục, tư tưởng hay văn hóa.
Trong các giải pháp để nâng cao dân trí, Hồ Chí Minh coi giáo dục là lĩnh vực
có vai trò trực tiếp và quyết định. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân
trí phải gắn với tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo. Tác giả
7


Nguyễn Văn Huyên – người giữ trọng trách đứng đầu ngành giáo dục gần 30 năm trong cuốn sách “Những bài nói và viết về giáo dục” [67] đã nhắc lại những quan
điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục: mục đích giáo dục, nội dung
giáo dục, phương châm học tập và giảng dạy, phương châm lãnh đạo giáo dục. Tác
giả cũng khẳng định, trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh phải thấu suốt hơn nữa
các quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh: nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang của
giáo dục là đào tạo những người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt,
cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà; giáo dục phải phục vụ đường
lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân,
học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn; giáo dục là sự nghiệp của
quần chúng. Là một trí thức trẻ được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng và trọng dụng,
tư tưởng, cuộc đời và sự nghiệp phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân của Cố Bộ
trưởng đem lại những bài học quý cho ngành giáo dục Việt Nam trong việc nâng cao
dân trí, đào tạo công nhân lành nghề, phát hiện và đào tạo nhân tài cho đất nước.
Cuốn sách cũng cho thấy tài năng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc huy động lực
lượng trí thức vào sự nghiệp nâng cao dân trí.
Trong cuốn sách “Hồ Chí Minh với giáo dục – đào tạo” [22] có bài viết của tác
giả Phạm Tất Dong “Hồ Chí Minh với vấn đề phát triển giáo dục nâng cao dân trí” và
của tác giả Vương Kiêm Toàn “Tìm hiểu các quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với sự nghiệp chống nạn thất học, nâng cao dân trí”. Ngoài ra còn nhiều bài

viết của các tác giả khác về những vấn đề khác nhau như: tư tưởng tự giáo dục liên
tục, tư tưởng giáo dục cho mọi người và học tập suốt đời, tư tưởng về xây dựng đội
ngũ giáo viên… của Hồ Chí Minh. Như vậy, các tác giả nghiên cứu vấn đề nâng cao
dân trí trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ góc độ giáo dục. Do vậy, các nội dung và giải
pháp chủ yếu gắn với lĩnh vực giáo dục.
Tác giả Vũ Văn Gầu và Nguyễn Anh Quốc trong cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí
Minh với sự nghiệp phát triển giáo dục” [40] đã đề cập đến những nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục: vai trò, mục đích, nội dung, phương pháp
giáo dục, đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Những nội dung tư
tưởng được phân tích, bàn luận trong cuốn sách cho thấy quan điểm của tác giả về
8


vấn đề nâng cao dân trí: mục tiêu nâng cao dân trí trong tư tưởng Hồ Chí Minh là để
phát triển con người toàn diện, làm biến đổi con người cũ, xây dựng con người mới.
Đối tượng nâng cao dân trí là tất cả mọi người, không phân biệt già, trẻ, trai, gái,
thành phần giai cấp trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ và nhà giáo. Nội dung nâng cao
dân trí là giáo dục tinh thần yêu nước, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho mọi
người; giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống; giáo dục văn hóa, trình độ chuyên môn
và tinh thần yêu lao động; giáo dục sức khỏe và mỹ dục. Còn các vấn đề về điều
kiện, giải pháp nâng cao dân trí thì hầu như không đề cập đến.
Trong cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện” [24], tác giả Thành Duy phân tích quan niệm và giải
pháp xây dựng con người toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời nhấn mạnh
vai trò của ngành giáo dục trong sự nghiệp “trồng người”. Những nội dung này bàn
đến mục tiêu đầu tiên trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí – nâng cao dân
trí để phát triển con người toàn diện, phục vụ cho nhu cầu và cuộc sống của con
người. Theo tác giả, con người phát triển toàn diện là con người mới xã hội chủ
nghĩa, con người “mới” ấy có sự khác biệt về bản chất so với con người trong xã hội
cũ: có tinh thần trách nhiệm; có ý thức phục vụ nhân dân, phục vụ con người; có tình

