Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Đánh giá thực trạng tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn từ 2011 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.82 KB, 11 trang )

Đánh giá thực trạng tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn từ 2011 đến nay
Khi nền kinh tế bộc lộ các vấn đề yếu kém cần thay đổi thì việc đưa ra các chính
sách để tái cơ cấu lại nền kinh tế là điều cần thiết ở các quốc gia. Chủ trương tái
cơ cấu nền kinh tế được Chính phủ quyết liệt triển khai từ năm 2011 đến nay. Tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng trọng tâm là các ngân hàng thương mại là một trong
những nội dung về tái cơ cấu kinh tế đóng vai trò quan trọng trong quá trình sắp
xếp, cơ cấu lại nền kinh tế với quy mô lớn hơn và tốc độ nhanh hơn để đạt mục
tiêu nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Bài viết này đưa ra các chính sách về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
thương mại giai đoạn từ 2011 đến nay, những kết quả đạt được trong quá trình tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng cùng với những yếu kém nội tại có thể ảnh hưởng đến
an toàn hệ thống ngân hàng thương mại để từ đó đưa ra các kiến nghị chính sách
làm lành mạnh hơn trong hoạt động hệ thống ngân hàng thương mại.
1. Tổng quan các chính sách tài chính thực hiện tái cơ cấu hệ thống tài chínhngân hàng, trọng tâm là các ngân hàng thương mại
Bắt đầu từ năm 2011, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu đối mặt với nhiều khó khăn khi
kinh tế tăng trưởng có xu hướng chậm lại cùng với nhiều rủi ro của hệ thống ngân
hàng được tích lũy từ nhiều năm trước bắt đầu có ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định
kinh tế vĩ mô. Nhiều tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản, nợ xấu cao có
nguy cơ đe dọa đến an toàn của hệ thống ngân hàng. Do đó, tái cơ cấu, lành mạnh
hóa hệ thống ngân hàng là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong giai đoạn này. Ngày
1/3/2012 Chính phủ đã ban hành Quyết định 254/QĐ-TTg Cơ cấu lại hệ thống các
tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015 và Quyết định 843/QĐ-TTg ngày
31/5/2013 ban hành Đề án Xử lý nợ xấu. Theo Quyết định 254, trọng tâm là chấn
chỉnh làm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, giải quyết tình trạng thiếu hụt thanh
khoản tạm thời tại các ngân hàng, khuyến khích sát nhập, hợp nhất mua lại, sát


nhập, hợp nhất các tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm an toàn, ổn định của hệ thống,
không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát
của Nhà nước. Theo Quyết định 843, Ngân hàng Nhà nước thành lập Công ty Quản
lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam nhằm xử lý nợ xấu đang ở mức cao ở


nhiều ngân hàng thương mại bao gồm nợ xấu cấp tín dụng, nợ xấu mua trái phiếu
doanh nghiệp và nợ xấu ủy thác cấp tín dụng, mua trái phiếu doanh nghiệp. Tập
trung xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu trên 3% tổng dư nợ và
nợ xấu có tài sản bảo đảm, trong đó ưu tiên xử lý nợ xấu có tài sản bảo đảm là bất
động sản.
Bên cạnh những bất ổn của hệ thống ngân hàng thì cơ cấu nền kinh tế và mô hình
tăng trưởng nước ta cũng bộc lộ nhiều yếu kém khi tăng trưởng kinh tế không bền
vững và có xu hướng giảm dần, lạm phát tăng cao, số doanh nghiệp giải thể, phá
sản nhiều… Do đó, ngày 19/02/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định 339/QĐ-TTg phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng hiệu quả và năng lực cạnh
tranh giai đoạn 2013-2020. Trong đó, về tái cơ cấu hệ thống tài chính - ngân hàng,
trọng tâm là các tổ chức tín dụng về vấn đề lành mạnh hóa tình trạng tài chính tập
trung xử lý nợ xấu vẫn là ưu tiên của Chính phủ, tình trạng sở hữu chéo và tính
minh bạch trong hệ thống ngân hàng cũng được xem là trọng tâm cần giải quyết
trong Quyêt định. Ngoài ra, Chính phủ vẫn định hướng phát triển xem ngân hàng
thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại có cổ phần chi phối của Nhà
nước thực sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các tổ chức tín dụng. Các
tổ chức tín dụng yếu kém hoặc vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật
cũng được yêu cầu có phương án xử lý thích hợp, quá trình xây dựng triển khai
thực hiện phương án tái cơ cấu đã được phê duyệt tại các tổ chức tín dụng cũng
được giám sát chặt chẽ. Những chủ trương về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trên
vẫn được thể hiện xuyên suốt trong những năm tiếp theo trong Nghị Quyết 05-


