Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Mối quan hệ giữa luân chuyển kiểm toán viên và chất lượng kiểm toán – Nghiên cứu tại các công ty niêm yết ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.71 KB, 7 trang )

Số 33 (58) - Tháng 10/2017

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Mối quan hệ giữa ln chuyển kiểm tốn viên
và chất lượng kiểm tốn – Nghiên cứu
tại các cơng ty niêm yết ở Việt Nam
The relationship between auditor rotation and audit quality –
A case study in listed companies in Vietnam
TS. Nguyễn Anh Hiền,
Trường Đại học Sài Gòn
Nguyen Anh Hien, Ph.D.,
Saigon University
Tóm tắt
Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiếm tốn là tính độc lập của kiểm tốn viên
(KTV). Do đó, nhiều quốc gia đã ban hành các qui định về ln chuyển KTV. Tuy nhiên, qui định này
đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà nghiên cứu, quản lý cũng như các hội nghề nghiệp.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy khơng có
mối liên hệ giữa việc ln chuyển KTV và chất lượng kiểm tốn tại các cơng ty niêm yết ở Việt Nam.
Từ khóa: ln chuyển kiểm tốn viên, chất lượng kiểm tốn, cơng ty niêm yết.
Abstract
One of the factors affecting the audit quality is the independence of the auditor. Therefore, many
countries have issued regulations on auditor rotation. However, this regulation has led to many debates
among researchers, managers and professional associations. This study uses quantitative research
methods. The research results show that there is no relationship between the auditor rotation and the
audit quality at listed companies in Vietnam.
Keywords: auditor rotation, Audit quality, listed companies.

nhiều báo cáo tài chính (BCTC) của các
cơng ty niêm yết có sự thay đổi số liệu giữa
trước và sau kiểm tốn trong các năm


2013, 2014 và 2015. Mặc dù đã có sự giải
trình của các cơng ty nhưng nhìn chung
vẫn chưa đáp ứng được u cầu của các
nhà đầu tư. Sự tách biệt giữa chủ sở hữu
(nhà đầu tư) và nhà quản lý trong mơ hình
cơng ty cổ phần một mặt mang lại những

1. Giới thiệu
Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia có
nền tài chính còn khá non trẻ trong khu vực
cũng như trên thế giới. Thị trường chứng
khốn mặc dù đã đi vào hoạt động được
trên 16 năm nhưng tính minh bạch của thị
trường vẫn còn là vấn đề gây nhiều bức
xúc cho nhà đầu tư cũng như các cơ quan
quản lý Nhà nước. Trên thực tế có rất
20


NGUYỄN ANH HIỀN

công ty niêm yết tại Việt Nam nhằm cung
cấp bằng chứng thực nghiệm về vấn đề này
để giúp các cơ quan quản lý Nhà nước có
những chính sách phù hợp với thực tế tại
Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Chất lượng kiểm toán
Có nhiều quan điểm khác nhau về
CLKT. Tuy nhiên, Beatty (1989) thì đứng

dưới góc nhìn của nhà đầu tư cho rằng
CLKT được thể hiện qua sự trung thực của
thông tin tài chính được trình bày trên
BCTC sau khi kiểm toán. Trách nhiệm của
KTV là phải làm giảm thiểu các sai sót và
nâng cao độ trung thực của dữ liệu kế toán.
Quan điểm này quan tâm đến kết quả của
dịch vụ kiểm toán hay nói cách khác đó là
sự trung thực của BCTC. Tác giả cho rằng
BCTC là kết quả tổng hợp của doanh
nghiệp và KTV, công ty KT. Khi thông tin
trên BCTC không trung thực hợp lý thì
chất lượng KT đã không được đảm bảo cho
dù KTV đã hoàn toàn tuân thủ các chuẩn
mực có liên quan. Từ định nghĩa này nhiều
công trình nghiên cứu định lượng về CLKT
đã sử dụng độ tin cậy của các thông tin trên
BCTC làm thước đo CLKT. Do đó, nghiên
cứu này cũng dựa vào quan điểm trên để
đo lường chất lượng KT.
Vì vậy nhằm đảm bảo thông tin BCTC
nói chung và thông tin lợi nhuận nói riêng
đáng tin cậy thì vai trò của KTV là phải
phát hiện và hạn chế tối đa các hành vi điều
chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý trong quá
trình KT của mình. Khi các KTV để cho
các hành vi điều chỉnh lợi nhuận của nhà
quản lý trong BCTC thì thông tin lợi nhuận
có độ tin cậy thấp nên CLKT bị ảnh hưởng.
Như vậy, mức độ điều chỉnh lợi nhuận của