cảm yêu thương con người; yêu lao động và có năng lực sáng tạo. Năm đặc điểm đó,
đặc biệt là đặc điểm thứ năm chỉ có được khi trình độ hiểu biết, văn hóa của người
dân được nâng cao.
Trong cuốn “Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc” [113], ở chương 15 “tư tưởng
Hồ Chí Minh về sự nghiệp giáo dục – đào tạo và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau”, tác giả Song Thành sau khi luận giải về tính tất yếu phải phát triển giáo
dục, nội dung giáo dục toàn diện, hiện đại, nhân văn, đã phân tích yêu cầu “giáo dục
– đào tạo phải hình thành được cho học sinh nhu cầu và khả năng tự học để học suốt
đời”. Đây là một giải pháp quan trọng trong giáo dục nhằm nâng cao dân trí. Tác
giả đã so sánh quan điểm của Hồ Chí Minh với triết lý giáo dục của UNESCO nêu
ra năm 1996 để chứng minh tính khoa học, tính hiện đại của quan điểm này. Tuy
nhiên, những vấn đề liên quan đến mục tiêu, chủ thể, đối tượng, điều kiện nâng cao
dân trí chưa được tác giả bàn đến.
9


Trong cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo
đại học hiện nay” [2], tác giả Hoàng Anh đã phân tích rất sâu sắc, cụ thể quan điểm
Hồ Chí Minh về mục đích giáo dục, nhiệm vụ giáo dục, nội dung giáo dục toàn diện,
nguyên tắc và phương pháp giáo dục. Theo tác giả, “trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giáo dục có vai trò quyết định đối với việc nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài” [2, 92]. Đặc biệt, các nội dung giáo dục (về chính trị tư tưởng, về
đạo đức cách mạng, về văn hóa, trình độ chuyên môn, về thể chất và sức khỏe, về
thẩm mỹ) cũng chính là những lĩnh vực cần nâng cao hiểu biết cho con người, để từ
đó tiến tới nâng cao dân trí. Tác giả cũng bàn đến một số khía cạnh liên quan tới nâng
cao dân trí: mục tiêu nâng cao dân trí là phát triển con người toàn diện, mỗi con
người vừa là chủ thể vừa là đối tượng nâng cao dân trí, giải pháp nâng cao dân trí là
phát triển giáo dục. Tuy nhiên, các nội dung này mới chỉ bước đầu đề cập đến nâng
cao dân trí, chưa có tính bao quát, hệ thống và toàn diện.
Hồ Chí Minh cũng tiếp cận vấn đề dân trí từ phương diện tư tưởng, lý luận. Tác

giả Đào Duy Quát trong cuốn sách “Một số vấn đề về công tác tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam” [107] có đề cập đến nội dung “Hồ Chí Minh với công tác tư
tưởng”, nhấn mạnh Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra những quan điểm về công tác tư
tưởng mà còn là một chiến sĩ tiên phong trong hoạt động tư tưởng, lý luận. Bằng việc
trực tiếp nghiên cứu, viết sách, báo, tài liệu, trực tiếp giảng bài, diễn thuyết, đối thoại
và cổ động quần chúng, Người đã phát huy tối đa hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên
truyền trong việc nâng cao dân trí cho nhân dân. Trong cuốn sách “Hồ Chí Minh với
công tác tư tưởng” [154], tác giả Hồng Vinh và Đào Duy Quát tiếp tục phân tích một
cách hệ thống và sâu sắc hơn quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác nghiên cứu và
giáo dục lý luận chính trị, công tác giáo dục đạo đức, công tác cổ động, tuyên truyền
trên báo chí. Các tác giả còn đi sâu làm rõ việc Hồ Chí Minh sử dụng công tác tư tưởng
trong vận động, bồi dưỡng các đối tượng cụ thể như: đội ngũ trí thức, thế hệ trẻ, đồng
bào tôn giáo, người chiến sĩ quân đội. Những nội dung này phản ánh một trong những
nội dung nâng cao dân trí là nâng cao về hiểu biết tư tưởng, lý luận, chính trị cho con
người và một giải pháp quan trọng để nâng cao dân trí là thông qua công tác cổ động,
tuyên truyền trên báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng.
10