NQ/TW ngày 1/11/2016 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XII) về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Theo Nghị quyết 05, nhiệm vụ tái cơ cấu thị trường tài chính tiếp
tục được triển khai và vẫn chủ trương trọng tâm là tái cơ cấu các tổ chức tín dụng,

lành mạnh hóa thị trường tài chính, xóa bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo, ban
hành các quy định hỗ trợ xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, tăng
cường công tác thanh tra, giám sát, quản trị rủi ro các tổ chức tín dụng.
Để tháo gỡ các vướng mắc trong xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Nghị quyết
42/2017/QH14 được ban hành ngày 21/6/2017 được ban hành trong đó đã có một
số quyền được mở rộng hơn như: i) Đã khẳng định tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo
đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu
khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định; ii) Cho phép tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu bán nợ xấu, tài sản
bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật; giá
bán phù hợp với giá thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản
nợ; iii) Cho phép Tòa án áp dụng thủ tục để giải quyết tranh chấp liên quan đến tài
sản bảo đảm; mở rộng đối tượng mua-bán nợ xấu đối với VAMC; qui định về
phương thức xử lý nợ xấu trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất,
bất động sản, bị kê biên; qui định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo
đảm ; qui định nghĩa vụ thuế, phí khi chuyển nhượng tài sản bảo đảm; và phương
thức phân bổ lãi dự thu, khoản chênh lệch khi bán nợ xấu của tổ chức tín dụng và
VAMC…v.v1.
1 Cấn Văn Lực (2019). Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ

/>

Nhìn chung, nhằm tái cấu trúc hệ thống tài chính trọng tâm là các ngân hàng
thương mại trong giai đoạn 2011 – 2019, các Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã
kịp thời ban hành các chính sách nhằm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng, nâng
cao năng lực quản trị, giải quyết tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời tại các
ngân hàng đảm an toàn, ổn định của hệ thống, không để xảy ra đổ vỡ và mất an
toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát. Hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu
của Việt Nam đã có bước tiến lớn và dần hoàn thiện, tiến gần hơn với các quy định

chung thường thấy tại các quốc gia có hệ thống pháp lý phát triển trên thế giới.
Ngoài ra, để tưng bước hỗ trợ cho quá trình cơ cấu lại các tái cơ cấu Chính phủ và
NHNN đã ban hành các văn bản liên quan đến thanh toán không dùng tiền mặt, các
quy định về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt
Nam, quy định về việc góp vốn mua cổ phần bắt buộc của tổ chức tín dụng được
kiểm soát đặc biệt, quy định về phân loại nợ, trích và sử dụng dự phòng rủi ro.
2. Kết quả thực hiện chính sách tái cơ cấu hệ thống tài chính – ngân hàng,
trọng tâm là các ngân hàng thương mại
Thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại được đảm bảo, ổn định, giảm sở
hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thương mại, không để xảy ra đổ vỡ phá sản
hàng loạt trong hệ thống ngân hàng nhất là trong các thời kỳ nền kinh tế gặp nhiều
khó khăn, lạm phát tăng cao, lãi suất huy động lên đến 18% trong giai đoạn cuối
năm 2011. Việc Ngân hàng nhà nước bơm hút tiền linh động qua thị trường mở đã
góp phần hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng nhưng không gây sức ép cho
lạm phát cho những năm sau, do đó tình hình thanh khoản và lạm phát các năm sau
2012 diễn biến ổn định với rủi ro thấp hơn. Đặc biệt, niềm tin của người dân vào
hệ thống ngân hàng và đồng VND được củng cố và đảm bảo không có hiện tượng
rút tiền ồ ạt tại các ngân hàng yếu kém được hợp nhất, sát nhập, mua lại. Lãi suất
cho vay có xu hướng giảm dần từ mức đỉnh của cuối năm 2011 đến 2016 và ổn


định đến nay góp hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí khi vay vốn ngân
hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh. Hiện lãi suất cho vay của các tổ chức tín
dụng phổ biến khoảng 6-9%/năm đối với ngắn hạn và khoảng 9-11%/năm đối với
trung, dài hạn.
Dư nợ lĩnh vực phi sản xuất (nhất là cho vay bất động sản và chứng khoán) được
kiểm soát và điều chỉnh về mức hợp lý. Đồng thời, chuyển dịch cơ cấu tín dụng
theo hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên của nhà nước bao gồm phát triển
nông nghiệp, nông thôn ; phương án, dự án sản xuất - kinh doanh hàng xuất khẩu,
phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ. Ngân

hàng Nhà nước cũng đã áp dụng trần lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với
các lĩnh vực ưu tiên, thấp hơn từ 2-3% mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường.
Ngoài ra, NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng thương
mại, thực hiện triển khai các gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực ưu tiên kể trên.
Tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng thương mại thông qua mua bán, sát nhập các ngân
hàng thương mại yếu kém. Đã có 3 Ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà
nước mua lại với giá 0 đồng là VNCB, GP Bank và Ocean Bank và giao cho
Vietcombank quản trị - điều hành VNCB và VietinBank quản trị - điều hành Ocean
Bank và GP Bank. Vietcombank và VietinBank là hai ngân hàng có chất lượng tốt
về năng lực quản trị, tiềm lực tài chính và quy mô hoạt động lớn, tình hình kinh
doanh ổn định. Hiện nay,VNCB, Ocean Bank và GP Bank hiện đã hoạt động bình
thường trở lại, thanh khoản tốt, kết quả kinh doanh của ngân hàng đã được cải
thiện đáng kể, lỗ hoạt động giảm mạnh qua từng tháng. Đặc biệt, nợ xấu của ngân
hàng Oceanbank đã giảm mạnh, tính đến cuối năm 2017 đã thực hiện thu hồi được
60% tổng nợ xấu của ngân hàng2. Ngoài ra, còn 7 ngân hàng thương mạikhác cũng
2 Tại thời điểm ngày 31/3/2014, OceanBank có vốn điều lệ 4.000 tỷ đồng nhưng lợi nhuận trước thuế lỗ
hơn 10.000 tỷ đồng, tức âm vốn chủ sở hữu gần 2,5 lần. Nợ xấu của OceanBank lên tới gần 15.000 tỷ


được sát nhập vào các Ngân hàng khác có tình hình tài chính lành mạnh và kết quả
kinh doanh ổn định hơn3.
Bên cạnh các chính sách giảm lãi suất, cho vay ưu đãi với các đối tượng ưu tiên,
các tổ chức tín dụng đã chủ động triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu trong thời
gian qua góp phần làm lành mạnh hóa tình trạng tài chính giảm nợ xấu trong thời
gian qua. Cụ thể, trong giai đoạn từ 2012 đến cuối tháng 6/2019, hệ thống các tổ
chức tín dụng đã xử lý được 937.5 nghìn tỷ đồng nợ xấu đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng
xuống chỉ còn 1.91 dưới ngưỡng 2% được đưa ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ban
hành 1/1/2019. Kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42/2017/QH14 đã có hiệu
quả bước đầu khi số lượng khác hành trả nợ các khoản được xếp vào nợ xấu tăng

lên phản ánh ý thức trả nợ của khách hàng đã được cải thiện sau khi Nghị quyết đã
bổ sung thềm quyền cho các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có
quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và bán tài sản bảo đảm này theo
giá thị trường. Về kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017
đến cuối tháng 6/2019, toàn hệ thống tổ chức tín dụng đã xử lý được khoảng
264,06 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 127,641 nghìn tỷ
đồng. 
3. Những vấn đề đặt ra và khuyến nghị đối với tái cơ cấu các ngân hàng
thương mại và chính sách tài chính thực hiện tái cơ cấu hệ thống tài chính –
ngân hàng
Một số tồn tại trong công tác tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại

đồng.
3 7 ngân hàng được sát nhập vào các ngân hàng khác là: Habubank, Western Bank, DaiABank, MDBank,

MHBank, Southern Bank, GP Bank


Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam thiếu một thị trường mua bán nợ thực sự
khi các tổ chức tín dụng vẫn chủ yếu bán nợ cho VAMC và DATC mà hai công ty
này do nhà nước làm chủ sở hữu. Mặc dù, trong Nghị quyết 42/2017/QH14 quy
định các Tổ chức tín dụng được bán các khoản nợ xấu và tài sản đảm bảo liên quan
một cách công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật và giá bán phù hợp
với giá thị trường, cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Việc mua bán
nợ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa các nhà đầu tư nhất là đầu tư nước
ngoài với tổ chức tín dụng chưa diễn ra. Bên cạnh đó, điều kiện kinh doanh dịch vụ
mua bán nợ khá cao (tối thiểu vốn điều lệ 100 tỷ đồng đối với doanh nghiệp kinh
doanh hoạt động mua bán nợ và tối thiểu 500 tỷ đồng đối với doanh nghiệp thành
lập sàn giao dịch nợ, yêu cầu về quản lý nội bộ). Bên cạnh đó, thị trường vốn nước
ta còn chưa phát triển thị trường thứ cấp và phái sinh đối với các khoản nợ chưa

có. Trường hợp bên mua nợ muốn bán, chuyển nhượng các khoản nợ rất khó khăn
vì chưa có thị trường thứ cấp. Các sản phẩm phái sinh như chứng khoản bảo đảm
bằng tài sản đều chưa có dẫn đến không thu hút được các nhà đầu tư mua bán các
khoản nợ.
Trong thời gian qua, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng chủ yếu đặt trọng tâm vào hạn
chế rủi ro thanh khoản trong hệ thống ngân hàng đảm an toàn, ổn định của hệ
thống, không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm
soát, giảm tỷ lệ nợ xấu, giảm sở hữu chéo khuyến khích sát nhập, hợp nhất mua lại,
sát nhập. Tuy nhiên, trong thời gian qua một số các tập đoàn đã có những khoản
vay rất lớn từ hệ thống ngân hàng thương mại mặc dù tình hình tài chính và các
yếu tố nội tại của các tập đoàn này lúc đi vay điều ở mức ổn định và đủ điều kiện
đáp ứng các tiêu chuẩn để được cấp tín dụng. Trước những diễn biến khó lường
của tình hình kinh tế thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh
doanh của các tập đoàn có quy mô lớn từ đó sẽ gia tăng trực tiếp rủi ro cho hệ


thống ngân hàng khi có các khoản cho vay tín dụng quy mô lớn đối với các tập
đoàn này. Cụ thể như trường hợp của tập đoàn Hoàng Anh Gia lai, tính đến ngày
31/12/2018, tổng dư nợ phải trả của tập đoàn Hoàng Anh Gia lai là 31.613 tỉ đồng
sau khi đạt đỉnh từ mức 33.023 tỷ đồng vào quý II/2016. Một trường hợp hợp khác
đó là tập đoàn Vingroup trong những năm gần đây đã mở rộng quy mô hoạt động
sang rất nhiều các lĩnh vực trong nền kinh tế như: bất động sản, bán lẻ, ô tô, xe
máy, điện thoại, hàng không, dịch vụ du lịch, giải trí, giáo dục, nông nghiệp, thời
trang, y tế, dược phẩm. Tập đoàn Vingroup được xem như là chaebol của Việt Nam
kiểm soát một thị phần lớn trong hệ thống sản xuất phân phối của Việt Nam. Tuy
nhiên, tập đoàn Vingroup đang kinh doanh trong những lĩnh vực mạo hiểm như sản
xuất ô tô thì rủi ro đối với hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế là hiện hữu
khi tập đoàn Vingroup từ các khoản vay tín dụng và các khoản nợ khi phát hành
trái phiếu để huy động vốn từ các ngân hàng. Cụ thể, tính tới tháng 8/2018 tổng các
khoản vay và nợ của tập đoàn Vingroup ước trên 30 nghìn tỷ. Tháng 10/2018, tổ

chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings hạ triển vọng của Vingroup từ ổn định
xuống tiêu cực do Vingroup vay vốn để tài trợ cho lĩnh vực sản xuất ôtô, xe máy
điện VinFast, khiến rủi ro đòn bẩy tài chính tăng lên.
Các diễn biến phức tạp về tình hình chiến tranh thương mại và các rủi ro khác trên
toàn cầu chưa được đề cập như một yếu tố quan trọng nên được xem xét trong quá
trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Rủi ro từ chiến tranh thương
mại Mỹ Trung Quốc cũng ảnh hưởng tới mục tiêu ổn định thị trường tiền tệ, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam khi Trung quốc bắt đầu phá giá đồng nhân dân tệ từ
ngày 8/8/2019. Bên cạnh đó, Ngày 29/5/2019, Bộ Tài chính Mỹ đã công bố Báo
cáo định kỳ bán niên về chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác
thương mại lớn của Mỹ đã đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi về việc thao túng


tiền tệ4. Mỹ từng gắn mác thao túng tiền tệ đối với 3 quốc gia là Nhật Bản (năm
1988), Đài Loan (năm 1988 và 1992), Trung Quốc (năm 1992 đến năm 1994). Nếu
các quốc gia bị cáo buộc là thao túng tiền tệ thì Mỹ sẽ có những biện pháp để can
thiệp qua việc đàm phán để các quốc gia khác điều chỉnh chính sách tỷ giá của họ
hoặc là có các biện pháp trừng phạt như áp thuế suất cao hơn đối với quốc gia đó.
Theo báo cáo này, về cơ bản Mỹ vẫn đánh giá hai vòng kiểm duyệt để xem một
quốc gia có thao túng tiền tệ hay không. Ở vòng kiểm duyệt đầu tiên, Mỹ sẽ xem
xét các đối tác thương mại chính có tổng kim ngạch thương mại hàng hóa song
phương trên 40 tỷ USD. Ở vòng thứ hai, Mỹ vẫn đưa ra 3 tiêu chí (ngưỡng) đánh
giá khả năng một quốc gia thao túng tiền tệ như: thặng dư thương mại trên 20 tỷ
USD; thặng dư cán cân thanh toán trên 2% GDP; qui định thời gian mua ngoại tệ
ròng liên tục trong 6 tháng và khối lượng mua ngoại tệ ròng trong vòng 12 tháng
lớn hơn 2% GDP. Năm 2018, cán cân thương mại hàng hóa Việt Nam với Hoa Kỳ
đạt thặng dư gần 34,8 tỷ USD, thặng dư cán cân thanh toán 3,5% GDP, tổng lượng
mua ròng ngoại tệ năm 2018 vào khoảng 1,7% GDP. Việt Nam cũng là quốc gia có
tiềm năng bị chuyển nhóm sang trạng thái thao túng tiền tệ nếu không có những
giải pháp thích hợp khi đã chạm hai ngưỡng về thặng dư thương mại và thặng dư

cán cân thanh toán/GDP còn điều kiện thứ 3 là có can thiệp một chiều vào thị
trường ngoại hối, thông qua con số và thời gian mua ròng ngoại tệ liên tục của
NHNN cũng đã có phần tiệm cận ngưỡng 2%.
Khuyến nghị đối với tái cơ cấu các ngân hàng thương mại
Cần có cơ chuyến khuyến khích các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài,
các tổ chức tín dụng tham gia vào thị trường mua bán nợ xấu. Các điều kiện kinh
doanh dịch vụ mua bán nợ xấu có thể hạ bớt yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu đối
4 Thao túng tiền tệ được Bộ Tài chính Mỹ định nghĩa là một quốc gia cố ý điều chỉnh tỷ giá để tác động