nhà quản lý thể hiện CLKT BCTC.
2.2. Mô hình đo lường CLKT
Trong các mô hình nhận diện hành vi

lợi ích không thể tranh cãi như có thể
chuyển nhượng quyền sở hữu một cách dễ
dàng mà không ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
đồng thời cũng thuê được những nhà quản
lý chuyên nghiệp có thể thực hiện mục tiêu
của doanh nghiệp. Mặt khác, việc tách biệt
này dẫn đến việc xung đột lợi ích giữa chủ
sở hữu và nhà quản lý. Trong khi chủ sở
hữu muốn biết nhiều thông tin liên quan
đến doanh nghiệp thì nhà quản lý lại có xu
hướng hạn chế cung cấp thông tin hoặc
cung cấp thông tin có độ tin cậy thấp. Từ
những vấn đề trên, có thể thấy chất lượng
BCTC của các công ty niêm yết công bố là
vấn đề quan trọng trong việc minh bạch
thông tin trên thị trường chứng khoán của
Việt Nam hiện nay. Điều này cũng cho
thấy vai trò quan trọng của kiểm toán độc
lập trong việc nâng cao chất lượng BCTC
của các công ty niêm yết. Nhà đầu tư trong
khả năng giới hạn về khả năng tiếp cận
thông tin thực tế của doanh nghiệp nên họ
gần như đặt trọn niềm tin vào các công ty
kiểm toán (KT) độc tập. Họ kỳ vọng vào
CLKT BCTC của các công ty KT độc lập

trước khi đưa ra các quyết định đầu tư.
Chất lượng kiểm toán (CLKT) gắn liền
với chất lượng BCTC. Tuy nhiên, có nhiều
nhân tố ảnh hưởng đến CLKT. Một trong
những nhân tố có ảnh hưởng quan trọng
đến CLKT là tính độc lập của KTV. Do đó
để nâng cao tính độc lập của KTV trong
kiểm toán BCTC nhiều quốc gia đã đưa ra
các qui định về luân chuyển KTV định kỳ
nhằm tăng cường tính độc lập, khách quan
trong hoạt động KT độc lập. Tuy nhiên, qui
định này đã dẫn đến rất nhiều cuộc tranh
luận diễn ra giữa các nhà quản lý, nghiên
cứu, cũng như các Hội KTV hành nghề.
Do đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa
thời gian luân chuyển KTV và CLKT ở các
21


MỐI QUAN H GIỮA LUÂN CHUYỂN KIỂM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN…

điều chỉnh lợi nhuận đã công bố ở nước
ngoài, các tác giả đã dựa trên nguyên tắc
cơ sở dồn tích của kế toán để chia lợi
nhuận trong kỳ của doanh nghiệp thành hai
loại là lợi nhuận bằng tiền (cash earnings)
và lợi nhuận dồn tích (accrual earnings).
Trong đó, lợi nhuận bằng tiền hình thành
từ các khoản doanh thu và chi phí bằng tiền
mặt mà doanh nghiệp đã thu và chi trong

kỳ. Riêng lợi nhuận dồn tích là lợi nhuận
được tính trong kỳ của doanh nghiệp
nhưng chưa thu được bằng tiền như các
khoản doanh thu bán chịu cho khách hàng
sau khi đã trừ các khoản chi phí không phải
chi trả bằng tiền; các khoản chi phí phải
trả; chi phí trích trước; các khoản dự phòng
giảm giá tài sản; các khoản khấu hao tài
sản cố định trong kỳ...
Các nhà quản lý thường không thể
thực hiện hành vi điều chỉnh trên các khoản
lợi nhuận bằng tiền. Tuy nhiên, đối với
khoản lợi nhuận dồn tích thì các nhà quản
lý có thể thay đổi khi vận dụng nguyên tắc
cơ sở dồn tích trong kế toán. Trên lý
thuyết, nguyên tắc cơ sở dồn tích nhằm
đảm bảo doanh nghiệp phản ánh đúng
doanh thu, chi phí trong kỳ nhằm bảo đảm
lợi nhuận được phản ánh một cách trung
thực và hợp lý. Trong thực tế, nguyên tắc
này có thể bị lợi dụng để thực hiện hành vi
điều chỉnh lợi nhuận như ghi nhận doanh
thu khi nghiệp vụ bán hàng chưa được thực
hiện đầy đủ hay ghi nhận doanh thu khi
chưa đủ điều kiện ghi nhận theo chuẩn mực
kế toán hoặc sử dụng việc trích lập các
khoản dự phòng, chi phí trả trước nhằm gia
tăng hay giảm bớt chi phí trong kỳ.
Do đó, các nghiên cứu trên thế giới
đều cho rằng hành vi điều chỉnh lợi nhuận

của các công ty xuất phát từ các khoản lợi
nhuận dồn tích hay còn gọi là các khoản
dồn tích trong lợi nhuận (total accrual

earnings viết tắt là TA). TA còn được gọi
tắt là biến kế toán dồn tích. Khoản dồn tích
trong lợi nhuận (TA) được tính bằng cách
lấy tổng lợi nhuận kế toán sau thuế trừ lưu
chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh:
TA = LN sau thuế – dòng tiền thuần
hoạt động kinh doanh
Tuy nhiên, không thể sử dụng biến TA
làm thước đo điều chỉnh lợi nhuận một
cách trực tiếp do trong đó có các khoản
dồn tích phù hợp với tình hình kinh doanh
thực tế của doanh nghiệp như các khoản
doanh thu bán chịu trong kỳ, các khoản dự
phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm
giá hàng tồn kho, các khoản chi phí phải
trả… Do đó, ta cần phải có một mô hình để
tách biến TA ra làm hai phần gồm:
- Các khoản dồn tích không tự định
(Non-discretionary accruals viết tắt là
NDA): là các khoản dồn tích được thực
hiện theo những qui định, nguyên tắc của
chuẩn mực và chế độ kế toán.
- Các khoản dồn tích tự định
(Discretionary accruals viết tắt là DA) hay
còn gọi là các khoản dồn tích bất thường
(abnormal accruals): là các khoản dồn tích

do nhà quản lý thực hiện nhằm mục đích
điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ.
Do đó, biến DA mới chính là thước đo
phù hợp để đánh giá các nhà quản lý có
thao túng thông tin lợi nhuận hay không và
từ đó đánh giá CLKT. Theo lý thuyết thì
khi DA mang giá trị dương thì nhiều khả
năng nhà quản lý thổi phồng lợi nhuận.
Ngược lại, trường hợp DA mang giá trị âm
thì có khả năng nhà quản trị che giấu lợi
nhuận. Như vậy, biến DA cho thấy có sự
điều chỉnh chủ quan từ nhà quản lý đến lợi
nhuận của doanh nghiệp.
Để ước tính giá trị của DA trong TA,
nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã sử
dụng mô hình của nguyên gốc của Jones
22


NGUYỄN ANH HIỀN

ΔREVt / At-1 - a3 PPEt / At-1
Mô hình Jones cải tiến của Dechow,
Sloan and Sweeney (1995)
Hạn chế của mô hình Jones (1991) là
khi chọn REV làm biến nghiên cứu thì có
thể doanh thu thuần cũng cũng bị tác động
thông qua các khoản doanh thu bị ghi nhận
không đúng niên độ và các khoản này có
thể là doanh thu khống của doanh nghiệp.

Do đó, các nhà nghiên cứu sau này đưa
thêm biến tăng giảm khoản phải thu khách
hàng (ΔREC) vào phương trình nhằm loại
bỏ ảnh hưởng của các khoản doanh thu dồn
tích do sự tăng lên của tài khoản phải thu
khách hàng trong kỳ. Qua đó, giá trị doanh
thu thuần tăng thêm phản ánh chính xác
hơn môi trường kinh doanh của doanh
nghiệp trong năm đó. Dechow, Sloan and
Sweeney (1995) đã cải tiến mô hình của
Jones (1991) bằng cách bổ sung thêm sự
thay đổi của tài khoản nợ phải thu vào mô
hình (ΔREC). Mô hình Jones được cải tiến
như sau:
NDAt / At-1 = α / At-1 + β1 (ΔREVt ΔRECt) / At-1 + β2 PPEt / At-1
Trong đó:
ΔRECt là sự thay đổi trong tài khoản
phải thu khách hàng.
Dechow, Sloan and Sweeney (1995)
cho rằng mô hình Jones cải tiến đã phát
hiện ra hành vi điều chỉnh lợi nhuận tốt
hơn so với mô hình nguyên gốc của Jones.
Nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển đã
kết luận rằng mô hình Jones và mô hình
Jones cải tiến đã cho kết quả đáng tin cậy
về biến dồn tích có thể điều chỉnh (Guay,
Kothari and Watts, 1996).
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu
Xuất phát từ mô hình đo lường CLKT