Trong cuốn sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với báo chí cách mạng Việt Nam”
[39], tác giả Trần Đương khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh – người thầy vĩ đại của
nền báo chí cách mạng nước nhà – đã sử dụng báo chí như một vũ khí sắc bén nhằm
tuyên truyền, giác ngộ, cổ động và tổ chức quần chúng thực hiện hàng loạt nhiệm vụ
to lớn mà Đảng đặt ra trong từng thời kỳ cách mạng. Nhận thức rõ vai trò của báo chí
là tấm gương phản chiếu kịp thời những diễn biến của xã hội, đồng thời là tiếng nói
của Đảng và Nhà nước, là phương tiện quan trọng để nâng cao dân trí, Hồ Chí Minh
đã nêu ra những chỉ dẫn rất cụ thể đối với đối với đội ngũ những người làm báo, từ
mục đích, nội dung, đối tượng, đến các phương pháp tuyên truyền hiệu quả.
Trên phương diện văn hóa, tác giả Đinh Xuân Dũng và Nguyên An trong cuốn
sách “Hồ Chí Minh với văn hóa văn nghệ” [23] đã phân tích những quan điểm cơ bản

của Hồ Chí Minh về văn hóa, văn nghệ, lấy đó làm định hướng cho việc vận dụng
trong giai đoạn hiện nay. Cuốn sách “Hồ Chí Minh với văn hóa thông tin” [61] cung
cấp cho người đọc hệ thống các bài nói, bài viết và những quan điểm cơ bản của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa, thông tin. Hai công trình này đã bàn đến một nội
dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí là nâng cao hiểu biết
về văn hóa (ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp) cho nhân dân và một giải pháp nâng cao dân
trí là thông qua việc đẩy mạnh hoạt động của công tác thông tin tuyên truyền.
Tác giả Đặng Xuân Kỳ trong cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
văn hóa và con người” [76] khi bàn đến vấn đề dân trí và nâng cao dân trí trong tư
tưởng Hồ Chí Minh có khẳng định: phải bắt đầu từ chỗ mọi người biết chữ đến không
ngừng nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân; phải tiến hành cải cách giáo dục; phải
luôn gắn nội dung giáo dục với thực tiễn Việt Nam; học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi
người, học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại; phải không ngừng
nâng cao tính Đảng. Như vậy, tác giả đã bàn đến một số nội dung và giải pháp nâng
cao dân trí trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên những nội dung và giải pháp này
chủ yếu liên quan tới lĩnh vực văn hóa, giáo dục mà chưa có tính bao quát, hệ thống.
Cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuốn sách “Nghiên cứu, học tập và làm
theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [41] đã nhận xét: “Sự nghiệp văn hóa quan trọng nhất
của Người (Hồ Chí Minh) là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi giặc ngoại xâm trong
11


thời đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống của con người, một cuộc sống
có văn hóa” [41, 12]. Tác giả cũng bàn nhiều đến vấn đề xây dựng con người mới,
xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, trên cơ sở đó đi đến khẳng định: trong giai
đoạn hiện nay nhiệm vụ cấp tốc phải làm ngay và đặt thành một chính sách quốc gia
lớn là nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài.
Trong cuốn sách “Giá trị di sản tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần xây dựng con
người mới Việt Nam” [25] có trích lại bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
con người, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí” của tác giả Đỗ Huy. Tác giả đi sâu

phân tích một đối tượng nâng cao dân trí trong tư tưởng Hồ Chí Minh là trí thức –
thực hiện cải tạo trí thức cũ thành trí thức mới, trí thức hóa công nông và công nông
hóa trí thức. Đồng thời đưa ra nhiều giải pháp để nâng cao dân trí nhưng chủ yếu là
thông qua lĩnh vực giáo dục.
Trong cuốn sách “70 năm tác phẩm “Đời sống mới” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
– Giá trị lý luận và thực tiễn trong phong trào xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh” [157], các tác giả đã phân tích khá đầy đủ, toàn diện về chủ trương và phong
trào xây dựng đời sống mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động sau cách mạng
Tháng Tám. Những chỉ dẫn cụ thể về việc xây dựng đạo đức mới, lối sống mới, nếp
sống mới của Người góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức thẩm mỹ cho
nhân dân, xây dựng lối sống văn minh, tiến bộ, vừa phát huy được những giá trị
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc vừa phù hợp với xu thế phát triển hiện đại.
Đây là một trong bốn nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao
dân trí (bên cạnh nâng cao nhận thức tư tưởng lý luận, nhận thức về khoa học, nhận
thức về văn hóa). Vì đi sâu vào tác phẩm “Đời sống mới” và phong trào xây dựng
văn hóa đời sống nên những nội dung nâng cao dân trí khác không được đề cập đến
trong cuốn sách này.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí được thể hiện qua các bài nói, bài
viết, những chuyến đi thực tế, những lời động viên tới cán bộ, chiến sĩ, nhân dân… và
được hiện thực hóa trong thực tiễn qua các phong trào Bình dân học vụ, bổ túc văn
hóa, các chiến dịch diệt dốt, các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước… Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí ngoài việc nghiên
12


cứu hệ thống quan điểm, tư tưởng lý luận còn phải nghiên cứu những thành tựu đạt
được của phong trào diệt giặc dốt do Người phát động.
Tác giả Thành Thế Mỹ trong cuốn sách “Bài giảng để hiểu về lịch sử Bình
dân học vụ” [96] đã tóm tắt một cách ngắn gọn, dễ hiểu về lịch sử của phong trào
Bình dân học vụ tính đến năm 1950. Theo thống kê của tác giả, trong 4 năm tính

từ tháng 9/1945 đến tháng 6/1949, ngót 9 triệu người Việt Nam đã ra khỏi cõi tối
tăm mù chữ [96, 8]. Trong cuốn sách, tác giả chỉ rõ, tiếp sau giai đoạn chống nạn
mù chữ sẽ là giai đoạn phổ thông kiến thức và hai công tác này phải tiến hành
đồng thời, song song. Trong giai đoạn phổ thông kiến thức phải chống nạn thất
học, thực hiện cưỡng bách tiểu học và trung học. “Sạch rổ rồi, đất làm rồi, mới
đến việc chính là gieo hạt, trồng cây. Đọc thông viết thạo rồi cần hiểu biết được
những điều thường thức cần thiết cho ngay đời sống hàng ngày và bổ ích cho sự
mở mang trí não” [96, 9].
Trong cuốn sách “Việt Nam diệt giặc dốt” [153] do Nha bình dân học vụ xuất
bản năm 1951, tác giả đã đánh giá về phương pháp, kết quả (tính đến năm 1950) và
triển vọng của của phong trào Bình dân học vụ trong tương lai. Cuốn sách cung cấp
thông tin: “sau 5 năm hoạt động (1945 – 1950), Bình dân học vụ đã dạy được
12.187.184 người thoát nạn mù chữ tính đến ngày 30/6/1950. Số người mù chữ còn
lại nhiều nhất ở miền núi và miền bị địch chiếm đã lâu. Còn các vùng tự do tỷ lệ số
người mù chữ chỉ còn từ 10 – 20%. Đó là một trong những sự nghiệp vẻ vang nhất
của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chủ tịch lãnh đạo” [153, 41]
Trong cuốn sách “Quyết tâm phấn đấu diệt dốt” [109], tác giả khẳng định:
Bình dân học vụ là một bộ rất phận trọng yếu của cuộc cách mạng văn hóa và tư
tưởng, gây cơ sở đưa hàng triệu người mấy nghìn năm nghèo dốt lên trình độ văn
hóa cao, để đẩy mạnh nền sản xuất, nền khoa học văn hóa xã hội chủ nghĩa, thực
hiện khẩu hiệu “trí thức hóa công nông”. Đó là một cuộc cách mạng vừa rộng, vừa
sâu… giáo viên, cán bộ bình dân học vụ là những chiến sĩ của cuộc cách mạng văn
hóa và tư tưởng; và tham gia diệt dốt là một vinh dự lớn [109, 3-4]
Tác giả cuốn sách “20 năm thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hóa:
8/9/1945 – 8/9/1965” [156] đã tổng kết lại những thành tích đã đạt được của sự
13


nghiệp thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hóa trong suốt 20 năm (1945 – 1965):
căn bản xóa nạn mù chữ vào năm 1958, từ chỗ 95% đồng bào mù chữ tiến lên 95%

