Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tổ chức bản của người nùng phàn slình ở huyện đồng hỷ, tỉnh thái nguyên (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.4 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀM THỊ TẤM

TỔ CHỨC BẢN CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH
Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

HÀ NỘI, 2020


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC THANH
PGS.TS. LÂM BÁ NAM

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Chí Bền

Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Văn Minh

Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Văn Sửu
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện tại
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 477
Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi giờ phút, ngày

tháng



năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
- Thư viện Quốc gia Việt Nam


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Đàm Thị Tấm (2016) “Một số tổ chức phi quan phương trong bản
người Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”, Tạp
chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 7, tr.76 - 83.
2. Đàm Thị Tấm (2016) “Vai trò của những người có uy tín trong bản
người Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ”, Tạp chí Khoa học &
Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, tập 156, số 11.
3. Phí Hùng Cường, Đàm Thị Tấm (2017) “Thiết chế dòng họ người
Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí
Nghiên cứu Dân tộc, số 19, tr.99 - 102.
4. Đàm Thị Tấm (2019), “Nguồn gốc các dòng họ người Nùng Phàn
Slình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”, Tạp chí Thông tin
Khoa học xã hội, số 6, tr.44 - 49.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Tổ chức bản (làng) đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa
- xã hội của các tộc người thiểu số ở trung du và miền núi phía Bắc Việt
Nam. Đó là chiếc nôi mà mỗi con người được sinh ra, lớn lên và hòa nhập
cùng cộng đồng; nơi họ được bao bọc, chở che, nuôi dưỡng và gắn bó qua
bao năm tháng cuộc đời. Bản thể hiện tính cộng đồng và tính tự quản, hàm

chứa các giá trị nhân văn sâu sắc, góp phần gìn giữ những nét văn hóa
truyền thống đặc trưng của tộc người thông qua việc duy trì phong tục tập
quán, hương ước, quy ước và những quy định bất thành văn. Bản có vai trò
gắn kết các thành viên trong cộng đồng lại với nhau thành một khối thống
nhất, bền chặt trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển; là không
gian văn hóa chứa đựng tinh thần cộng cảm, cộng mệnh giữa con người với
nhau. Nhà nối tiếp nhà, bản nối tiếp bản tạo thành một tổng thể không gian
hài hòa giữa thiên nhiên - đất trời - con người.
Trải qua một quá trình lịch sử và văn hóa lâu dài, tổ chức bản của các
tộc người thiểu số nhìn chung đã trải qua nhiều thay đổi, đặc biệt là trong
thế kỷ XX - thời đại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả
nước, và thế kỷ XXI - thời đại của toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển.
Trong bối cảnh giao lưu, giao thoa, tiếp biến văn hóa được đẩy mạnh, cùng
với sự tác động của các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước, tổ chức bản đang ngày càng chuyển dịch theo hướng hiện đại, từ tên
gọi, quy mô, cấu trúc cho đến các quan hệ xã hội, phong tục tập quán xoay
quanh nó. Những thay đổi này phần nào đã phù hợp với sự vận động tất yếu
của lịch sử, với yêu cầu của công cuộc Đổi mới; mặt khác cũng tiềm ẩn
nhiều vấn đề cần phải suy nghĩ về quản trị xã hội và công tác văn hóa.
Trước những thuận lợi và khó khăn của thời cuộc, bản của người Nùng
Phàn Slình ở Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên cũng có những vấn đề cần phải
xem xét trong xu thế phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội hiện nay của đất
nước. Bản truyền thống không đơn thuần chỉ chứa những yếu tố cũ, lạc
hậu, mà còn có những yếu tố văn hóa tích cực góp phần quan trọng vào
việc xây dựng nông thôn mới ở địa phương. Làm thế nào để đời sống kinh
tế - xã hội của đồng bào phát triển đi lên mà vẫn giữ được những nét văn

1



hóa mang đậm bản sắc văn hóa riêng vốn có của dân tộc mình là một điều
rất cấp thiết trong thời điểm hiện nay. Chính vì vậy, nghiên cứu về bản của
người Nùng, cụ thể là bản của người Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ
tỉnh Thái Nguyên là việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Từ nguồn tài liệu điền dã Dân tộc học - Nhân học, luận án chỉ rõ đặc
điểm và vai trò của bản người Nùng Phàn Slình truyền thống và biến đổi.
- Phân tích vai trò, vị trí của bản trong xây dựng nông thôn mới và
phát triển kinh tế của địa phương.
- Chỉ ra những yếu tố tác động đến sự biến đổi của tổ chức bản truyền
thống của người Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Giới thiệu tổng quan tình hình nghiên cứu của các tác giả ngoài nước
và trong nước về làng/bản; vận dụng một số lý thuyết và các khái niệm liên
quan đến nội dung luận án.
- Chỉ rõ nguồn gốc tộc người, lịch sử cư trú của người Nùng Phàn
Slình, những đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội và khái quát địa bàn
nghiên cứu.
- Nghiên cứu hình thức cư trú, cấu trúc và các mối quan hệ xã hội của
bản truyền thống và biến đổi.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là tổ chức bản của người Nùng
Phàn Slình, bao gồm các nội dung: đặc điểm cư trú, cấu trúc bản và các
mối quan hệ xã hội truyền thống và biến đổi.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: luận án tập trung nghiên cứu sâu tại các xã Hòa
Bình, Tân Long, Văn Hán và Văn Lăng, đây là những địa phương có nhiều
người Nùng Phàn Slình sinh sống trên địa bàn huyện Đồng Hỷ. Sau khi di

cư đến Thái Nguyên, về cơ bản họ đã định cư ổn định ở những nơi này,
không có nhiều sự dịch chuyển dân cư đáng chú ý.

