Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

ÔN tập các NGÀNH LUẬT cơ bản của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.2 KB, 31 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP
MÔN CÁC NGÀNH LUẬT CƠ BẢN TRONG HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
------------------------PHẦN 1: LÝ THUYẾT
STT
1

2

3

4
5
6
7
8
9

CÂU HỎI
Tại sao Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước? Ý nghĩa, vai trò của
Hiến pháp 2013 với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước
ta?
Hiến pháp 2013 khẳng định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân”. Anh (chị) phân tích và làm rõ vấn đề nêu trên?
Anh, chị phân tích và chứng minh Điều 2 khoản 3 Hiến pháp 2013 “Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
Khái niệm quy phạm pháp luật hành chính? Phân tích các đặc điểm của quy
phạm pháp luật hành chính. Anh (chị) cho ý kiến về việc áp dụng quy phạm
pháp luật hành chính hiện nay, liên hệ địa phương, lĩnh vực công tác ?


Phân tích đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Hành
chính?
Phân tích khái niệm và các dấu hiệu tội phạm? Ý nghĩa của việc xác định dấu
hiệu tội phạm? Cho ví dụ minh họa?
Phân tích khái niệm và các yếu tố cấu thành tội phạm ? Cho ví dụ minh họa?
Ý nghĩa trong việc xác định tội danh?
Phân tích nội dung cơ bản của chế định quyền sở hữu trong ngành Luật dân
sự. Cho ví dụ minh họa?
Nêu các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Cho ví dụ

PHẦN 2: BÀI TẬP
Bài tập 1: Năm 1998 anh Nguyễn Văn A được bố cho một căn nhà trị giá
500 triệu (N1). Năm 2000 Chị Nguyễn Thị B và anh Nguyễn Văn A kết hôn. Hai
vợ chồng cùng ở trong căn nhà đó cho đến nay. Năm 2006 anh Nguyễn Văn A
mua một căn nhà trị giá 700 triệu (N2), giấy tờ sở hữu mang tên anh Nguyễn
Văn A. Năm 2006 chị B gửi 200 triệu tiền lãi do chị bán hàng online trên mạng
từ năm 2003 đến 2005 vào ngân hàng. Anh A và chị B có 3 người con là C, Đ, E.
(E là con nuôi của A và B, E có hai người con). E chết năm 2010 do bệnh.
1) Năm 2009 khi chị B đang đi lao động ở nước ngoài, anh A bán căn nhà
N2 với giá 2 tỉ đồng. Anh, chị cho ý kiến về giao dịch này?
2) Năm 2011 chị B chết không để lại di chúc. Anh, chị hãy chia thừa kế?

1


Bài tập 2: A và B là vợ chồng hợp pháp, có khối tài sản chung trị giá 600
triệu. B có tài sản riêng trị giá 180 triệu. A và B có 3 người con chung: C 20 tuổi
đã đi làm và tự lập cuộc sống; D 19 tuổi bị tâm thần; E 10 tuổi. Năm 2015 B
chết để lại di chúc chia tài sản cho người ngoài gia đình 100 triệu và cho 1 Quỹ
từ thiện 200 triệu.