đồng bào đọc thông viết thạo. Những số liệu, tư liệu, phân tích được nêu ra trong
cuốn sách có tác dụng minh chứng cho giá trị thực tiễn sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí
Minh về nâng cao dân trí trong 20 năm 1945 – 1965.
Tác giả Vương Kiêm Toàn trong cuốn sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự
nghiệp chống nạn thất học, nâng cao dân trí” [125] đã phân tích rất sâu sắc quan
điểm của Hồ Chí Minh về chống nạn thất học và nâng cao dân trí qua các giai đoạn
của cách mạng Việt Nam. Tác giả khẳng định: sau khi cách mạng Tháng Tám thành
công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương đặt vấn đề xóa nạn mù chữ, nâng cao
dân trí thành quốc sách; trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chủ trương
Bình dân học vụ phải phát triển mạnh mẽ để phục vụ kháng chiến thắng lợi, kiến
quốc thành công; năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Người chủ trương mau
chóng xóa xong nạn mù chữ và phát triển bổ túc văn hóa nhằm nâng cao trình độ
văn hóa của cán bộ và nhân dân. Tác giả khái quát quan điểm Hồ Chí Minh về
chống nạn thất học, nâng cao dân trí thành năm luận điểm lớn:
Thứ nhất, quan điểm về vị trí của công tác chống nạn thất học, nâng cao dân
trí trong sự nghiệp cách mạng, trong mối quan hệ giữa ba mặt đấu tranh: diệt giặc
đói – giặc dốt – giặc ngoại xâm.
Thứ hai, quan điểm về tính chất quần chúng và cách mạng của phong trào
chống nạn thất học, nâng cao dân trí.
Thứ ba, quan điểm về kết hợp giữa học với hành, kết hợp dạy chữ, làm tính
cho đồng bào với dạy thêm về công cuộc kháng chiến, cứu nước, tăng gia sản xuất.
Thứ tư, quan điểm về giáo dục liên tục, học tập suốt đời.
Thứ năm, đề cao vị trí, vai trò của người chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh chống
nạn thất học, nâng cao dân trí, đó là những “vô danh anh hùng”, “chiến sĩ diệt dốt”.
Trong cuốn sách “50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945 –
1995)” [108], ở chương 11, nhóm tác giả khái quát lại những thành tựu lớn và những
thiếu sót trên hai mặt quan trọng nhất là về nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho xã hội và về xây dựng, phát triển nền giáo dục quốc dân. Những
14