2


Phạm vi thời gian: Trước năm 1945 và từ sau năm 1945 đến nay
(2019). NCS chọn mốc thời điểm này để xem xét sự biến đổi của bản người
Nùng Phàn Slình. Bởi vì sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (sau này là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam) đã xóa bỏ hệ thống quản lý hành chính của Nhà nước phong kiến Việt
Nam và của chính quyền thực dân Pháp, từng bước thay thế bằng hệ thống
quản lý hành chính và dân cư mới, đồng thời đặt tổ chức bản - theo một cách
nửa chính thức - dưới sự quản lý của hệ thống đó cùng với những tên gọi và
phương thức tự quản mới.
Nhìn chung, thời điểm sau năm 1945 tổ chức bản chịu sự chi phối rất
lớn của các tổ chức chính trị - xã hội như Đảng, chính quyền, mặt trận. Bản
trở nên mờ nhạt trong thời kỳ tổ chức hợp tác xã bậc cao và mở rộng hợp
tác xã trên phạm vi cả nước (1960 - 1986). Từ Đổi mới đến nay, đặc biệt là
từ năm 1995, tính tự quản của bản lại được đề cao với sự nổi lên của vai trò
trưởng xóm thay thế cho chủ nhiệm hợp tác xã.
Hơn nữa, trong các tài liệu lịch sử và dân tộc học, bản của người Nùng
(và thiết chế làng bản của các tộc người ở Việt Nam nói chung) thường được
mô tả dưới góc nhìn truyền thống. Điều này ít nhiều tạo sự thuận tiện cho NCS
khi liên hệ so sánh giữa bản truyền thống với bản hiện đại.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được trình bày và biện giải theo quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin trong khảo tả, phân
tích về vấn đề cấu trúc bản, tổ chức xã hội của bản.

Bên cạnh đó, Luận án còn dựa trên những quan điểm của Đảng và Nhà
nước thể hiện qua việc xây dựng thiết chế mới, trên cơ sở kế thừa những
giá trị trong thời kì cách mạng và xây dựng nông thôn mới.
Ngoài ra, luận án còn kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà
dân tộc học trên thế giới và của Việt Nam về nghiên cứu làng, bản của các
dân tộc thiểu số nói chung và người Nùng nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, NCS vận dụng
một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như: phương pháp điền dã

3


Dân tộc học, phương pháp so sánh, phương pháp biểu đồ, phương pháp thu
thập, tổng hợp và khai thác tài liệu thứ cấp. Trong đó, phương pháp điền dã
Dân tộc học là chủ yếu với các hình thức sau: Quan sát, quan sát tham dự;
Phỏng vấn sâu; Thảo luận nhóm.
Bên cạnh đó, tác giả cũng có tham khảo ý kiến của các chuyên gia
trong ngành Nhân học nhằm bổ sung, hoàn thiện các kiến thức còn thiếu
trong quá trình hoàn thiện luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án có những đóng góp chủ yếu sau:
- Trên cơ sở nghiên cứu về bản của người Nùng Phàn Slình, luận án
trình bày một cách toàn diện về tổ chức bản truyền thống và hiện đại ở một
huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên trong bối cảnh xây dựng nông thôn
mới hiện nay.
- Góp phần làm rõ cấu trúc, vai trò và chức năng của tổ chức bản trong
cộng đồng người Nùng Phàn Slình và mối quan hệ của họ với một số dân
tộc khác sống trên cùng một địa bàn cư trú.
- Chỉ ra một số yếu tố tác động và xu hướng biến đổi trong tổ chức bản

của người Nùng Phàn Slình, huyện Đồng Hỷ, góp phần gìn giữ, phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc trong quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án đã phân tích tổ chức bản - một loại hình thiết chế xã hội ở
vùng trung du miền núi Việt Nam từ truyền thống đến biến đổi.
- Xác định các Lý thuyết Không gian xã hội, Lý thuyết Biến đổi xã hội để
làm nổi bật những luận điểm nghiên cứu về tổ chức bản của người Nùng Phàn
Slình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái nguyên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả của luận án, góp phần bảo lưu các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp cho quá trình xây dựng nông thôn mới, đồng thời nâng cao
đời sống văn hóa ở người Nùng Phàn Slình trong bối cảnh công nghiệp
hóa, toàn cầu hóa hiện nay.
- Cung cấp các luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định những
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần bảo tồn và phát huy

4


những yếu tố văn hóa tích cực của bản trong quá trình phát triển kinh tế - văn
hóa - xã hội ở địa phương.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần nội
dung chính của Luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và tộc
người nghiên cứu
Chương 2: Đặc điểm, cấu trúc bản của người Nùng Phàn Slình
Chương 3: Các thiết chế và quan hệ xã hội trong bản
Chương 4: Những yếu tố tác động, xu hướng biến đổi của bản và một số

vấn đề đặt ra
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỘC NGƢỜI NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước
Có rất nhiều các công trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến làng bản
như: hình thức tổ chức, không gian xã hội và xu hướng phát triển. Sự phát triển
của mỗi làng phụ thuộc vào điều kiện địa lý, hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, xã
hội của mỗi đất nước. Đây là những nguồn tài liệu tham khảo rất có giá trị cho
nghiên cứu sinh định hướng nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài.
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
Chủ đề làng bản của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nhận được rất
nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các nhà Dân tộc học trong nước cũng
như nước ngoài. Từ sau Đổi mới 1986 đến nay đã có một số công trình liên
quan đến tổ chức bản của các dân tộc được công bố, nhưng tập trung chủ
yếu ở các dân tộc Tày, Thái, Mường, Dao, Hà Nhì... Bên cạnh những ưu
điểm, các công trình nêu trên bộc lộ một số hạn chế sau:
- Chủ yếu trình bày truyền thống, ít chú ý đến quá trình biến đổi bản và
sự thay đổi của mô hình quản lý bản qua từng giai đoạn lịch sử, nhất là từ
sau Đổi mới (1986) đến nay.

5


- Chưa chú ý đến vai trò, vị trí của bản trong công cuộc xây dựng nông
thôn mới ở vùng miền núi, dân tộc thiểu số.
Những công trình nghiên cứu về người Nùng và người Nùng Phàn Slình
tập trung chủ yếu ở một số chủ đề như nguồn gốc lịch sử, văn hóa vật chất,
nghi lễ trong chu kỳ đời người, thiết chế xã hội (dòng họ). Địa bàn nghiên