Anh(chị) hãy xác định di sản thừa kế của B?
Bài tập 3: Sáng ngày 20-12-2017, biết Chu Thị H( học sinh lớp 12) đang
ở nhà một mình, Dương Văn S (sinh năm 1970, vận động viên Tawondo) là
hàng xóm của H sang nhà H chơi, trong lúc H đang quét nhà, thì bất ngờ S từ
đằng sau ôm chặt lấy H đồng thời xé quần áo H thực hiện hành vi hiếp dâm.
Trong lúc giằng co, H đã cầm cán chổi quật ngược lại đằng sau hai cái làm S gục
xuống. Mọi người đưa S đi cấp cứu nhưng S đã chết trên đường đi vì chấn
thương sọ não nặng.
Căn cứ vào các tình tiết trên, có các ý kiến sau, ý kiến nào đúng, vì sao?
(2,5 điểm)
a) Hành vi của H là phòng vệ chính đáng
b) Hành vi của H là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
c) Hành vi của H là phạm tội thông thường
Bài tập 4: Ông A kết hôn với bà B có 3 con : X sinh năm 1991; Y sinh
năm 1997, H sinh năm 2003.
Ông A và bà B có tài sản chung trị giá 800 triệu(đồng )
Ông A có tài sản riêng trị giá 300 triệu (đồng)
A viết di chúc để lại toàn bộ di sản cho X
Năm 2015, A và X chết cùng trong một vụ tai nạn giao thông
Hãy phân chia di sản thừa kế trong tình huống trên.
Bài tập 5: Tên Hoàng Văn X 15 tuổi, và Nguyễn Hà T 13 tuổi do thiếu
tiền chơi Games nên rủ nhau đi cướp. Tối ngày 02.10.2018 chúng nấp trong bụi
cây gần đê sông Hồng đi qua xã Khải Xuân Huyện Lâm Thao, Phú Thọ thấy có
chị K đi xe máy qua liền lao ra chặn xe xin tiền, chị K nhận ra T nên dọa sẽ về
mách bố mẹ T, thấy vậy tên X liền cầm dao mang theo đâm vào mạng sườn chị
K làm chị loạng choạng đổ xe ra đường, sợ chị hô hoán làm hỏng việc hai tên hô
nhau tên dùng dao, tên dùng gạch đá, đâm và đánh nạn nhân đến chết hẳn sau đó
chúng lục túi chị K được gần 200 nghìn, 2 tên mang xe máy đi bán được 1,5tr.
Toàn bộ số tiền có được X và T trả hết nợ chơi Games, số còn lại 2 tên chia nhau
để tiêu xài. Đến chiều 03.10.2018 X và T bị bắt khi đang ngồi chơi games. Vậy

theo bạn hai tên X và T có phải chịu Trách nhiệm pháp lý Hình sự hay không?
Vì sao? Biết rằng cả 2 tội danh giết người và cướp tài sản đều là tội rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
-------------------------2


Câu 1
Tại sao Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước?
Ý nghĩa, vai trò của Hiến pháp 2013 với mục tiêu xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta?
-----------------------------* Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước vì
- Hiến pháp do Quốc hội thông qua, mà Quốc hội chính là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất đại diện cho nhân dân;
- Là văn bản pháp lý duy nhất quy định tổ chức quyền lực nhà nước bao
gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp;
- Có phạm vi điều chỉnh rộng nhất và mức độ điều chỉnh ở tầm khái quát
nhất;
- Có hiệu lực pháp lý tối cao;
- Thể hiện một cách tập trung nhất, mạnh mẽ nhất ý chí và lợi ích của
giai cấp cầm quyền hay liên minh giai cấp cầm quyền.
Chính những đặc điểm trên cũng thể hiện sự khác nhau cơ bản của Hiến
pháp với các văn bản quy phạm pháp luật khác.
* Ý nghĩa, vai trò của Hiến pháp 2013 với mục tiêu xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta?
Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, với
tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (486/488, chiếm 97,59%),
Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đây là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến
mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.
Bản Hiến pháp vừa kế thừa được các giá trị to lớn của các bản Hiến pháp

năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, vừa thể chế hóa các quan điểm,
phương hướng, nội dung phát triển đã được khẳng định trong trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011), phản ánh được ý chí, nguyện vọng, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân tạo nền tảng chính trị - pháp lý vững chắc cho công cuộc xây dựng,
bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước trong thời kỳ phát triển mới.
Với bố cục 11 chương, 120 điều, giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến
pháp năm 1992, bản Hiến pháp có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật
lập hiến, thể hiện sâu sắc và toàn diện sự đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính
trị; thể hiện rõ và đầy đủ hơn chủ quyền của nhân dân, bản chất dân chủ, tiến bộ
của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, quy định rõ ràng, đúng đắn, đầy đủ và khái quát hơn về kinh
3


tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ
quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, về hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp. Bản
Hiến pháp có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Để Hiến pháp sớm đi vào
cuộc sống, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì việc tôn trọng, nghiêm
chỉnh thi hành và bảo vệ Hiến pháp là trách nhiệm và nghