Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người nùng ở huyện đồng hỷ tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 150 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





LÊ THỊ THANH VÂN





PHONG TỤC VÀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
CỦA NGƯỜI NÙNG Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ
TỈNH THÁI NGUYÊN


Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN





THÁI NGUYÊN - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





LÊ THỊ THANH VÂN







PHONG TỤC VÀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
CỦA NGƯỜI NÙNG Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ

TỈNH THÁI NGUYÊN






LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ








THÁI NGUYÊN - 2009



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ NGUỒN GỐC CỦA NGƢỜI
NÙNG, HUYỆN ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN .................................................................................................. 8

1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên .......................................................................................................................................................... 8
1.2. Nguồn gốc của tộc người Nùng. .............................................................................................................................. 11
CHƢƠNG 2: PHONG TỤC NGƢỜI NÙNG Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ ............................................... 18
2.1. Hôn nhân ........................................................................................................................................................................................................ 18
2.2. Tục lệ sinh đẻ .......................................................................................................................................................................................... 31
2.3. Tục làm nhà mới ................................................................................................................................................................................ 35
2.4. Lễ sinh nhật. ............................................................................................................................................................................................. 40
2.5. Tục lệ ma chay...................................................................................................................................................................................... 41
2.6. Những biến đổi ngày nay .................................................................................................................................................... 59
CHƢƠNG III: TÍN NGƢỠNG TÔN GIÁO CỦA NGƢỜI NÙNG Ở ĐỒNG HỶ........... 62
3.1. Quan niệm chung về tín ngưỡng tôn giáo ................................................................................................ 62
3.2. Vật linh giáo ............................................................................................................................................................................................. 63
3.3. Một số tục thờ cúng ...................................................................................................................................................................... 68
3.4. Những ảnh hưởng của tam giáo và vị trí của nó trong đời sống xã
hội người Nùng ........................................................................................................................................................................................ 78
3.5. Vai trò của Tào, Mo, Then, Pụt trong đời sống tâm linh của người Nùng ......... 80
3.6. Mối quan hệ và ảnh hưởng của văn hoá tinh thần người Nùng với
các dân tộc khác ở huyện Đồng Hỷ ........................................................................................................................ 84
3.7. Một số giải pháp để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá tinh
thần truyền thống trong điều kiện ngày nay ............................................................................................. 90
KẾT LUẬN ....................................................................................................................................................................................................................... 95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................................................................................. 99
PHỤ LỤC .......................................................................................................................................................................................................................106
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ của mình, em xin gửi lời cảm ơn chân

thành tới Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Lịch sử và
các Giảng viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã nhiệt tình
truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt quá trình học tập và
hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.
Với lòng biết ơn chân thành, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới
PGS.TS. Đàm Thị Uyên đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh
Thái Nguyên, Ban giám hiệu trường Trung học phổ thông Đồng Hỷ và các
thầy cô giáo trong trường đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn tới Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Nguyên, Văn
phòng tỉnh uỷ Thái Nguyên, Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch, Uỷ ban nhân
dân huyện Đồng Hỷ, Ban Văn hoá huyện Đồng Hỷ … đã tạo điều kiện giúp
đỡ tôi trong quá trình tìm hiểu tư liệu để hoàn thành Luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp
đã động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn.

Thái Nguyên, ngày 28 tháng 9 năm 2009
Tác giả
Lê Thị Thanh Vân



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia với 54 dân tộc anh em. Mỗi một dân tộc có
một bản sắc văn hoá riêng. Trải qua quá trình phát triển, 54 bản sắc dân tộc,
ngày càng hoà quyện, đan xen vào nhau, quá trình giao thoa đó đã làm cho
nền văn hoá của các dân tộc hoà nhập nhưng không hoà tan, góp phần làm
cho nền văn hoá vật chất, tinh thần Việt Nam phong phú, đa dạng và độc đáo.
Dân tộc và bản sắc văn hoá dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Mỗi một dân tộc có nhưng bản sắc văn hoá dân tộc riêng, trong xu hướng hội
nhập quốc tế hiện nay việc giữ gìn nhưng nét văn hoá dân tộc mang một ý
nghĩa quan trọng, bởi không ít những thế lực phản động đang từng ngày từng
giờ lợi dụng vấn đề dân tộc để gây xung đột chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.
Chính vì vậy việc bảo tồn và phát huy nền văn hoá dân tộc là một vấn đề cấp
thiết của từng dân tộc.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân tộc Nùng chiếm một số lượng
đông đảo, sống tập trung ở khu vực Việt Bắc. Sau các tỉnh Lạng Sơn, Cao
Bằng, ĐắkLắc, Bắc Giang, Hà Giang, Thái Nguyên là một tỉnh trung du phía
Bắc có số lượng người Nùng đứng thứ sáu. Trong đó tập trung chủ yếu ở một
số huyện như Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ… Trong đó người Nùng ở huyện
Đồng Hỷ chiếm 13,2% trong tổng số 123.196 người, nhiều xã tỷ lệ người
Nùng chiếm tới 98% như (Hoá Trung, Tân Long, ….).
Với vị trí địa lý thuận lợi, tiếp giáp với Sông Cầu rất thuận lợi cho việc
đi lại trao đổi buôn bán bằng đường thuỷ, ngoài ra Đồng Hỷ còn là huyện có
đường quốc lộ 1B đi qua với chiều dài 15,5km không chỉ thuận tiện cho việc
đi lại mà còn thuận tiện cho việc giao lưu trao đổi kinh tế giữa khu vực huyện
với các khu vực khác. Trong toàn huyện, đồng bào Nùng chiếm một số lượng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
không đông, chỉ trừ mấy xã chiếm tới số lượng 98% đồng bào Nùng, còn các
xã khác là sự đan xen giữa các dân tộc khác trong vùng, mặc dù vậy nhưng
đồng bào Nùng ở Đồng Hỷ cũng đã xây dựng cho mình một nền văn hoá
truyền thống kết hợp với nền văn hoá của các nền văn hoá anh em trong vùng,
để tạo nên một nét văn hoá độc đáo, đa dạng.
Trên cơ sở lý luận thực tiễn đó, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
luôn là vấn đề trọng tâm trong đường lối của Đảng ta. Năm 1991, trong
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”,
Đảng ta xác định: Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hoá, ngôn ngữ, tập quán
tín ngưỡng của các dân tộc, đồng thời kế thừa và phát huy các giá trị tinh
thần, đạo đức, thẩm mĩ, các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc. Chủ
trương đó tiếp tục khẳng định rõ hơn trong nghị quyết Trung ương Đảng lần
thứ 5 khoá VIII (1998) của Đảng: “Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết
cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc, cơ sở để tạo ra
những giá trị văn hoá truyền thống (bác học và dân gian), văn hoá cách
mạng, bao gồm cả văn hoá vật thể và phi vật thể" [12, tr.01].
Để góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình tìm hiểu văn hoá các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam, chúng tôi quyết định chọn: “Phong tục và tín ngưỡng,
tôn giáo của người Nùng ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên” làm đề tài
luận văn, với hai nội dung chủ yếu là các phong tục, tín ngưỡng và tôn giáo
trong đời sống của người Nùng ở huyện Đồng Hỷ.
Với mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc trong văn hoá
truyền thống của người Nùng, ở huyện Đồng Hỷ hoà chung vào nền văn hoá
Việt Nam “Tiến tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc” là mục đích mà luận
văn này muốn đạt được.
Bản thân tôi là người dân tộc kinh, và hiện đang là giáo viên giảng dạy

môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông Đồng Hỷ, là một huyện miền núi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
nơi có nhiều con em dân tộc Nùng, đó cũng là một lý do khiến tôi lựa chọn đề
tài này để giảng dạy tốt hơn phần lịch sử Văn hoá, lịch sử địa phương nhằm
qóp phần giáo dục, bồi đắp cho các thế hệ học sinh lòng tự hào, tình yêu đối
với dân tộc, quê hương, đất nước. Ngoài ra tôi đã lập gia đình trong dòng họ
Nùng, vì vậy tôi cũng muốn lựa chọn đề tài cũng để hiểu thêm về phong tục
tập quán của gia đình chồng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của người Nùng đã được đề
cập đến trong một số công trình, mỗi công trình nghiên cứu có thể đề cập toàn
diện văn hoá của người Nùng, có những công trình chỉ đề cập đến một lĩnh
vực trong văn hoá. Đối với vấn đề phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của
người Nùng ở huyện Đồng Hỷ cũng có một số công trình đề cập tới nhưng ở
mức độ khác nhau, như một số công trình sau đây:
- Cuốn “Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt -
Nam” NXB Khoa học xã hội. Hà Nội 1968.
- Cuốn “Dân ca đám cưới Tày - Nùng” của Nông Minh Châu, NXB Việt
Bắc xuất bản năm 1973.
- Cuốn “Các dân tộc ít người ở Việt Nam” NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội - 1978
- Cuốn “Sli, lượn dân ca trữ tình Tày, Nùng” của Vi Hồng, NXB Văn
hoá ấn hành năm 1979.
- Cuốn “ Văn hoá Tày - Nùng” của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư, NXB Văn
hoá, xuất bản năm 1984. Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện và đầy
đủ về xã hội, con người, văn hoá của hai dân tộc Tày - Nùng.
- Cuốn “ Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam” do Viện dân tộc học xuất

bản năm 1992. Đây cũng là một công trình nghiên cứu có tính chất toàn diện
về điều kiện tự nhiên, dân cư Tày, Nùng, lịch sử hình thành tộc người, các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
hình thái kinh tế, hình thái văn hoá vật chất, tổ chức xã hội - gia đình, hôn
nhân, các tục lệ như: cưới xin, sinh đẻ, ma chay, làm nhà mới và tôn giáo tín
ngưỡng. Dân tộc Nùng ở Thái Nguyên nói chung và huyện Đồng Hỷ nói riêng
cũng được tác giả đề cập đến mặc dù không nhiều.
- Cuốn “Văn hoá truyền thống Tày - Nùng” của các tác giả Hoàng Quyết,
Ma Khách Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược, Vương Toàn, NXB
Văn hoá dân tộc xuất bản năm 1993.
- Đề tài cấp bộ năm 2004 “Văn hoá dân tộc Nùng ở Cao Bằng” của tác
giả Đàm Thị Uyên.
- Đề tài cấp bộ năm 2004 “Tang ma của dân tộc Nùng ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Thị Ngân, đã trình bày tương đối kỹ về phong tục tang ma đặc
trưng của người Nùng ở Việt Nam.
Từ năm 1997 đến năm 2006 Huyện uỷ Đồng Hỷ lần lượt biên soạn và
cho xuất bản cuốn:
- Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Hỷ (1930 - 1995)
- Huyện Đồng Hỷ lịch sử kháng chiến chống xâm lược và xây dựng -
bảo vệ tổ quốc (1945 - 2000).
- Nguyễn Anh Tuấn (2003), Tang ma người Nùng Phàn Slình ở xã Tân
Long, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn cử nhân chuyên ngành
dân tộc học, Đại học khoa học xã hội nhân văn, Hà Nội.
- Phan Đình Thuận (2006), Tìm hiểu tôn giáo - tín ngưỡng của người
Nùng ở xã Tân Long, Huyện Đồng Hỷ, Đề tài nghiên cứu khoa học chuyên
ngành Lịch sử, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đều quan tâm đến, đời sống văn

hoá tinh thần, vật chất, những phong tục tập quán của hai dân tộc là Tày và
Nùng trên phương diện rộng (phạm vi cả nước) và cả phương diện hẹp (phạm
vi một tỉnh). Tuy nhiên trong nét văn hoá chung đó, lại có sự giao thoa, mỗi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
một vùng có nhưng nét đặc sắc riêng để phù hợp với vị trí địa lý và văn hoá ở
khu vực đó. Tất cả những công trình nghiên cứu trên tạo cơ sở nền móng để
chúng tôi khai thác một đề tài ở phạm vi hẹp, làm rõ hơn đời sống văn hoá
của dân tộc Nùng ở huyện Đồng Hỷ.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu phong tục và tôn giáo, tín ngưỡng của người Nùng ở
huyện Đồng Hỷ, nhằm hệ thống lại một số tập tục, tín ngưỡng dân gian của cư
dân nông nghiệp ở huyện Đồng Hỷ.
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là một số tục lệ trong đời sống và tín ngưỡng tôn
giáo của người Nùng ở huyện Đồng Hỷ
- Phạm vi nghiên cứu
Nói đến những tín ngưỡng và tập tục trong đời sống, là chúng ta đề cập
đến lĩnh vực văn hoá tinh thần, do vậy phạm vi khá rộng, song do khả năng có
hạn, đề tài luận văn chỉ đi sâu vào một số phong tục trong chu kỳ đời người
và tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào Nùng ở huyện Đồng Hỷ, nhằm làm rõ
những đặc trưng văn hoá mang tính địa phương.
4. Nguồn tƣ liệu
- Nguồn tư liệu thành văn:
+ Các tác phẩm, các công trình nghiên cứu lí luận về văn hoá dân tộc: Về
các giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam của Trường Chinh; Nghị quyết hội
nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá VIII); Văn hoá một số lí luận của

Trương Lưu; Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt
Nam do Ban tư tưởng - Văn hoá Trung ương xuất bản v.v

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
+ Các tác phẩm thông sử và chuyên khảo, như Lịch triều hiến chương
loại chí của Phan Huy Chú … Các sách chuyên khảo và các bài viết đề cập đến
lịch sử, văn hoá Tày, Nùng của các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
+ Nguồn tư liệu địa phương: Lich sử Đảng bộ huyện Đồng Hỷ, địa lý
huyện Đồng Hỷ…
- Nguồn tư liệu thực địa, điền dã
Đây là loại tư liệu được chúng tôi đặc biệt quan tâm, bao gồm các tài liệu
truyền miệng, truyện kể, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ địa phương, những
phong tục, tập quán, và cả những kinh nghiệm trong cuộc sống và trong lao
động sản xuất của đồng bào. Nhưng nguồn tư liệu này là những tư liệu cần
thiết để chúng tôi hoàn thành luận văn này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã vận dụng phương pháp lịch sử kết
hợp với phương pháp lôgíc, phương pháp khảo sát điền dã, miêu thuật, phân
tích, tổng hợp và một số phương pháp khác có liên quan đến đề tài. Đặc biệt
là khâu giám định tư liệu, xử lý các tài liệu điền dã đã thu thập được trên cơ
sở tiếp cận địa lý lịch sử để đảm bảo tính chính xác.
Trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu đề tài này, chúng tôi đặt nó trong
mối quan hệ với các dân tộc khác trong cộng đồng dân cư địa phương để rút
ra được cái nhìn tổng thể, toàn diện về đặc điểm “đa dạng trong thống nhất”
của văn hoá truyền thống người Nùng.
6. Đóng góp của luận văn
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về
các phong tục trong đời sống và tín ngưỡng tôn giáo của người Nùng ở huyện

Đồng Hỷ, từ đó thấy được nét tương đồng trong văn hoá của dân tộc Nùng ở
huyện Đồng Hỷ với các huyện khác trong tỉnh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
- Thông qua đề tài này chúng tôi cũng muốn góp một phần công sức nhỏ
bé trong công tác bảo tồn và phát triển những giá trị văn hoá truyền thống của
người Nùng ở huyện Đồng Hỷ. Đồng thời làm phong phú hơn nguồn tư liệu
về nhưng nét văn hoá của người Nùng ở huyện Đồng Hỷ.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm 108 trang, ngoài phần mở đầu (7 trang), phần kết luận
(4 trang), tài liệu tham khảo (7 trang), phần nội dung (87 trang), được chia
thành 3 chương:
Chương 1: Điều kiện địa lý tự nhiên và nguồn gốc của người Nùng ở
huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên.
Chương 2: Phong tục người Nùng ở huyện Đồng Hỷ.
Chương 3: Tín ngưỡng, tôn giáo của người Nùng ở Đồng Hỷ.
Trong luận văn còn có các mục: phần phụ lục, phụ lục viết cùng với Lời
cảm ơn, tranh ảnh, bản đồ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
CHƢƠNG 1
ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ NGUỒN GỐC
CỦA NGƢỜI NÙNG, HUYỆN ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN

1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý

Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, vào đời Lê Hồng Đức, huyện
Đồng Hỷ nằm trong phủ Phú Bình thuộc xứ Thái Nguyên, do phiên thần họ
Ma nối đời cai trị. Đời Nguyễn Gia Long vẫn giữ nguyên như thế. Lỵ sở đặt
tại xã Nhẫm Quang. Đến năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), triều Nguyễn định
ra chế độ lưu quan, lỵ sở chuyển về xã Huống Thượng. Vào thời điểm ấy,
huyện Đồng Hỷ gồm 9 tổng, 33 xã; từ đông sang tây cách nhau 41 dặm, nam-
bắc cách nhau 97 dặm; phía đông đến tận địa giới huyện Tư Nông (nay là
huyện Phú Bình), phía tây đến địa giới huyện Phú Lương, phía nam đến địa
giới huyện Phổ Yên, phía bắc đến địa giới huyện Võ Nhai.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, phạm vi địa giới huyện Đồng Hỷ đã nhiều
lần thay đổi. Cho đến trước năm 1962, Đồng Hỷ bao gồm 29 xã (trong đó có
xã Hợp Tiến của huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang). Từ năm 1985, huyện Đồng
Hỷ bao gồm 17 xã, 3 thị trấn (Chùa Hang, Trại Cau, Sông Cầu). Ngày nay,
Đồng Hỷ nằm dọc hai bên bờ sông Cầu. Phía đông bắc và phía bắc giáp
huyện Võ Nhai và tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp huyện Phú Bình, phía đông
giáp tỉnh Bắc Giang, phía tây giáp huyện Phú Lương và thành phố
Thái Nguyên.
Đồng Hỷ có 20 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 17 xã và 3 thị
trấn (Chùa Hang, Trại Cau, Sông Cầu), trong đó có 2 xã thuộc vùng III (vùng
cao) là Tân Long và Văn Lăng, 2 xã vùng đặc biệt khó khăn là Hợp Tiến và
Cây Thị, 4 xã và một thị trấn thuộc vùng I (trung du) là thị trấn Chùa Hang,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
các xã Đồng Bẩm, Cao Ngạn, Huống Thượng, 12 xã, thị trấn còn lại thuộc
vùng II (miền núi).
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Đất đai: Đồng Hỷ là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, có diện tích
tự nhiên 46.177ha. Địa hình huyện Đồng Hỷ có độ dốc thoai thoải từ đông

bắc xuống tây nam. Phía bắc và đông bắc huyện thuộc dãy đá vôi Bắc Sơn
hùng vĩ. Ở các xã Văn Lăng, Tân Long, Hoà Bình, Quang Sơn và kéo dài
xuống đến phía Nam huyện có những khối núi đá vôi đồ sộ, bề thế, có đỉnh
cao tới 600 mét, như núi Lũng Phương (Văn Lăng), Mỏ Ba (Tân Long). Các
xã phía Bắc và Đông Bắc của huyện thuộc vùng núi cao, độ cao trung bình là
120 mét so với mặt nước biển, nhiều khe suối tuy giao thông đi lại khó khăn
nhưng có thế mạnh phát triển thuỷ điện, lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia súc.
Tiếp dãy núi đá lớn là vùng là vùng núi thấp nhiều đồi hình bát úp, độ cao từ
50 đến 60 mét, có khả năng phát triển cây công nghiệp (chè, mía, lạc…). Các
xã nằm phía hạ lưu sông Cầu (Cao Ngạn, Đồng Bẩm, Huống Thượng) độ cao
trung bình 20 mét so với mặt nước biển, có những cánh đồng bằng phẳng
thuận lợi cho việc phát triển lúa nước và cây thực phẩm (rau xanh, đậu, đỗ…).
Đồng Hỷ hiện có 26.448 ha rừng, trong đó diện tích rừng trồng là 7.146
ha, chiếm trên 51% diện tích đất tự nhiên. Phần lớn diện tích rừng của Đồng
Hỷ nằm ở độ cao dưới 200 mét, ít gỗ quý, trừ phía bắc huyện (các xã Văn
Lăng, Tân Long) còn một số rừng nguyên sinh trên núi đá vôi, trong đó có
nhiều gỗ trai, nghiến… Rừng là một thế mạnh của huyện Đồng Hỷ.
Khí hậu: Đồng Hỷ nằm ở vùng bắc chí tuyến, trong vành đai nhiệt đới
bắc bán cầu, nên khí hậu ở đây mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa.
Mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau, ít mưa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Nhiệt độ trung bình là 22
0
C, nhiệt độ cao nhất trung bình hàng năm là
27,2
0