cứu chủ yếu tập trung ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, ít công trình
nghiên cứu về người Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm
Luận án làm rõ những khái niệm cơ bản sau: bản, tổ chức xã hội, tổ chức
hội, nhóm, mạng lưới, truyền thống, biến đổi, biến đổi xã hội, sở hữu tập thể, sở
hữu cá nhân, sở hữu đất đai, sự chiếm hữu đất đai, sở hữu chung của cộng đồng,
hương ước, quy ước, thiết chế tự quản và gia đình. Các thuật ngữ này có mối
quan hệ khá chặt chẽ với nhau và với chủ đề nghiên cứu của luận án này.
Tùy từng thuật ngữ, tác giả luận án có những trích dẫn định nghĩa của các
nhà khoa học đi trước, hoặc từ các từ điển của ngành Nhân học hoặc từ
điển tiếng Việt, từ đó, nêu chính kiến của tác giả về những thuật ngữ ấy.
1.2. 2. Cơ sở lý thuyết
Luận án đã áp dụng những lý thuyết sau: lý thuyết không gian xã
hội. Vận dụng lý thuyết trên, NCS sẽ tiếp cận nghiên cứu tổ chức bản của
người Nùng Phàn Slình như một không gian xã hội có ý nghĩa sinh tồn, nơi
cộng đồng thông qua nó để thiết lập và duy trì các mối quan hệ với môi
trường, các mối quan hệ kinh tế, và các quan hệ xã hội như láng giềng,
dòng họ, hôn nhân - gia đình, giao lưu văn hóa và ngôn ngữ. Hệ thống này
luôn mở rộng, lan truyền, tiến bộ không ngừng chứ không đứng im làm
biến đổi không gian xã hội là bản. Không gian xã hội luôn chứa đựng các
quan hệ xã hội, các vấn đề và những thực hành của các xã hội tộc người
rộng lớn hơn cả không gian địa lý cư trú đơn thuần, cho nên nghiên cứu về
tổ chức bản không chỉ giới hạn ở những thành tố nội tại bên trong nó, mà
phải có mối liên hệ với các quan hệ rộng lớn hơn bao trùm lên nó.

6


Lý thuyết biến đổi xã hội: Với luận án này, NCS tập trung xem xét sự

biến đổi xã hội ở người Nùng Phàn Slình dưới góc độ biến đổi tổ chức bản,
do những tác động của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước dành
cho đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách đổi mới, chương trình xây dựng
nông thôn mới được thực hiện trong những năm gần đây. Trong quá trình
vận dụng các chính sách này ở cấp cơ sở, tổ chức bản của người Nùng
Phàn Slình đã có nhiều biến đổi về không gian, hình thức cư trú cho tới
đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội cho phù hợp với công cuộc xây dựng
và phát triển chung của đất nước trong giai đoạn xây dựng đời sống văn
hóa mới.
1.3. Khái quát về huyện Đồng Hỷ và ngƣời Nùng Phàn Slình
1.3.1. Khái quát về huyện Đồng Hỷ
Cho đến trước năm 1962, Đồng Hỷ bao gồm 29 xã (trong đó có xã
Hợp Tiến của huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang). Từ năm 1985, huyện Đồng
Hỷ bao gồm 17 xã, 3 thị trấn (Chùa Hang, Trại Cau và Sông Cầu).
Địa phận huyện Đồng Hỷ ngày nay trải dài trên tọa độ địa lý từ 21 032’
đến 21051’ vĩ độ Bắc, từ 105046’ đến 106004’ kinh độ Đông. Phía bắc giáp
huyện Võ Nhai và tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp huyện Phú Bình và thành
phố Thái Nguyên, phía đông giáp tỉnh Bắc Giang, phía tây giáp huyện Phú
Lương và thành phố Thái Nguyên.
1.3.2. Khái quát về người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ
1.3.2.1. Tên gọi
Người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có nguồn gốc di
cư từ Lạng Sơn xuống và xa hơn về lịch sử họ di cư từ Trung Quốc sang cách
đây trên 300 năm. Tên gọi Nùng Phàn Slình là do gắn với địa phương Vạn
Thành Châu (Trung Quốc), quê hương cũ của người Nùng trước đây. Từ Phàn
Slình là do chuyển âm từ Vạn Thành châu sang tiếng Việt mà thành.
1.3.2.2. Lịch sử cư trú
Tính cho đến nay, sự hiện diện của người Nùng Phàn Slình trên mảnh
đất Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên đã trên trăm năm. Trải qua những thăng


7


trầm của lịch sử, tộc người này luôn phát huy truyền thống cố kết cộng
đồng và bảo lưu những nét văn hóa đặc sắc.
1.3.2.3. Hoạt động kinh tế
Trong xã hội truyền thống, kinh tế của người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ
chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi, mang nặng tính chất tự cung tự cấp. Nghề
thủ công truyền thống của người Nùng Phàn Slình vẫn chỉ mang tính hỗ trợ, tự
cung, tự cấp cho sinh hoạt gia đình và hoàn toàn mang tính mùa vụ.
1.3.2.4. Đặc trưng văn hóa - xã hội
Người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên hiện nay còn
giữ được nhiều đặc trưng văn hoá rất phong phú và đa dạng, được thể hiện
trên nhiều khía cạnh kinh tế - văn hoá – xã hội.
1.4. Khái quát về các điểm nghiên cứu
1.4.1. Xã Hòa Bình
Xã Hòa Bình nằm ở phía bắc của huyện Đồng Hỷ, diện tích tự nhiên là
12,46 km2. Phía bắc giáp xã Văn Lăng; phía nam giáp xã Minh Lập; phía
đông giáp xã Tân Long; phía tây giáp Phú Đô, huyện Phú Lương. Dân số
toàn xã có 726 hộ với khoảng 2900 người, cư trú tại 7 bản.
Dân số toàn xã có 726 hộ với khoảng 2900 người, cư trú tại 7 bản:
Đồng Vung, Đồng Cẩu, Tân Đô, Phố Hích, Tân Yên, Tân Thành, Trung
Thành, đa số là dân tộc Kinh, với 1.783 chiếm khoảng 54% tổng dân số,
còn lại khoảng 46% là dân tộc thiểu số như: dân tộc Tày (72 người), Nùng
(816 người), Sán Chay (20 người), Mường (7 người), Sán Dìu (19 người),
Dao (14 người) và Hoa (1 người).
1.4.2. Xã Tân Long
Tân Long có diện tích 141,14 km2, phía đông giáp xã La Hiên (huyện Võ
Nhai), phía tây giáp xã Minh Lập, phía nam giáp xã Hóa Trung và xã Quang
Sơn, phía bắc giáp xã Văn Lăng và xã Hòa Bình.