đánh giá được rút ra chính từ thực tiễn phát triển giáo dục và nâng cao dân trí của đất
nước, có giá trị to lớn đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Tác giả Nguyễn Mạnh Tùng trong luận án “Công cuộc xóa nạn mù chữ và bổ
túc văn hóa ở Bắc Bộ (1945 – 1954) [142] đã phân tích cuộc vận động chống nạn
thất học ở Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám 1945 gắn với hoạt động của Hội
truyền bá quốc ngữ, cuộc vận động xóa mù chữ ở Bắc Bộ trong năm đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945-1946), công cuộc xóa mù chữ và bổ túc
văn hóa ở Bắc Bộ từ kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược đến
tháng 7/1954. Từ những thành tích đã đạt được của công cuộc xóa nạn mù chữ, bổ
túc văn hóa, nâng cao dân trí, tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm cho sự
nghiệp nâng cao dân trí ở Việt Nam: thứ nhất, coi nhiệm vụ xóa nạn mù chữ, nâng
cao dân trí là một việc cấp bách do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý; thứ hai, coi
công tác xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí là một bộ phận hết sức quan trọng trong
chiến lược con người, chiến lược xây dựng đất nước giàu mạnh; thứ ba, coi công
tác xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí là công việc của toàn dân, toàn xã hội, là
quyền lợi, nhu cầu đồng thời là trách nhiệm của mỗi người; thứ tư, tiến hành công
tác xóa mù chữ, nâng cao dân trí phải thường xuyên, liên tục, không được phép chủ
quan, lơ là; thứ năm, coi công tác xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí là một công
việc đặc biệt, đòi hỏi những giáo viên không chỉ có trình độ văn hóa, chuyên môn
nghiệp vụ mà phải có sự tận tâm cao. Những số liệu, bảng biểu, những phân tích mà
tác giả đưa ra chứng minh giá trị thực tiễn sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về
nâng cao dân trí trong giai đoạn 1945 – 1954 ở miền Bắc.
Tác giả Phạm Minh Hạc trong cuốn sách “Tổng kết 10 năm (1990 – 2000)
xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học” [48] đã dành hẳn chương 2 để phân
tích những thành tựu đạt được trong sự nghiệp 45 năm diệt dốt (1945 – 1990).
Nhìn lại lịch sử 45 năm sự nghiệp xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí, tác giả chọn
điểm nhấn là ba chiến dịch diệt dốt do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động theo
tư tưởng Hồ Chí Minh: lần thứ nhất (1945 – 1954), lần thứ hai (1956 – 1958),
lần thứ ba (1976 – 1977). Ở chiến dịch diệt dốt lần thứ nhất, 8 triệu người đã

thoát nạn mù chữ trong hoàn cảnh vừa học vừa lo chống giặc, giữ nước, bước
15


đầu xây dựng được trường lớp bổ túc văn hóa tập trung và tại chức, góp phần
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nông cho kháng chiến. Sau chiến dịch lần thứ
hai, vùng đồng bằng và trung du miền Bắc đã căn bản xóa xong mù chữ, 93,4%
dân số từ 12 đến 50 tuổi đã biết đọc, viết chữ quốc ngữ. Sau thắng lợi của chiến
dịch diệt dốt lần ba, tháng 3/1978, Ban lãnh đạo trung ương thanh toán nạn mù
chữ thông báo: chúng ta đã căn bản hoàn thành thanh toán nạn mù chữ trên phạm
vi cả nước. Công tác bổ túc văn hóa (thông qua các trường phổ thông lao động,
trường bổ túc công nông,…) ngày càng phát triển, góp phần không nhỏ vào việc
nâng cao dân trí cho người lao động, vào việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đáp
ứng đòi hỏi trong từng thời kỳ xây dựng đất nước.
Trong cuốn sách “Một tấm lòng với dân trí” [1], các tác giả đã tập hợp tất cả
những hồi ức của những người Hà Nội với cụ Hồ Đắc Điềm – “vận động viên số
một” của phong trào bổ túc văn hóa Bình dân học vụ. Ông từng là tiến sĩ Luật học,
làm việc ở Pari, Trưởng đoàn Luật gia Việt Nam… thời Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, dám từ bỏ tất cả, đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết để làm một công việc hết
sức bình thường nhưng đầy chông gai trong 32 năm là: vận động bình dân học vụ,
chỉ để hoàn thành một ước vọng giản dị là làm theo lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: chú là người giàu chữ, hãy san sẻ cho người còn nghèo chữ. Cuốn sách
không chỉ là bài học về việc vận động trí thức tham gia vào sự nghiệp nâng cao dân
trí mà còn là minh chứng minh cho thấy phong trào Bình dân học vụ, sự nghiệp diệt
giặc dốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một
phong trào quần chúng rộng rãi, có sức lan tỏa mạnh mẽ đến mọi tầng lớp nhân dân.
Tập thể tác giả Vũ Quang Vinh, Thái Chí Thanh, Nguyễn Đẩu Quang trong
cuốn sách “Bác Hồ với sự nghiệp diệt giặc đói, giặc dốt” [155] đã nêu và phân tích
những bài nói, bài viết, những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề diệt giặc
dốt, từ lời phát biểu tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, tác phẩm

“Bản án chế độ thực dân Pháp, các bài viết sau cách mạng Tháng Tám… cho đến tác
phẩm Di chúc 1965 – 1969. Có thể thấy, quan điểm về “diệt giặc dốt” là một quan
điểm xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và giá trị
thực tiễn sâu sắc, chỉ đạo sự nghiệp nâng cao dân trí của Việt Nam hiện nay.
16


Tác giả Phạm Minh Hạc trong bài viết “Tiến tới một xã hội học tập – trở
thành một dân tộc thông thái” [47] khẳng định: phong trào Bình dân học vụ, phong
trào diệt dốt đã đặt nền tảng mở đầu cho sự nghiệp dân trí của nước nhà, có vai trò
cực kỳ quan trọng đối với công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mãi tới năm
1975 mới hoàn thành, xóa bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ thực dân, cũng như công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng quan điểm với tác giả Phạm Minh Hạc, tác giả
Trần Hữu Trù trong bài viết “Bình dân học vụ ngày ấy, bây giờ” [138] đã khái quát
lại một cách ngắn gọn những chủ trương của Đảng và Chính phủ về phong trào
Bình dân học vụ và chiến dịch diệt dốt cũng như những thành tựu to lớn đạt được từ
sau ngày cách mạng Tháng Tám 1945 thành công đến ngày miền Nam được hoàn
toàn giải phóng năm 1975. Từ đó, rút ra những bài học bổ ích cho sự nghiệp nâng
cao dân trí trong giai đoạn mới hiện nay.
Tác giả Hoàng Thanh Tú trong bài viết “Đảng lãnh đạo công tác xóa nạn mù
chữ trong những năm đầu sau cách mạng Tháng Tám năm 1945” [140] đã khái
quát lại bối cảnh lịch sử, chủ trương của Đảng và những thành tựu đạt được trong
công tác xóa nạn mù chữ trong một giai đoạn lịch sử hết sức khó khăn của dân tộc,
được nhận định là “ngàn cân treo sợi tóc” 1945 – 1946. Những thành công bước đầu
của cuộc đấu tranh chống giặc dốt trong những năm đầu sau cách mạng Tháng Tám
đã để lại cho chúng ta những bài học kinh nghiệm quý giá: một là, phải luôn thấm
nhuần quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” vì sự phát triển của giáo dục có
ý nghĩa quyết định đến vận mệnh của dân tộc; hai là, giáo dục phải được coi là sự
nghiệp của toàn dân; ba là, giáo dục phải luôn gắn với những nhiệm vụ cụ thể trong
việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tác giả Trần Thị Minh Tuyết trong bài viết “Quyền con người trong tư tưởng Hồ
Chí Minh – Nội dung và đặc điểm” [143] đã tiếp cận vấn đề dân trí như là một bộ phận
của quyền con người – quyền được hưởng thụ văn hóa, quyền được hiểu biết, quyền
được học hành. Điều này được cụ thể hóa trong Điều 15 Hiến pháp năm 1946: “Nền sơ
học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số
có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được chính phủ giúp. Trường tư
được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước” và điều 33, 34 của Hiến pháp
17


năm 1959 do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo Hiến pháp: Công dân nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền học tập…, có quyền tự do nghiên cứu khoa học,
sáng tác văn học nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hóa khác.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí, ngoài việc nâng cao trình độ
hiểu biết, văn hóa cho công nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ,… Người đặc biệt quan
tâm tới nâng cao trình độ hiểu biết cho cán bộ, đảng viên (nâng cao “quan trí”) và
trình độ trí tuệ cho Đảng (nâng cao Đảng trí). Trong cuốn sách “Hồ Chí Minh với
việc xây dựng Đảng ta về trí tuệ” [106], tác giả Phạm Ngọc Quang trên cơ sở xác
định trí tuệ của Đảng một phần quan trọng được quyết định bởi trình độ trí tuệ của
người đảng viên đã phân tích con đường, biện pháp giáo dục lý luận để xây dựng
Đảng trở thành một tổ chức chính trị tiêu biểu cho trí tuệ của dân tộc. Theo tác
giả, để đảm đương được sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng, đem lại cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, Đảng phải tự mình nâng tầm trí tuệ,
mọi đảng viên, các tổ chức Đảng phải biết học tập, tiếp thu tất cả những gì là tinh
hoa của trí tuệ loài người, đặc biệt là học tập lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tác giả còn đặt vấn đề nâng cao Đảng trí trong mối quan hệ khăng khít với nâng
cao dân trí nhằm hướng tới mục tiêu tạo ra sức mạnh to lớn cho Đảng nói riêng,
cho cách mạng nói chung bởi “dân mạnh thì Đảng mạnh”. Cùng quan điểm, tác
giả Hà Đăng trong bài viết “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng
văn hóa trong Đảng hiện nay” [33] đã nêu cao “tính văn hóa” trong mọi hoạt