C, nhiệt độ thấp nhất trung bình là 20,2
0
C, Tháng 7 là tháng có nhiệt độ
trung bình cao nhất, tháng 1 là tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất, số giờ
nắng trong năm là 1,628 giờ.
Mưa ở Đồng Hỷ tập trung từ tháng 4 đến tháng 10, chiếm 90,6% một
năm, lượng mưa trung bình từ 1800mm - 2000mm, tháng 7 có lượng mưa lớn
nhất, từ 401mm đến 420mm. Trái lại tháng 12 và tháng 1 có lượng mưa thấp
nhất, khoảng 24 - 25mm.
Mỗi năm ở Đồng Hỷ trung bình có khoảng 21 đến 22 đợt gió mùa đông
bắc tràn qua (trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 5 năm sau). Mỗi lần
gió mùa đông bắc tràn về thường làm cho nhiệt độ hạ xuống đột ngột, rất hại
cho sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng….
Nhìn chung khí hậu Đồng Hỷ tương đối ôn hoà, hầu như không có hoặc
ít giông bão, thuận lợi cho sản xuất (cả nông nghiệp lẫn công nghiệp) và hoạt
động của lực lượng vũ trang trong huấn luyện cũng như trong chiến đấu.
Sông ngòi: Sông Cầu chảy theo hướng Bắc - Nam là biên giới phía tây
của huyện với độ dài 47km, là nguồn cấp nước chính, có tiềm năng khai thác
vận tải thuỷ. Suối Khe Mo phát nguồn từ Võ Nhai chảy qua các xã Văn Hán,
Khe Mo, Hoá Thượng, Linh Sơn đổ ra Sông Cầu, dài 28km. Suối Thác Giạc,
suối Ngàn Me và hàng trăm con suối nhỏ khác cùng với hàng chục hồ chứa
nước lớn, nhỏ phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Theo đánh giá
của các nhà khoa học địa chất, mạch nước ngầm của Đồng Hỷ có chữ lượng
lớn đủ cung cấp cho năm, bẩy trăm ngàn dân.
Giao thông: Là một huyện miền núi với tổng chiều dài đường bộ của
huyện là 729,8km, trong đó có quốc lộ 1B qua địa bàn huyện dài 15,5km,
đường liên tỉnh 27km, đường liên huyện dài 57,5km, đường liên xã 171km,
đường liên xóm 404km.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16
Mật độ đường giao thông của toàn huyện bình quân đạt 13,4km, ô tô vận
tải cỡ lớn có thể đến được trung tâm tất cả các xã trong huyện. Đây là điều
kiện thuận lợi để lực lượng vũ trang cơ động tác chiến trên địa bàn huyện.
Với vị trí địa lý, và đặc điểm tự nhiên như vậy đã tạo cho Đồng Hỷ có
nhưng nét riêng biệt, nó cũng làm ảnh hưởng chi phối đến đời sống văn hoá
tinh thần, vật chất của người Nùng ở huyện Đồng Hỷ.
1.2. Nguồn gốc của tộc ngƣời Nùng
1.2.1. Đôi nét lịch sử nguồn gốc tộc người Nùng
Dân tộc Nùng ở Việt Nam nói ngôn ngữ Tày - Thái. Người Nùng có
nhiều nhóm địa phương, nhưng tộc danh Nùng là tên gọi thống nhất của đồng
bào. Ở mỗi địa phương, đồng bào Nùng đều ý thức rất rõ nhóm tộc người của
mình: Nùng Phàn Slình, Nùng An, Nùng Nùng Cháo, Nùng Giang, Nùng Lòi,
Nùng Inh, Nùng Dín…
Từ trước đến nay, có nhiều học giả trong nước và nước ngoài đưa ra một
số nhận định về nguồn gốc lịch sử của dân tộc Nùng như:
Lê Quý Đôn trong “Kiến Văn tiểu lục” đã ghi chép về sự có mặt của
người Nùng ở Tuyên Quang từ thế kỷ XVIII: “Giống người Nùng đều là
người 12 thổ châu ở Tiểu Trấn Yên, Quy thuận, Long Châu, Điền Châu, Phù
Châu, Thái Bình, Lôi Tử Thành và Hướng Vũ thuộc Trung Quốc làm nghề
cày cấy, trồng trọt cũng chịu thuế khoá, lao dịch, mặc áo vằn vải xanh, cắt
tóc, trồng răng, có người trú ngự đã đến vài ba đời, đổi theo tập tục người
Nam, quan bản thổ thường cấp cho một số ruộng làm khẩu phần, bắt họ chịu
binh xuất. Các sứ Lạng Sơn, Cao Bằng và Thái Nguyên đều có giống người
này" [25], [44].
Học giả Từ Trung Thạch khi bàn về nguồn gốc người Choang đã viết;
“xét người Choang từ thời Chu về trước đã lan tràn khắp các tỉnh miền Tây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
Nam. Đại bản doanh của họ là các đất Lũng Nam, Thiểm Tây, Tứ Xuyên cùng
miền Bắc đất Điền, đất Kiềm” [60].
Đương thời họ là du mục hoặc bán lạp du mục (ý chỉ canh tác nương
rẫy), trong miền Lương Việt, tức là các dân tộc về sau gọi là: "…Ô Hử, Lái
Lạo, Âu Lạc, Bách Việt. Ở miền Nam Vân Nam, người Choang đến rất sớm,
trước khi vua Ngưu khai thác đất Nam Giao, chẳng qua đương thời không gọi
tên là tên gọi Choang thôi… ” [60]
Khác với học giả Từ Tùng Thạch, theo ông Hoàng Thiện Phan: người
Nùng không chỉ có ở Việt Nam, mà còn có một bộ phận bên kia thế giới.
Người Tày và người Nùng gần gũi nhau, có một số điểm khác biệt, do người
Tày gần gũi với người Việt, còn người Nùng gần gũi với người Choang hơn.
Nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn trong tạp chí nghiên cứu Lịch sử,
năm 1968 đã nêu ý kiến: Tây Âu là tổ tiên của người Tày - Thái, Lạc Việt là
tổ tiên của người Việt. Liên minh bộ lạc Âu Việt (Tày - Nùng) đã cùng với
liên minh bộ lạc Việt (Việt, Mường) thành lập vương quốc Âu Lạc thế kỷ thứ III
với thủ lĩnh là An Dương Vương - Thái, cư trú ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ [78].
Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn trong cuốn “Sơ lược giới thiệu các
nhóm dân tộc Tày - Nùng - Thái ở Việt Nam” cho rằng: Nguồn gốc người
Nùng thuộc nhóm Tày - Thái miền đông với địa bàn cư trú chủ yếu là vùng
Lưỡng Quảng thuộc Trung Quốc và đông bắc Việt Nam. Người Nùng có
nhiều mối quan hệ về lịch sử văn hoá với người Choang ở Trung Quốc. Tộc
danh Nùng theo hai ông bắt nguồn từ tên gọi của một trong bốn dòng họ lớn:
Nùng, Hoàng, Chu, Vi thống trị ở hai bờ Tả Hữu Giang, tức các miền biên
giới Cao Bằng và Quảng Tây ngày nay [36].
Lã Văn Lô và Hà Văn Thư trong công trình văn hoá Tày - Nùng đã
thống kê vai trò và hoạt động của người Tày, Nùng trong tiến trình lịch sử
Việt Nam. Theo đó từ những năm 40 đầu Công nguyên, các tộc người Tày,


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Nùng đã tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Thế kỷ thứ VI, Lý Bôn khởi
nghĩa lật đổ ách thống trị của Lương, lập lên nước Vạn Xuân, thế kỷ thứ VIII,
Phùng Hưng khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Đường, đều được người
Lạo giúp đỡ giành thắng lợi; đến thế kỷ XI, lý Thường Kiệt đã huy động tới
5000 quân Tày, Nùng ở vùng Cao Lạng làm nhiệm vụ xung kích, vượt biên
giới đốt phá các nơi tập trung quân của địch ở phía sau; Thế kỷ XIII, trong
cuộc kháng chiến chống Tống, dân binh Tày, Nùng ở Chi Lăng do Nguyễn
Thế Lộc chỉ huy đã đánh tan đội quân Việt gian của Trần Kiện ở đèo Sài Hồ;
thế kỷ XV, trong 10 năm kháng chiến chống Minh, dưới sự chỉ huy của các
thủ lĩnh Tày, Nùng; Nông Văn Lịch, Hồng Thiêm Hữu, Chu Sư Nhan, Hoàng
Am…, nhân dân Tày, Nùng ở Việt Bắc đã nổi dậy chống ngoại xâm [40].
Như vậy, bộ phận người Nùng ở Việt Nam lúc đó (có mặt hàng ngàn
năm như Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn đề cập) với người Nùng ở Trung
Quốc là một. Trung Quốc vẫn gọi là người Nùng. Ở Việt Nam bộ phận người
Nùng này trong quá trình phát triển lịch sử đã hoà nhập vào tộc người Tày và
trở thành người Tày.
Nhiều tài liệu thư tịch và tộc phả dòng họ cho biết rằng: tộc người Nùng
có mặt ở Việt Nam hiện nay di cư từ Trung Quốc vào Việt Nam cách đây
khoảng 300 - 400 năm.
Họ di cư sang Việt Nam theo từng nhóm, có nhiều nguyên nhân, nhưng
chủ yếu là do bị áp bức bóc lột nặng nề, bị đàn áp sau các cuộc khởi nghĩa
nông dân không thành công, nạn thiếu đất, thổ phỉ, trộm cướp hoành hành.
Đến Việt Nam, nhiều nhóm Nùng phân cư xen kẽ với người Tày hoặc cư
trú lân cận với các dân tộc Kinh, Hoa, Giáy.
Dân tộc Nùng ở Việt Nam có nhiều nhóm địa phương khác nhau, tên gọi
của các nhóm Nùng thường được phân biệt theo bốn tiêu chí, đó là:


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
- Gọi theo tên nghề nghiệp mà không biết quê hương cũ của mình như
Nùng Nấm (Người Nùng làm ruộng nước, Nùng sủi mọt (người trồng mía)…)
- Gọi theo tên địa phương khi di cư vào Việt Nam. Theo Cao Bằng Tạp
chí có tới 13 ngành Nùng khác nhau như: Nùng Nấm (bản xứ), Nùng An đến
từ Châu An kiệt, Nùng Inh đến từ Long Anh, Nùng Lòi đến từ Hạ Lôi, Nùng
Chu đến từ Hà Đông, Nùng phàn Slình đến từ Vạn Thành, Nùng Hàn Xích
đến từ La Hồi, Nùng Khèn Lài đến từ An Bình, Nùng Sẻng đến từ Dưỡng
Lợi, Nùng Gửi đến từ Trấn An, Nùng Vảng (bản xứ), Nùng Gianh Viện đến
từ Quy Thuận, Nùng Si Kết đến từ Tứ Kết.
- Gọi theo tên tù trưởng của mình: Nùng Dín (tên tộc trưởng Nùng A
Dín) hoặc cả tên một dòng họ lớn như: Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao.
Gọi theo đặc điểm trên trang phục, chẳng hạn như: Nùng Khen Lài, có
ống tay áo trang trí bằng vải khác màu, Nùng Hu Lài đội khăn Tràm có đốm
trắng, Nùng Slửa tẩn mặc áo ngắn chấm hông, hoà vào nhau hay chuyển hoá
từng bộ phận do quá trình cộng cư lâu đời. Một số nhóm khác như Nùng Hùa
Lài, Nùng Khèn Lài, Nùng Cúm Cọt (Nùng Giang) thực chất đều thuộc nhóm
Nùng Phàn Slình.
1.2.2. Người Nùng ở huyện Đồng Hỷ
Theo kết quả điều tra dân số năm 1999 của tổng cục thống kê, dân tộc
Nùng có 856.412 người, đứng hàng thứ bảy trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam, sau các dân tộc: Kinh, Tày, Thái, Hoa, Khơ me, Mường.
Dân tộc Nùng cư trú ở hầu khắp các địa phương trong cả nước, nhưng
tập trung chủ yếu ở các tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, ĐăkLăk, Bắc Giang, Hà
Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Lào Cai, Lâm Đồng, Bình Phước, Đồng Nai,
Yên Bái, Tuyên Quang.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du phía bắc có số lượng người Nùng sinh
sống đứng hàng thứ sáu với diện tích 3.541km, có 1.046.159 người, bao gồm


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
các dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay, Dao, Hmông, Hoa...Trong
đó có 54.628 người Nùng, chiếm 5,2% dân số toàn tỉnh. Đồng bào sống tập
trung theo các nhóm địa phương, ở các huyện Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ
cộng cư cùng các dân tộc anh em như: Tày, Kinh, Sán Dìu và Sán Chay.
Đồng Hỷ là một huyện nằm ở phía đông bắc của tỉnh. Cộng đồng dân cư
ở Đồng Hỷ hiện nay do dân cư từ nhiều địa phương thiên di đến cùng với bộ
phận dân bản địa hợp thành. Dân số huyện Đồng Hỷ, tính đến tháng 12 năm
2005 là 123.196 người, trong đó dân tộc Kinh chiếm 63,3%, Nùng chiếm
13,2%, Dao 4,4%, Tày 2.5%.
Người Nùng ở huyện Đồng Hỷ phần lớn có nguồn gốc di cư từ Lạng Sơn
xuống chủ yếu là nhóm người Nùng Phàn Slình, Nùng Inh, Nùng Cháo ở Tân
Long, Hoá Trung, Minh Lập, Linh Sơn, Thị trấn Trại Cau, Cây Thị, Hợp
Tiến, Khe Mo, Văn Lăng, Văn Hán...
Trong đó, một số xã như Tân Long, Hoá Trung, người Nùng chiếm tỷ lệ
đa số. Nếu như Tân Long có hai nhóm cơ bản đó là Nùng Phàn Slình và Nùng
Cháo (Nùng Phàn Slình chiếm đại đa số), Hoá Trung có hai nhóm cơ bản là
Nùng Phàn Slình và Nùng Inh (Nùng Inh chiếm đại đa số).
Nhóm Nùng Cháo là một bộ phận rất gần gũi với người Tày, tiếng nói
phổ thông cao, các dân tộc khác dễ nghe. Trong quan hệ xã hội, hôn nhân nội
tộc là chính, nhưng hôn nhân với người Tày vẫn có, không có hàng rào ngăn cản.
Nhóm Nùng Phàn Slình, tiếng nói và sinh hoạt tương đối dễ hiểu, gần gũi.
Một số tộc người Nùng khác, tính chất tộc người sâu sắc, tiếng nói
không phổ thông, nghe khó như người Nùng Dín, Nùng Lòi...
Trong cộng đồng dân tộc Nùng ở Việt Nam, thì Lạng Sơn là một tỉnh
biên giới có số người Nùng cư trú đông nhất trong toàn quốc, với 302.415
người Nùng sinh sống, chiếm 35,5% dân số Nùng trong cả nước, 43% dân số


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
trong toàn tỉnh. Tại đây người Nùng cư trú tập trung thành từng bản hoặc đan
xen giữa các dân tộc Tày, Dao.
Sự phân bố dân cư tự nhiên theo hình thức cộng cư và đan xen với các
dân tộc láng giềng, đã làm cho một bộ phận không nhỏ dân tộc Nùng chịu sự
tác động của giao thoa văn hoá mạnh mẽ, thậm chí bị đồng hoá bởi các dân
tộc khác trong vùng, một bộ phận thì di cư theo nhiều hình thức khác nhau,
hôn nhân với hình thức ở rể, do điều kiện kinh tế trong thời kỳ đó còn rất khó
khăn, nhiều gia đình không đủ điều kiện kinh tế để cưới vợ cho con trai mình,
bởi các lễ bắt buộc, do đó họ đã cho con mình đi ở rể ở nơi xa, hình thức này
diễn ra tuy không nhiều nhưng cũng đã góp phần đưa một số nhóm người
Nùng đến những vùng đất khác nhau và dần dần hình thành những nhóm
người Nùng sống đan xen với các dân tộc khác trong huyện Đồng Hỷ như ;
Văn Hán, Trại Cau, Hoá Trung... Một bộ phận còn lại chiếm số đông đó là di
cư tự phát, chạy loạn trong chiến tranh, hình thức này di cư chiếm số lượng
đông có thể từ vài gia đình thậm chí đến hàng chục gia đình, họ chọn giải
pháp di cư một mặt để nâng cao chất lượng cuộc sống, nhằm tìm lấy một
vùng đất để họ có thể định cư lâu dài, trong đó có Thái Nguyên. Với vị trí địa
lý thuận lợi, tiếp giáp với Lạng Sơn, ngay trong nhưng năm 1938 - 1958 đã
diễn ra quá trình di cư, nhưng ồ ạt nhất là năm 1950 [84], [92]. Chủ yếu là
Nùng Phàn Slình và Nùng Cháo ở huyện Cao Lộc, Văn Quan, nhóm Nùng
Inh ở huyện Chi Lăng, huyện Bình Gia.
Khi di cư đến đây đồng bào Nùng ở Lạng Sơn với những khu vực khác
nhau trong tỉnh đã mang theo nét văn hoá đặc trưng của mình.
Tiểu kết; Với những yếu tố về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đã tạo
cho Đồng Hỷ có những thuận lợi nhất định, chính những yếu tố này đã tác
động và chi phối không nhỏ đến đời sống văn hoá, kinh tế của đồng bào Nùng

ở Đồng Hỷ, trên cơ sở tìm hiểu lịch sử tộc người Nùng, chúng ta có thể nhận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
ra rằng đồng bào Nùng cho dù định cư ở địa phương nào cũng mang những
nét văn hoá đặc trưng của tộc người mình, tuy nhiên khi định cư ở đâu đồng
bào Nùng cũng đều hoà nhập nền văn hoá của tộc người mình vào nền văn
hoá chung của dân tộc, nhưng sự hoà nhập ở đây không phải là hoà tan mà là
trên cơ sở nét văn hoá đặc trưng của mình, họ có sự điều chỉnh cho hợp với
hoàn cảnh và môi trường sống của mình. Đó chính là nét văn hoá hoà nhập
nhưng không hoà tan của đồng bào Nùng ở huyện Đồng Hỷ.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
CHƢƠNG 2
PHONG TỤC NGƢỜI NÙNG Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ

Phong tục là những đặc điểm hành vi của một cộng đồng dân cư, những
tập quán phổ biến, có tính ổn định, độc đáo, đậm nét, tồn tại trong những điều
kiện lịch sử của một hình thái xã hội, tiêu biểu nhân cách, đạo đức, lối sống
của một cộng đồng, giai cấp dân tộc. Trong kế thừa di sản văn hoá truyền
thống chúng ta tiếp nhận các thuần phong mỹ tục, loại bỏ những gì lỗi thời,
lạc hậu. Phong tục đối với một tộc người thường có hai nội dung (hai loại
hình) cơ bản; một là “phong tục gia tộc”, hai là phong tục liên quan tới sinh
hoạt xã hội của một tộc người mà Phan Kế Bính gọi là “phong tục hương