Hiện nay, xã có khoảng 1.500 hộ với 6.519 người bao gồm 8 dân tộc
anh em cùng sinh sống. Đông nhất là người Nùng: 844 hộ với 3.092 người,
chiếm 47,43% dân số cư trú cụ thể ở: Ba Đình (290 hộ), Đồng Mẫu (104

8


hộ), Làng Mới (175 hộ), Đồng Luông (58 hộ), Đồng Mây (217 hộ). Còn lại
dân tộc Kinh: 395 hộ với 1.386 người, chiếm 21,26%; dân tộc Hmông: 183
hộ với 935 người, chiếm 14,34%; dân tộc Dao: 109 hộ với 583 người,
chiếm 8,94%; dân tộc Sán Chay: 76 hộ với 294 người, chiếm 4,5%; dân tộc
Tày: 27 hộ với 178 người, chiếm 2,73%; dân tộc Sán Dìu: 5 hộ với 51
người, chiếm 0,78%.
1.4.3. Xã Văn Hán
Văn Hán là một xã nằm ở phía đông của huyện Đồng Hỷ, có diện tích
65,46 km2. Xã giáp với xã La Hiên, Lâu Thượng và Liên Minh thuộc huyện
Võ Nhai về phía bắc và đông bắc, giáp với xã Cây Thị ở phía đông, giáp
với xã Nam Hòa ở phía nam, giáp với xã Khe Mo ở phía tây. Xã được chia
thành 17 bản: Vân Hán, La Đùm, Cầu Mai, Phả Lý, Thịnh Đức I, Thịnh
Đức II, Đoàn Lâm, Vân Hòa, Ba Quà, La Củm, Hòa Khê I, Hòa Khê II, La
Đàn, Làng Cả, Làng Hòa, Ấp Chè.
Hiện nay, xã có 2.546 hộ với trên 10.000 người thuộc 8 dân tộc anh em
cùng chung sống: Kinh: 5.324 người, chiếm 55,6%; Nùng: 3.496 người,
chiếm 36,5%; Sán Chay: 547 người, chiếm 5,7%; Tày: 80 người, chiếm
0,09%; Dao: 28 người, chiếm 0,029%: Thái: 8 người, chiếm 0,083%;
Hmông: 5 người, chiếm 0,05%, Mường: 4 người, chiếm 0,04%.
1.4.4. Xã Văn Lăng
Văn Lăng là một xã miền núi cách xa trung tâm nhất của huyện Đồng
Hỷ, có diện tích 63,03km2. Xã giáp với xã Quảng Chu thuộc huyện Chợ
Mới tỉnh Bắc Kạn ở phía tây và phía tây bắc, giáp với xã Thần Sa thuộc

huyện Võ Nhai ở phía đông bắc và phía đông, giáp với xã Tân Long ở phía
đông nam, giáp với xã Hòa Bình ở phía nam, giáp với hai xã Yên Lạc và
Phú Đô của huyện Phú Lương ở phía tây và tây nam. Văn Lăng được chia
thành 16 bản: Khe Hai, Liên Phương, Bản Tèn, Văn Lăng, Vân Khánh,
Tam Va, Đạt, Tân Lập I, Tân Lập II, Tân Sơn, Tân Thịnh, Tân Thành,
Mong, Khe Quân, Khe Cạn, Mỏ Nước.

9


Xã có trên 1.200 hộ, với 4.555 người thuộc 8 dân tộc anh em, trong đó:
dân tộc Kinh: 1.474 người chiếm 32,3%; Hmông: 1.356 người, chiếm
29,7%; Dao: 809 người, chiếm 17,7%; Nùng: 691 người, chiếm 15,1%;
Tày: 174 người, chiếm 3,8%; Sán Dìu: 26 người, chiếm 0,57%; Sán Chay:
21 người, chiếm 0,46%; Mường: 4 người, chiếm 0,087%.
Tiểu kết chƣơng 1
Chương 1, trình bày các công trình nghiên cứu về tổ chức làng/bản của
một số quốc gia trên thế giới đã góp thêm nguồn tư liệu để NCS tham khảo
trong quá trình thực hiện luận án.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có rất nhiều công trình
nhiên cứu về bản của các dân tộc thiểu số với những nét văn hóa đặc trưng
mang tính chất vùng miền. Tuy nhiên, nghiên cứu bản của người Nùng nói
chung, Nùng Phàn Slình nói riêng còn ít ỏi.
Người Nùng Phàn Slình - một nhóm địa phương của dân tộc Nùng di
cư từ các huyện của tỉnh Lạng Sơn đến huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên cách
đây hơn một thế kỷ. Trải qua thời gian, người Nùng Phàn Slình đã ổn định
cuộc sống và ngày càng phát triển trên quê hương mới.
Luận án vận dụng một số lý thuyết để nghiên cứu như lý thuyết Không gian
xã hội, lý thuyết Biến đổi xã hội. Thông qua đó, NCS có cơ sở đánh giá khách
quan về các vấn đề của tổ chức bản từ truyền thống cho đến biến đổi hiện nay.

Chƣơng 2
ĐẶC ĐIỂM, CẤU TRÚC BẢN
CỦA NGƢỜI NÙNG PHÀN SLÌNH
2.1. Một số tiêu chí phân loại bản
Là cư dân nông nghiệp định canh, phụ thuộc chặt chẽ vào canh tác
ruộng nước, hầu hết bản của người Nùng đều nằm ở những khu vực giống
người Tày, đó là những thung lũng có sông hay suối, đồi núi bao quanh. Về
đại thể, bản của người Nùng nói chung, của người Nùng Phàn Slình ở Đồng

10


Hỷ nói riêng vẫn thuộc loại hình làng bản của cư dân nông nghiệp đã định
canh, định cư ở vùng trung du hay thung lũng lòng chảo.
2.2. Tên gọi của bản
Mỗi bản của người Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ đều có tên
riêng. Những tên gọi đó trở thành thân thiết, thiêng liêng và được ổn định,
lưu truyền mọi thế hệ của mỗi cộng đồng dân cư. Bên cạnh đó có một số ít
tên bản chỉ còn lại trong kí ức của người dân. Khảo sát cho thấy việc đặt
tên bản của người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên theo một
số hình thức như đặt tên bản theo đặc điểm địa hình tự nhiên, đặt tên bản
theo đặc điểm động vật, thực vật và đặt tên mới.
2.3. Nguyên tắc lập bản
Bản của người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ là khu vực tập trung của
các ngôi nhà sàn dựa lưng vào dải đất, sườn đồi, dãy núi hay trong thung
lũng... Quan niệm của các bậc cao niên là chỉ có dựa lưng vào đồi núi cao
thì mới có nước mạch. Cũng có khi bản lại ở giữa cánh đồng để tiện canh
tác, nhưng thuận lợi nhất vẫn là gần nguồn nước, gần ruộng, có thể gần bãi
nương càng tốt. Chất lượng đất (độ dày, hàm lượng mùn) có thể là căn cứ
quan trọng nhất để thiết lập các cánh đồng, nhưng không phải là tiêu chí có

tính quyết định cho việc lựa chọn lập bản. Ngoài ra, họ còn có quan niệm
chỗ nào có nhiều rừng cây nơi đó sẽ có nước ngầm chảy ra ở chân đồi, chân
núi thì mới thuận lợi cho việc định cư và trồng lúa.
2.4. Tổ chức không gian của bản
2.4.1. Ranh giới bản, liên bản
Từ khi lập bản cho đến nay, người Nùng Phàn Slình đều có quy ước về
ranh giới giữa các bản với nhau. Có hai kiểu phân biệt ranh giới như sau:
Thứ nhất là căn cứ vào đường phân thủy. Thứ hai là dựa vào địa hình tự
nhiên có sẵn như cánh đồng, dòng suối, quả đồi, gốc cây…
Ranh giới bản phần lớn đều do lớp người khai phá đất đai đầu tiên đặt
ra, các thế hệ sau tuân theo một cách tự nguyện, không một thành viên nào
vi phạm ranh giới đó... Mặc dù ranh giới chỉ là ước lệ, nhưng người dân