của Dechow, Sloan and Sweeney (1995):
NDAt / At-1 = α / At-1 + β1 (ΔREVt -

(1991) và mô hình Jones cải tiến của
Dechow, Sloan and Sweeney (1995).
Mô hình Jones (1991)
Mô hình được nhiều nhà nghiên cứu
thừa nhận tính hiệu quả trong việc nhận
diện điều chỉnh lợi nhuận ở các nước phát
triển. Theo đó, Jones đã đưa ra mô hình
nhận diện hành vi điều chỉnh thu nhập
thông qua 2 bước:
- Xác định biến kế dồn tích không tự
định (NDA) theo phương trình sau:
NDAt / At-1 = α /At-1 + β1 ΔREVt /At-1
+ β2 PPEt / At-1
Trong đó:
NDAt: Biến kế toán dồn tích không thể
điều chỉnh được năm t
At-1: Tổng tài sản cuối năm t-1
ΔREVt: Biến động doanh thu thuần
năm t
PPEt: Nguyên giá của tài sản cố định
hữu hình năm t
Trong công thức trên tất cả các biến
của phương trình đều chia cho At-1 (tài sản
cuối năm t-1) để giảm thiểu rủi ro do
phương sai không thuần nhất.
α, β1, β2 là những tham số được tính
bằng ước lượng bằng phương pháp bình

phương bá nhất (OLS) của các hệ số a1, a2,
a3 trong mô hình sau:
TAt / At-1 = a0 + a1 1 / At-1 + a2 ΔREVt
/ At-1 + a3 PPEt / At-1 + εt
Phần dư ε trong mô hình trên đại diện
cho biến chưa thể nhận diện được, bao gồm
cả biến dồn tích tự định (DAt)
Sau khi ước lượng biến dồn tích không
tự định (NDA), từ phương trình:
DAt = TAt – NDAt
Ta có:
DAt / At-1 = TAt / At-1 – NDAt / At-1
Từ đó xác định biến kế toán dồn tích
tự định như sau:
DAt / At-1 = TAt / At-1 - a1 1 / At-1 - a2
23


MỐI QUAN H GIỮA LUÂN CHUYỂN KIỂM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN…

ΔRECt ) / At-1 + β2 PPEt / At-1
Từ phương trình trên, ta tính được
DAit/At-1 = TAit/At-1 - NDAit/At-1
Khi tỉ số DAit/At-1 quá cao thể hiện các
khoản DA trong lợi nhuận lớn và CLKT
giảm xuống. Tuy nhiên, trên thực tế giá trị
của DA của từng công ty có thể mang giá
trị âm hoặc dương tùy thuộc vào hành vi
của nhà quản lý trong kỳ muốn thổi phồng
lợi nhuận (DA>0) hay giảm bớt lợi nhuận

(DA<0). Do đó, nghiên cứu này sử dụng
giá trị tuyệt đối của DAit/At-1 làm biến phụ
thuộc trong phương trình hồi quy để đại
diện cho CLKT BCTC. Ký hiệu giá trị
tuyệt đối của DAit/At-1 là |DA|
Ngoài ra, kế thừa các nghiên cứu trước
đây về CLKT, tổng hợp các nhân tố ảnh
hưởng đến CLKT (Chen và cộng sự; Myers
và các cộng sự; Siregar và cộng sự…),
nghiên cứu này sử dụng mô nghiên cứu sau
để xem xét mối quan hệ tuyến tính giữa
CLKT BCTC (được đo lường bằng giá trị
|DA|) và các biến độc lập có liên hệ với
mức độ điều chỉnh lợi nhuận. Cụ thể mô
hình nghiên cứu như sau:
|DA| = α + β1TENURE + β2BIG4 +
β3LEV + β4GROW + β5CFO + β6SIZE + ε
Trong đó:
|DA|: Chất lượng KT (được đo lường
bằng mức độ điều chỉnh lợi nhuận thông
qua các khoản dồn tích)
TENURE: Nhiệm kỳ KTV (được xác
định bằng cách đếm số năm liên tiếp một
KTV thực hiện công việc kiểm toán cho
một công ty)
BIG4: Biến giả (dummy variable) biến
này sẽ mang giá trị bằng 1 nếu công ty
kiểm toán là một trong các Big4, nếu
không phải Big4 thì mang giá trị bằng 0.
LEV: Tỷ lệ nợ của công ty (được xác

định bằng cách lấy tổng nợ phải trả chia
cho tổng tài sản trong kỳ)

GROW: Tốc độ tăng trưởng của công
ty (được xác định bằng cách lấy tổng tài
sản năm t trừ tổng tài sản năm t-1 và chia
lại cho tổng tài sản năm t-1)
CFO: Dòng tiền thuần từ hoạt động
kinh doanh của công ty trong năm
SIZE: Quy mô công ty (được xác định
bằng cách lấy logarit của tổng tài sản
doanh nghiệp)
3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
Với mục tiêu tính toán và ước tính DA
cho từng công ty, nghiên cứu đã thực hiện
việc lấy số liệu kế toán từ BCTC năm và
thu thập thông tin về KTV phụ trách KT
trên BCKT kèm theo của các công ty hiện
đang niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam. Trong nghiên cứu này, để xem
xét mối quan hệ của việc luân chuyển KTV
và CLKT thì cần phải có dữ liệu chuỗi thời
gian tương đối dài. Do đó, mẫu nghiên cứu
là các công ty niêm yết trên các sàn giao
dịch chứng khoán Việt Nam từ 10 năm trở
lên. Theo đó, chỉ có một số công ty niêm
yết trên Sở giao dịch chứng khoáng
TP.HCM (HOSE) mới đáp ứng yêu cầu
này. Ngoại trừ các công ty kinh doanh
trong lãnh vực tài chính, ngân hàng, bảo

hiểm, thống kê cho thấy trên sàn HOSE có
70 công ty niêm yết trên 10 năm. Trong đó,
có 4 công ty dữ liệu không đầy đủ cho 10
năm nên nghiên cứu này sử dụng dữ liệu
của 66 công ty niêm yết trong 10 năm từ
2006 đến 2015 làm mẫu nghiên cứu của đề
tài. Như vậy, số lượng quan sát trong đề tài
là 660 quan sát.
Nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập
các dữ liệu trên BCTC bao gồm số dư các
khoản mục các khoản phải thu khách hàng,
tổng nợ phải trả, giá trị còn lại tài sản cố
định, tổng tài sản trên bảng cân đối kế
toán; khoản mục lợi nhuận trước thuế thu
nhập, doanh thu thuần trong kỳ trên báo
24


NGUYỄN ANH HIỀN

lập thực hiện kiểm toán cho cùng một công
ty. Mỗi chuỗi số liệu sau khi tính toán các
giá trị cần thiết sẽ là một quan sát để chạy
hồi qui trên phần mềm SPSS để tìm mối
tương quan giữa nhiệm kỳ KT và CLKT.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kết quả thống kê thời gian luân
chuyển KTV và CLKT
Để phân tích tương quan giữa biến
TENURE và DA, nghiên cứu tính giá trị

trung bình của DA tương ứng với từng năm
luân chuyển KTV, kết quả được trình bày
trong bảng 1.

cáo kết quả kinh doanh; khoản mục lưu
chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh
từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Trên báo cáo
KT, tên KTV chính thực hiện KT BCTC
năm đó và tên công ty KT sẽ được ghi
nhận lại.
Mỗi chuỗi số liệu sẽ được tính toán
bằng phần mềm Excel để tính tổng lợi
nhuận dồn tích (TA), từ đó tính toán thông
qua mô hình nghiên cứu nói trên để tính
toán các khoản dồn tích tự định (DA).
Nhiệm kỳ kiểm toán (thời gian luân chuyển
KTV) được hiểu là số năm một KTV độc

Bảng 1. Thống kê CLKT và thời gian luân chuyển KTV
Nhiệm kỳ kiểm toán

Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Năm 5

Năm 6

Năm 7

Giá trị trung bình DA

0,2241


0,2437

0,2108

0,1570

0,1514

0,1523

0,5014

352

167

92

24

13

9

3

Số lượng quan sát

Qua bảng 1, ta thấy giá trị trung bình

của DA thấp nhất là ở năm thứ 5 (0,1514)
và cao nhất là ở năm thứ 7 (0,5014). Kết
quả DA trung bình trong từng năm cũng
cho thấy DA ở các năm thứ nhất và năm
thứ 2 cao cho thấy một thực tế là kiểm toán
trong hai năm đầu tạo ra nhiều rủi ro cho
KTV khiến CLKT không được đảm bảo.
Tuy nhiên, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5 giá
trị DA giảm dần qua từng năm, đến năm
thứ 6 thì DA tăng trở lại và đặc biệt tăng
cao ở năm thứ 7. Do đó, CLKT có xu
hướng tăng dần từ năm KT thứ 3 đến năm

thứ 5. Bước sang năm thứ 6 thì CLKT bắt
đầu có xu hướng giảm và giảm mạnh ở
năm thứ 7. Kết quả này cho thấy khi nhiệm
kỳ kiểm toán không vượt quá 5 năm thì giá
trị DA trung bình càng giảm xuống tức là
CLKT tăng lên.
4.2. Kết quả phân tích hồi qui
Để có thể khẳng định việc luân chuyển
KTV có ảnh hưởng đến CLKT không,
nghiên cứu tiếp tục thực hiện hồi qui đa
biến với mô hình nghiên cứu được đề xuất
ở trên. Kết quả hồi qui được trình bày ở
bảng 2.

25



MỐI QUAN H GIỮA LUÂN CHUYỂN KIỂM TOÁN VIÊN VÀ CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN…

Bảng 2. Kết quả hồi qui
Coefficientsa
Model

Unstandardized
Coefficients
B

(Constant)

Std. Error

2,333

,498

BIG4

,047

,050

TENURE

,007

Standardized
Coefficients


t

Sig.

Beta

95,0%
Confidence
Interval for B

Collinearity
Statistics

Lower Upper Tolerance
Bound Bound

VIF

4,687

,000

1,356

3,311

,043

,950


,342

-,050

,145

,706

1,416

,016

,016

,407

,684

-,025

,038

,956

1,046

4,544E-014

,000


,056

1,334

,183

,000

,000

,841

1,190

,161

,041

,152

3,911

,000

,080

,241

,964


1,037

LEV

-,010

,083

-,005

-,124

,901

-,173

,153

,949

1,054

SIZE

-,182

,043

-,201 -4,224


,000

-,267

-,098

,643

1,555

1 CFO
GROW

a. Dependent Variable: DA (Y)

Bảng 3. Kết quả tổng hợp mô hình
Model Summaryb
Mode
l

1

R

,219a

R
Square


Adjusted
R Square

,048

,039

Std. Error
of the
Estimate

Change Statistics
R Square
F
Change Change

,45699679

,048

5,452

df1

df2
6

652

Sig. F

Change
,000

DurbinWatson

1,771

a. Predictors: (Constant), SIZE, TENURE, GROW, LEV, CFO, BIG4
b. Dependent Variable: DA (Y)

Kết quả hồi qui đa biến thể hiện ở
bảng 2 cho thấy biến TENURE không có ý
nghĩa thống kê trong mô hình (giá trị sig
đều lớn hơn 5%). Điều này có nghĩa là với
bộ dữ liệu trong mẫu nghiên cứu không tìm
thấy bằng chứng về mối liên hệ giữa thời
hạn luân chuyển KTV và CLKT. Điều này
là do từ năm 2004 Việt Nam đã có qui định
thời gian luân chuyển KTV là 3 năm nên
biến TENURE trong mô hình chủ yếu nhận
giá trị 1, 2, 3. Các trường hợp biến
TENURE có giá trị lớn hơn 3 phần lớn là
do cách năm (không liên tục). Kết quả này

cũng phù hợp với một số nghiên cứu trên
thế giới như Siregar và các cộng sự (2012),
Geiger và Raghunandan (2002), Carcello
và Nagy (2004), Johnson và cộng sự
(2002), Knechel và Vanstraelen (2006)…
Về giá trị và dấu của các biến độ lập khác,

ta thấy chỉ có biến GROW và SIZE là có ý
nghĩa thống kê. Điều này có nghĩa là tốc độ
tăng trưởng và qui mô của doanh nghiệp có
ảnh hưởng đến CLKT.
Giá trị R2 điều chỉnh trong mô hình hồi
qui là 3,9% (bảng 3). Nguyên nhân mức độ
giải thích của mô hình thấp là do biến DA
26



×