đảng”. Tuy nhiên để đi sâu vào từng nội dung thì quá rộng, ở đây xin đề cập
tới một số tục quan trọng nằm trong hai nội dung cơ bản của phong tục : hôn
nhân, sinh đẻ, làm nhà mới, sinh nhật và ma chay.
2.1. Hôn nhân
Trong quan hệ hôn nhân, người Nùng thể hiện khá đậm nét những đặc
trưng truyền thống của dân tộc, của các sắc thái của từng vùng và cả những
chi phối của tôn ti trật tự phong kiến. Ngoài việc chủ động đến với nhau ở
mức độ nào đó, thì những nam nữ người Nùng còn bị chi phối bởi một số vấn
đề như: Sự đồng tình của hai bên cha mẹ, Quan niệm mê tín dị đoan “lá số ”
(lục mệnh) có hợp nhau không? Sự muôn đăng hộ đối của dòng họ.
Đặc biệt, không có chuyện hôn nhân giữa các thành viên trong dòng họ,
nếu xảy ra thì những thành viên đó sẽ bị tội nặng và phải làm lễ tạ tội trước
bàn thờ tổ tiên. Như cách đây khoảng mấy chục năm có trường hợp:
“Anh em lấy anh em”,“ họ lấy họ” có thể chịu những hình phạt “rặt cò”
(thắt cổ) hoặc bị dân làng chê cười.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
Do vậy trước khi trai gái kết hôn phải ghi rõ tên, tuổi để nhờ thầy Tào
xem số mệnh đồng thời xác định rõ huyết thống hai bên, sau đó mới quyết
định các bước tiếp theo của hôn nhân.
Điều đó có thể cho thấy, nam nữ người Nùng được tự do tìm hiểu thổ lộ
tình cảm với nhau nhưng hôn nhân do cha mẹ quyết định để nhà trai cưới về
làm dâu cho nên sự can thiệp và ép duyên của cha mẹ vào hạnh phúc con gái
chủ yếu xảy ra đối với người con gái.
Chế độ hôn nhân một vợ một chồng là hình thức hôn nhân phổ biến của
người Nùng, vợ chồng chung sống với nhau khá hoà thuận. Hiện tượng ngoại
tình sẽ bị đuổi ra nhà khỏi nhà chồng và phải bồi thường tài sản cho nhà
chồng. Nếu người chồng ngoại tình sẽ phải nộp phạt một con trâu để bồi

thường danh dự cho nhà gái. Trường hợp người vợ không sinh được con trai
để nối dõi thờ cúng tổ tiên, họ cho rằng không có con nối dõi là phạm tội lớn
nhất trong ba tội bất hiếu “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Cho nên nhưng
người không có con trai cần phải lấy vợ lẽ cho chồng. Đây chính là thể hiện
tư tưởng trong nam khinh nữ.
Đối với trường hợp chồng chết, người phụ nữ ở lại chăm sóc bố mẹ
chồng, con cái. Sau ba năm (mãn tang), người phụ nữ có thể đi lấy chồng,
riêng con cái và của cải không được mang theo, nếu trường hợp con quá nhỏ
thì cho mang theo để tiện chăm sóc. Các loại động sản và bất động sản của
người chồng quá cố do anh em bên chồng quản lí cho lên nhiều bà goá thường
và nỡ không xa các con, chịu ở vậy để nuôi các con. Cũng có trường hợp,
người đàn bà goá được sự thoả thuận của nhà chồng, có thể cưới chồng khác
và cho phép chồng mới về để ở hẳn nhà vợ để trông nom con cái, quản lí tài
sản của gia đình. Người chồng phải thay họ mình lấy họ người chồng cũ thì
mới được hưởng gia tài của người chồng cũ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25
Người Nùng có tục ở rể: Đó là rể tạm và rể đời, những trường hợp cưới
rể tạm là gia đình nhà gái neo đơn, thiếu lao động, không có người chăm sóc,
cha mẹ trong khi có con trai nhưng còn nhỏ, chưa lo liệu được công việc gia
đình. Mọi nghi lễ tiến hành trong lần đầu cưới rể tạm đều giống như một đám
cưới bình thường phí tổn của hôn lễ chủ yếu do nhà trai lo liệu. Chàng rể
thường ở nhà vợ cho đến khi các em trai vợ trưởng thành, có thể sống tự lập,
bố mẹ vợ hoặc các em trai vợ sẽ chia một ít tài sản.
Nhưng gia đình hiếm con hoặc chỉ có con gái mà không có con trai
thường lấy rể đời. Cưới rể đời không phải là chuyện phổ biến. Rể đời không
phải cha mẹ bên nhà gái chủ động đi tìm cho con gái mình. Những chàng trai
được chọn và đồng ý.

Đi làm rể đời thường thường là con nhà có nhiều con trai hoặc con nhà
nghèo, khó tìm cưới được vợ. Trong trường hợp này nhà gái chủ động lo liệu
cưới lễ dạm, lễ hỏi, lễ sêu tết, lễ cưới, lễ đón rể đến mọi phí tổn trong cưới xin
đều do nhà gái lo liệu. Con rể được coi như con đẻ, được thừa kế tài sản nhà
vợ nhưng đến đời con phải mang họ nhà vợ. Tuy nhiên, các chàng trai Nùng
không muốn ở rể đời.
2.1.1. Những tiêu chuẩn khi lựa chọn con dâu, con rể
Về lứa tuổi: trai gái dân tộc Nùng trước kia được xây dựng rất sớm thậm
trí còn phổ biến nạn tảo hôn, khi kết hôn tuổi con gái trung bình 14 hoặc 15
tuổi, con trai khoảng 16 hoặc 17 tuổi. Sở dĩ có nạn tảo hôn là do quan niệm
của đồng bào cho rằng: xây dựng gia đình sớm có thuận lợi ở chỗ, ông bà còn
khỏe có khả năng trông nom con cháu, đặc biệt người già có con cháu chăm
sóc, đỡ đần. Với quan niệm đó các bậc cha mẹ đều muốn con cái mình xây
dựng gia đình ở trong lứa tuổi đã được cộng đồng chấp nhận.
Ngày nay, một phần do nhận thức đã tiến bộ hơn, một mặt do luật hôn
nhân của nhà nước, lệ tảo hôn đã hạn chế được rất nhiều. Tuổi trung bình kết

×