11


trong bản vẫn có thể xác định được phạm vi quyền lợi của mình đối với các
tài sản chung của cộng đồng. Từ đó, họ cũng có ý thức tôn trọng và bảo vệ
không gian sinh tồn của mình.
2.4.2. Đặc điểm quần cư của các gia đình (nóc nhà) trong bản
Qua khảo sát cho thấy trong tổ chức bản của người Nùng Phàn Slình ở
huyện Đồng Hỷ có một số hình thức cư trú như sau:
Thứ nhất, cũng là phổ biến nhất, đó là các ngôi nhà được bố trí dọc
theo đường bê tông hoặc theo đường dân sinh. Thứ hai, cư trú ven núi, nằm
rải rác theo sườn đồi, núi, nhà cửa không theo một trật tự nào. Thứ ba, cư
trú teo từng chòm nhỏ, quanh các quả đồi hay dưới chân núi đá. Thứ tư, cư
trú dọc theo dòng suối.
2.4.3. Không gian sinh hoạt của bản
Không gian sinh hoạt của bản bao gồm không gian thiêng, không gian
bán thiêng, các ngôi nhà sàn, các nhà văn hoá…

2.5. Thành phần dân cƣ trong bản
Tùy theo điều kiện đất đai canh tác, nguồn nước, giao thông đi lại,
hoàn cảnh lịch sử, xã hội từng thời kỳ mà bản có quy mô lớn nhỏ khác
nhau. Bản có quy mô càng lớn, thành phần dân cư trong bản càng đa dạng,
không chỉ thể hiện qua số lượng gia đình (nóc nhà) mà còn thể hiện qua số
dòng họ trong bản và tính đa dạng tộc người của nó theo thời gian.
2.5.1. Các đơn vị xã hội trong bản
2.5.1.1. Gia đình - một thành tố của bản
Ngày nay, gia đình hạt nhân chiếm đa số trong cộng đồng người Nùng
Phàn Slình. Sự gia tăng dân số khiến cho dòng họ ngày càng mở rộng và
phân bố ở khắp nơi trên địa bàn cư trú.
2.5.1.2. Các dòng họ trong bản
Các dòng họ người Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ sống cùng địa
phương hoặc có thể phân tán ở các xã khác nhau. Khi họ sống trong cùng
một xã sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong việc cố kết sức mạnh cộng đồng

12


trong các hoạt động chung. Đối với bản thì dòng họ là một yếu mang tính
cơ cấu chứ không phải là một yếu tố mang tính quyền lực.
2.5.2. Thành phần tộc người trong bản
Các bản của người Nùng trước đây thường chỉ thuần túy có một tộc
người cư trú, nhiều bản chỉ riêng một nhóm Nùng quần tụ. Về sau, do sự
phát triển của dân số trong vùng và do cả sự chuyển cư của các dân tộc
khác đến nên thành phần tộc người (cũng như các nhóm địa phương của
một tộc người) trong bản ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Một số bản
có từ 7 đến 8 dân tộc cùng cư trú.
Tiểu kết chƣơng 2
Bản người Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ được hình thành một

cách tự do, tự phát theo nhu cầu khát vọng đi tìm mảnh đất mới, nơi hội tụ
đầy đủ các yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa.
Mỗi tên gọi của bản gắn với động vật, thực vật và một số hiện tượng tự
nhiên xã hội khác. Đó là, những cái tên đơn giản, dễ nhớ, dễ tìm và gắn bó
với đời sống thường ngày của người dân.
Bản của người Nùng Phàn Slình đều có ranh giới gắn liền với những
đặc điểm gần gũi, dung dị và đời thường. Ranh giới bản chỉ mang tính ước
lệ, nhưng được dân bản gìn giữ từ đời này qua đời khác.
Mỗi bản là tập hợp của nhiều gia đình, chủ yếu gia đình hạt nhân, mang
tính chất phụ quyền, quyền lực tập trung trong tay người đàn ông, chủ gia đình.
Trong bản, dòng họ cũng rất đa dạng, bản ít từ 4 đến 5 dòng họ, bản nhiều có
thể lên tới hơn chục dòng họ. Thành phần tộc người trong bản cũng khá phong
phú, một số bản có đủ 8 thành phần dân tộc cùng cư trú.
Chƣơng 3
CÁC THIẾT CHẾ VÀ QUAN HỆ XÃ HỘI TRONG BẢN
3.1. Sở hữu và sử dụng đất đai
3.1.1. Sở hữu tập thể

13


Có thể nói những tài sản chung ở bản của người Nùng Phàn Slình đều
là những tài sản có sẵn trong tự nhiên từ xưa, bao gồm: khu vực đất đai
thiên nhiên của chung toàn bản (sông, suối, đồi, núi, đất rừng, bãi chăn thả,
nghĩa địa…).
3.1.2. Sở hữu cá thể
Về đất đai và quyền sử dụng trong cộng đồng các dân tộc trên địa bàn
huyện Đồng Hỷ nói chung và người Nùng Phàn Slình nói riêng đã có thay
đổi. Hiện nay, người dân có quyền sử dụng đất đai để ở, sản xuất nông
nghiệp và chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Các chủ hộ sở hữu