động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân, của các cán bộ, đảng
viên, nhấn mạnh yêu cầu xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn
hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức của Đảng và bộ máy
của Nhà nước trên cơ sở quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Có thể thấy,
nâng cao Đảng trí, xây dựng văn hóa trong Đảng nhằm hiện thực hóa lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng vừa “là đạo đức, là văn minh” không chỉ là nhiệm vụ
thường xuyên mà còn yêu cầu sống còn đối với Đảng trong bối cảnh tình trạng suy
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt
là tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu đang trở thành một căn bệnh nguy
hiểm đục khoét cơ thể sống của Đảng.
18


Khi nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí, tác giả
nhận thấy có nhiều điểm tương đồng với quan điểm của các học giả quốc tế, thể
hiện tính cách mạng và khoa học của hệ tư tưởng này. Trong tập hồ sơ Báo cáo
của Bộ giáo dục về Hội nghị Quốc tế xóa nạn mù chữ tại Iran từ ngày 8/9/1975 có
trích nguyên văn tuyên bố Persepollis [136], trong đó nêu rõ: Hội nghị coi việc
xóa nạn mù chữ không chỉ là học đọc, học viết, học tính mà còn là một sự đóng
góp vào việc giải phóng và phát triển con người… Việc xóa nạn mù chữ phải dẫn
tới làm chủ kĩ thuật và làm chủ quan hệ giữa người với người. Việc học chữ không
phải là một mục đích tự thân. Nó là một quyền lợi cơ bản của con người. Nhà giáo
dục Hồ Chí Minh cũng cho rằng, làm cho dân biết đọc, biết viết chỉ là nhiệm vụ
bước đầu, sau đó phải tiếp tục tổ chức các lớp dự bị bình dân, bổ túc văn hóa để
không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết và văn hóa của nhân dân, để họ thực sự
trở thành người chủ xã hội.
Đánh giá về nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí,
nhiều học giả trong và ngoài nước đã đi đến những nhận định rất thống nhất, khách
quan. Tài liệu Hội nghị chuyên đề xóa nạn mù chữ của UNESCO tổ chức tại thành
phố Hồ Chí Minh từ 24/4 - 8/5/1980 [137] ghi nhận nhiều ý kiến phát biểu, đánh giá

cao của đại biểu các nước đối với sự nghiệp xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí của
Việt Nam, đặc biệt là trong việc tạo điều kiện cho phụ nữ được nâng cao kiến thức
và trình độ văn hóa, cách thức động viên những nguồn khả năng của cộng đồng xã
hội trong việc xóa mù chữ, nâng cao dân trí.
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp diệt dốt, nâng
cao dân trí ở Việt Nam” năm 1990 [134] tập hợp nhiều đánh giá của các nhà nghiên
cứu, các học giả về quan điểm chống nạn thất học, nâng cao dân trí, công tác bình
dân học vụ trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiều quan điểm của Hồ Chí Minh vẫn
còn giữ nguyên tính thời sự và giá trị thực tiễn đối với sự nghiệp nâng cao dân trí
của nước nhà trong thời đại mới.
Tác giả Nguyễn Đài Trang trong cuốn sách “Hồ Chí Minh nhân văn và phát
triển” [164] có bài viết: “Phát triển dân trí: “Sánh vai với các cường quốc năm châu”
đã đánh giá rất cao tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí. Theo tác giả, việc phát
19


×