đến cán cân thanh toán hoặc đạt được lợi thế cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế


với doanh nghiệp kinh doanh mua bán nợ và các doanh nghiệp thành lập sàn giao
dịch nợ. Ngoài ra, có thể nghiên cứu, đề xuất cho phép các sản phẩm chứng khoán
phái sinh đối với các khoản nợ được giao dịch trong thời gian tới để thu hút các
nhà đầu tư mua bán các khoản nợ. Thực tế, việc bán nợ cho VAMC thì thực chất là
không phải mua bán hẳn mà trách nhiệm xử lý nợ xấu vẫn phụ thuộc vào các ngân
hàng bán nợ xấu và VAMC chỉ phát hành trái phiếu đặc biệt khi mua các khoản nợ
xấu của Ngân hàng thương mại để từ đó làm giảm nợ xấu trong bảng cân đối kế
toán của ngân hàng thương mại và các ngân hàng thương mại có thể dùng trái
phiếu đặc biệt này để vay tái cấp vốn tại Ngân hàng Nhà nước. Do đó, thu hút các
nhà đầu tư tham gia vào thị trường mua bán nợ xấu sẽ giúp cho tiến trình xử lý các
khoản nợ xấu được đẩy nhanh hơn.
Trong quá trình tái cấu trúc hệ thống các ngân hàng thương mại trong thời gian tới
cần nghiên cứu đánh giá các khoản nợ lớn của các tập đoàn để có các biện pháp
can thiệp cần thiết giảm rủi ro đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng
bởi vì khi một tập đoàn với các khoản nợ lớn từ các ngân hàng thương mại phá sản
sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình tài chính chung của hệ thống ngân hàng mà
thực tế đã được kiểm chứng tại Hàn quốc trong thời gian sau khủng hoảng tài
chính châu á năm 1997 khi các tập đoàn với những món nợ khổng lồ từ hệ thống

ngân hàng làm ăn thua lỗ, phá sản dẫn đến các khoản nợ xấu ngân hàng và cuối
cùng tạo lên sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng tài chính của nước này.
Cuối cùng, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại cần xem xét các biến động
của bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay để có những chiến lược ứng phó kịp thời chứ
không chỉ quan tâm các yếu tố nội tại của hệ thống ngân hàng như thanh khoản, nợ
xấu, tình trạng sở hữu chéo. Chẳng hạn, cần có các chính sách tỷ giá phù hợp để
ứng phó với việc các nước lớn phá giá tiền tệ cũng như có những biện pháp đồng


bộ quyết liệt trong hoạt động mua bán ròng ngoại tệ đảm bảo khối lượng mua
ngoại tệ ròng trong vòng 12 tháng nhỏ hơn 2% GDP nhằm tránh các cáo buộc về
thao túng tiền tệ của Hoa kỳ ảnh hưởng đến tình hình hình kinh tế quốc gia và
Ngân hàng Nhà nước cần có các lập trường chính sách rõ ràng thể hiện Việt Nam
không có các hành động phá giá tiền VND để hỗ trợ xuất khẩu.
Tài liệu tham khảo
PGS.TS. Tô Ngọc Hưng (2017). Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam hướng tới phát triển bền vững. Tạp chí Ngân hàng số 9 tháng 1-2/2017.
TS. Cấn Văn Lực (2019). Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết
42 và đề xuất tháo gỡ. Trường Đào tạo cán bộ BIDV.
TS. Cấn Văn Lực (2019). Việt Nam nằm trong danh sách theo dõi khả năng thao
túng tiền tệ - điều này có ý nghĩa gì?. Trường Đào tạo cán bộ BIDV.
J. Stiglitz và S. Yusuf (2002). Suy ngẫm lại sự thần kỳ của Đông Á. Nhà xuất bản
chính trị quốc gia Hà Nội.



×