bìa đỏ chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, bìa xanh chứng nhận
quyền sử dụng đất rừng.
3.2. Hình thức quản lý bản
3.2.1. Trưởng bản và vai trò của trưởng bản
Vai trò của trưởng bản còn được thể hiện trong lao động sản xuất, phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống gia đình và cộng đồng, góp phần vào phát
triển kinh tế địa phương.
3.2.2. Những người hành nghề tôn giáo, tín ngưỡng
Ngày nay, trong các bản của người Nùng Phàn Slình vẫn còn các thầy
cúng chuyên phục vụ nhu cầu tâm linh cho cộng đồng vào các dịp ma chay,
lễ tết, cưới xin…
3.2.3. Các tổ chức phi quan phương trong bản
Một số tổ chức quan phương hiện vẫn tồn tại trong từng bản người
Nùng Phàn Slình: hàng phường hỗ trợ sản xuất, hàng phường hỗ trợ làm
nhà, hàng phường hỗ trợ đám tang, hàng phường hỗ trợ thực hiện những
công việc khác… thể hiện được tính cố kết cộng đồng bền chặt. Các thành
viên trong bản với nhau biết yêu thương, nương tựa vào nhau để phát triển.
3.2.4. Các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, giống với xu hướng chung của
nhiều nơi khác, các tổ chức chính trị - xã hội mới gắn với chế độ xã hội chủ
nghĩa (Chi bộ Đảng Cộng sản, Ban Công tác Mặt trận, Chi bộ Hội Nông

14


dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên…)
đã từng bước thâm nhập vào đời sống hàng ngày trong bản của người Nùng
Phàn Slình.
3.2.5. Quy ước của bản
Nhìn chung các loại quy ước của người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ

chỉ tồn tại ở dạng truyền miệng từ người này sang người khác, từ thế hệ này
qua thế hệ khác. Kết quả khảo sát cho thấy, quy ước của người Nùng Phàn
Slình hiện còn tồn tại ở một số lĩnh vực sau:
- Quy ước bảo vệ an ninh
- Quy ước bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
- Quy ước sinh hoạt văn hóa cộng đồng
- Quy ước trong tương trợ giúp đỡ lẫn nhau
3.3. Quan hệ cộng đồng trong bản
3.3.1. Cộng đồng trong hoạt động kinh tế
Có thể nói mối quan hệ kinh tế của người Nùng Phàn Slình chủ yếu
mang tính chất đơn giản, không phức tạp. Mỗi gia đình là một đơn vị kinh
tế độc lập, không phụ thuộc vào các gia đình khác. Đặc điểm kinh tế của
bản chủ yếu là tự cung tự cấp. Họ chỉ mua sắm ở chợ những vật dụng cần
thiết đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
3.3.2. Quan hệ cộng đồng trong phong tục tập quán
Ngày nay sự tương trợ trong phong tục tập quán của đồng bào vẫn còn
tồn tại, vẫn thể hiện sự tương thân tương ái, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.
Hơn thế nữa, sự tương trợ này còn xuất hiện thêm thành viên là người
Kinh, Sán Chay... những dân tộc sống trên cùng địa bàn cư trú.
3.3.3. Mối quan hệ giữa các dòng họ
Trong gia đình người Nùng Phàn Slình có các mối quan hệ cơ bản như:
vợ - chồng, bố mẹ - con cái, ông bà - con cháu.
Trong gia đình người chồng quyết định tất cả các mối quan hệ, người
vợ đưa ra các ý kiến đóng góp cho chồng để duy trì và phát huy các mối

15


quan hệ đó. Ngoài ra, trong bản còn có các mối quan hệ khác như: anh em,
họ hàng, bản láng giềng…

3.4. Mối quan hệ giữa bản người Nùng Phàn Slình với bản của
dân tộc khác
Trong quá trình hình thành và phát triển, các bản dân cư tất yếu sẽ nảy
sinh các quan hệ kinh tế - xã hội chằng chịt. Đó có thể là quan hệ hôn nhân,
quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị nội bộ (bên trong), hay là quan hệ xã giao
(bên ngoài).
Tiểu kết chƣơng 3
Trong các bản của người Nùng Phàn Slình tồn tại hai hình thức sở hữu, đó
là: sở hữu tập thể (đất rừng, đất đường đi, nguồn nước sạch, bãi chăn thả, đập
nước…) sở hữu cá nhân (đất nhà ở, đất ruộng, đất rừng…). Nguồn gốc đất đai
trong các bản khá rõ ràng: thứ nhất là do thừa hưởng lại ruộng đất của một bộ
phận người Sán Chay, thứ hai là mua lại của chính quyền sở tại và thứ ba là tự
khai phá trong quá trình lập bản.
Các thiết chế tự quản như trưởng bản, những người hành nghề tín
ngưỡng, quy ước của bản đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức, điều
chỉnh và duy trì các hoạt động trong cộng đồng.
Bản của người Nùng Phàn Slình tồn tại nhiều mối quan hệ như quan hệ
giữa các dòng họ với nhau; quan hệ giữa bản với từng hộ gia đình; quan hệ
giữa bản với bản… Sự chồng chéo đan xen những mối quan hệ trở thành
một hệ thống xã hội phức tạp, đa dạng chỉ cộng đồng dân cư mới hiểu rõ và
giải quyết được, sự trì trệ hay phát triển đi lên đều phụ thuộc vào hoạt động
tự quản có phát huy được hiệu quả hay không.
Các hoạt động của các tổ chức hàng phường đã giúp củng cố hệ
thống niềm tin trong cộng đồng, tăng cường sự tương hỗ theo nguyên tắc
có đi có lại dựa trên hệ thống các giá trị chuẩn mực. Từ đó tạo ra mạng
lưới liên kết xã hội chặt chẽ trong cộng đồng bản. Đặc biệt, sự xuất hiện
của các tổ chức chính trị - xã hội đã góp phần nâng cao vị thế của bản
trong bối cảnh hiện nay.

16



Chƣơng 4
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG,
XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CỦA BẢN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
4.1. Những yếu tố tác động đến biến đổi bản
4.1.1. Tác động từ đường lối Đổi mới của Đảng
Kể từ sau năm 1986, nhân dân các dân tộc huyện Đồng Hỷ nói chung
và người Nùng Phàn Slình nói riêng đều có những thay đổi chuyển biến
quan trọng về mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây là năm đánh
dấu bước chuyển mình hoàn toàn sau một thời gian dài Nhà nước thực hiện
chế độ quan liêu bao cấp. Đồng thời Đảng và Nhà nước ta cũng dân chủ
hóa đời sống xã hội, phát huy yếu tố con người và từng bước xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân vì dân.
4.1.2. Tác động từ các chính sách của Nhà nước và địa phương
Các chính sách dân tộc và miền núi thực hiện toàn diện trên nhiều lĩnh
vực, với mục đích giảm dần khoảng cách chênh lệch phát triển giữa các dân
tộc, giữa các vùng miền. Có thể nói đã có rất nhiều chương trình chính sách
đã đi vào cuộc sống rất hiệu quả, đem lại cho đồng bào dân tộc thiểu số nói
chung người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên nói riêng có
được cuộc sống khấm khá hơn so với trước năm 1986.
4.1.3. Tác động từ Chương trình xây dựng Nông thôn mới
Từ khi thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới đời sống kinh
tế ở người Nùng Phàn Slình có nhiều khởi sắc. Trong tổ chức sản xuất, phát
triển kinh tế, các địa phương đã tập trung đầu tư và hình thành được một số
vùng sản xuất chăn nuôi phát triển mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao, ổn
định đời sống người dân.
4.1.4. Tác động của giao lưu, hội nhập văn hóa
Giao lưu văn hóa cũng bao gồm sự tiếp nhận các yếu tố văn hóa Nùng
của người dân thuộc các tộc người khác. Những lễ hội cộng đồng của người

Nùng có sự tham dự, tham gia của các tộc người khác, dần chuyển từ các lễ
hội mang tính tộc người thành các lễ hội mang tính địa phương…

17


4.1.5. Tác động của tâm lý tộc người
Nếu như trước đây, theo tâm lý cũ thì chỉ có những người cùng tộc
mới nên lấy nhau, còn lấy người khác tộc sẽ gặp nhiều hạn chế trong quan
hệ ứng xử, tâm lý, nếp sống, ngôn ngữ... Thì ngày nay, hiện tượng hôn
nhân khác tộc ngày càng trở nên phổ biến là một nhân tố thúc đẩy quá
trình hội nhập giữa các cộng đồng thôn, xóm, bản.
4.2. Xu hƣớng biến đổi
Hiện nay bản của người Nùng Phàn Slình có ba số xu hướng biến đổi,
đó là:
- Xu hướng biến đổi về không gian bản
- Xu hướng biến đổi về thành phần dân cư và tổ chức xã hội
- Xu hướng biến đổi về quan hệ xã hội
- Xu hướng biến đổi về ý thức của người dân trong bản
4.3. Một số vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay
4.3.1. Nhận diện những điểm tích cực và hạn chế của tổ chức bản
Tổ chức bản nói riêng và các thiết chế xã hội truyền thống nói chung là
một thực thể khách quan có tác động rất mạnh, cần được lường tính đầy đủ
trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị.
4.3.1.1. Những điểm tích cực
- Bản của người Nùng Phàn Slình có lối cư trú mật tập, thể hiện mối
liên kết cộng cư, cộng cảm, cộng mệnh giữa các thành viên trong bản với
nhau. Các mối quan hệ láng giềng, huyết tộc, họ hàng, thông gia thường
quyện chặt vào nhau, tạo nên sự cố kết bền vững giữa các thành viên.
- Bản là đơn vị xã hội duy nhất nơi mà các luật tục về sử dụng và bảo

vệ tài nguyên thiên nhiên được phát huy, cả từ xa xưa đến hiện tại. Tổ chức
bản cũng là nơi mà cộng đồng tộc người thực hiện vai trò hòa giải, xử lý
mâu thuẫn giữa các cá nhân, gia đình, dòng họ, trước khi đến mức phải đưa
lên hệ thống pháp luật cao hơn để giải quyết.
- Bộ máy tự quản của bản truyền thống gồm già bản, trưởng họ, những
người có uy tín (thầy lang, thầy cúng, bà mụ vườn) là những cộng sự đắc

18


lực cho các trưởng bản, trưởng các tổ chức chính trị - xã hội, những “chân
rết” của chính quyền ở cơ sở.
- Bản là nơi gìn giữ và thực hành đầy đủ nhất hệ thống tri thức dân
gian và bản sắc văn hóa tộc người.
- Bản truyền thống là môi trường quan trọng góp phần xây nên nhân
cách của mỗi người.
- Bản là tổ chức dân cư cơ sở đóng vai trò trung gian giữa chính quyền
cơ sở với cá nhân, hộ gia đình.
4.3.1.2. Những điểm hạn chế
- Truyền thống đoàn kết tuy là một nét đẹp, song tính cộng đồng cao luôn
đồng hành với khuynh hướng cục bộ, địa phương và gia đình chủ nghĩa.
- Tổ chức bản truyền thống tuy có tính chất cố kết, cộng cảm, song không
đủ sức mạnh để bảo vệ cộng đồng trước các mối đe dọa từ bên ngoài.
- Việc phát huy quyền làm chủ quê hương của nhân dân trong bối cảnh
mới còn thụ động, nhiều khi lệ thuộc vào tiếng nói của người có uy tín.
- Ở một mức độ nhất định, tập quán dân chủ dựa trên nguyên tắc hòa
đồng thường đi đôi với chủ nghĩa bình quân, cào bằng và nếu không được
điều tiết cũng tiềm ẩn nguy cơ tự do, vô chính phủ.
- Giao lưu kinh tế và văn hóa giữa các bản còn hạn hẹp, chủ yếu là
giao lưu giữa các cá nhân, các nhóm xã hội. Bản với tư cách là các đơn vị

xã hội riêng rẽ cũng tạo gánh nặng cho bộ máy quản lý hành chính, chính
trị cấp xã khi mà mỗi chủ trương, chính sách phải thông qua nhiều người
trung gian mới đến được bản.
- Việc huy động các tiềm lực văn hóa - xã hội của bản trong việc xây
dựng nông thôn mới chưa đạt nhiều kết quả.
- Ngày nay, bản đã có nhiều thay đổi cả về cách định danh, cấu trúc
không gian lẫn đặc điểm xã hội. Các quá trình dân cư, dân số, các hệ thống

19


hành chính, luật pháp mới đã làm mờ đi tính cộng đồng, tách rời tính liên
kết giữa con người với môi trường tự nhiên.
- Một trong những vấn đề lớn hiện nay đối với tổ chức bản là sự suy giảm
tính cố kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng dưới tác động của kinh tế thị
trường, thể hiện qua những xung đột lợi ích giữa các cá nhân, gia đình.
- Xây dựng bản văn hóa hiện nay không những là vấn đề cấp thiết mà
còn cả vấn đề tâm huyết trí tuệ để định hướng cho sự phát triển xã hội. kh
4.4.1. Đối với phía chính quyền địa phương
Về kinh tế: Chính quyền địa phương cần đưa ra các giải pháp bền vững
để phát triển nhịp độ kinh tế của mỗi địa phương, đặc biệt những nơi tập
trung người Nùng Phàn Slình cư trú. Hướng dẫn người dân áp dụng nhiều
mô hình sản xuất nông nghiệp cho hiệu quả và năng suất cao để cải thiện được
đời sống kinh tế ngày càng tốt hơn.
Về lĩnh vực văn hóa - xã hội: Vận dụng đúng đắn các chính sách của
Đảng và Nhà nước đã ban hành, đường lối, tư tưởng chỉ đạo, những tư tưởng
nhân văn lành mạnh để phân tích, tách bạch cho rõ đâu là thuần phong mỹ
tục nên gìn giữ và phát huy, đâu là yếu tố lỗi thời đồng bào nên loại bỏ.
Về giáo dục: Tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số đi học nhiều
ngành nghề để hình thành đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số về xây dựng

bản làng, quê hương ngày càng giàu đẹp.
4.4.2. Đối với người dân địa phương
Mỗi người Nùng Phàn Slình cần phải ý thức được việc giữ gìn, bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong thời đại mới. Những yếu tố văn
hóa tích cực cần được phát huy, những yếu tố tiêu cực cần hạn chế để xây
dựng cộng đồng mình ngày một phát triển.
Từ xưa đến nay, tâm lý tự ti của dân tộc cũng là một nguyên nhân
chính làm cho bản sắc văn hóa bị mai một. Mỗi người không nên có tư
tưởng cho rằng, văn hóa của dân tộc mình kém dân tộc khác, văn hóa chỉ là
sự khác biệt. Đó chính là những nét riêng độc đáo làm nên bản sắc văn hóa
của các dân tộc. Do vậy, cần có một sự nhận thức đúng đắn về văn hóa dân
tộc mình.

20


Tiểu kết chƣơng 4
Có thể nói rằng tác động của đường lối đổi mới và các chính sách của
Đảng, Nhà nước trong mấy chục năm qua đã dẫn đến những biến đổi trên các
khía cạnh kinh tế, văn hoá, xã hội của người Nùng Phàn Slình trên toàn địa bàn
huyện Đồng Hỷ. Đặc biệt, Chương trình nông thôn mới, đã nâng cao đời sống
mọi mặt cho người dân, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.
Trong những năm tới, xu hướng biến đổi của người Nùng sẽ diễn ra trong
phạm vi không gian bản, trong đó sự mở rộng về giao thông, chuyển đổi mục
đích cây trồng là tiền đề phát triển kinh tế văn hoá xã hội. Thành phần dân cư
sẽ đa dạng hơn bởi hai quá trình xáo trộn dân cư trong một vùng và xáo trộn
dân cư liên vùng.
Bản của người Nùng là một loại hình công xã nông thôn, bộ máy tự
quản của bản là những cộng sự đắc lực cho các trưởng bản, trưởng các tổ
chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó bản cũng vẫn còn tồn tại

những hạn chế cần được khắc phục, loại bỏ, như: thói quen trọng tục lệ hơn
pháp luật, giao lưu kinh tế và văn hóa giữa các bản còn hạn hẹp, chủ yếu là
giao lưu giữa các cá nhân, các nhóm xã hội…
NCS cũng xin đưa ra một số khuyến nghị nhằm bảo tồn, gìn giữ và phát
huy văn hoá dân tộc, đó là chính quyền ngày càng đi sâu đi sát, đi vào thực tế của
người dân bằng những chương trình, chính sách mang lại hiệu quả kinh tế cao.
KẾT LUẬN
1. Bản là đơn vị cư trú ở vùng miền núi, dân tộc thiểu số được các
nhà nghiên cứu Dân tộc học - Nhân học, Sử học, Xã hội học, Văn hóa học
quan tâm và đã được công bố trên các tạp chí chuyên ngành hoặc xuất bản
sách… Với mỗi dân tộc, bản thể hiện những sắc thái văn hóa tộc người
riêng. Bản đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống. Nó góp phần làm cho bản sắc của tộc người
mãi được lưu truyền cho con cháu muôn đời sau.

21


2. Bản của Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có
lịch sử hơn một trăm năm. Mỗi bản đều gắn với một tên gọi thân thương và gần
gũi. Cách thức bố trí nơi cư trú khá đa dạng: cư trú mật tập dọc theo đường dân
sinh; cư trú ven núi, nằm rải rác theo sườn đồi, núi; cư trú theo từng chòm nhỏ,
quanh các quả đồi hay dưới chân núi đá; cư trú dọc theo dòng suối, nhà cửa bố trí
mật tập. Điều này tạo nên nét đặc trưng riêng so với bản của các dân tộc khác
như Kinh, Sán Chay, Hmông, Dao… Đây là đặc điểm dễ nhận thấy để phân biệt
bản - đơn vị cư trú của họ với những đặc trưng mang sắc thái dân tộc rõ rệt.
3. Bản là tập hợp của nhiều gia đình và dòng họ di cư chủ yếu từ
Lạng Sơn xuống Đồng Hỷ. Trong bản, gia đình hạt nhân, mang tính chất
phụ quyền là chủ yếu. Quy mô của mỗi bản thường rất khác nhau, bản đông
dân thường từ 70 đến 100 gia đình, bản nhỏ từ 30 - 50 gia đình. Bản của

người Nùng Phàn Slình thường có nhiều dòng cùng cư trú, ngày nay, ở nhiều
bản còn có sự đa dạng về thành phần tộc người. So với bản của các dân tộc
Tày, Thái ở Việt Nam, có thể thấy quy mô bản người Nùng Phàn Slình chỉ
ở mức trung bình. Điều này, một mặt do thời gian định cư ngắn, mặt khác
tập quán tách hàng phường (tổ chức hàng phường đông lại tách ra lập nên
bản mới)…
4. Bản là một tổ chức xã hội mang tính quy củ, hoạt động thống
nhất. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 bản chịu sự quản lý của bộ
máy chính quyền phong kiến và thực dân Pháp. Từ sau Cách mạng tháng
Tám, hệ thống chính trị ở cơ sở ra đời, bản được củng cố bằng bộ máy quản
lý mới gồm bí thư chi bộ, trưởng bản… và các chi hội trưởng của tổ chức
chính trị - xã hội. Nhờ có các thiết chế này mà tổ chức bản ở người Nùng
Phàn Slình được duy trì và phát huy hiệu quả. Bên cạnh đó, những người
hành nghề tín ngưỡng như thầy tào, thầy mo, thầy pụt… vẫn được cộng

22


×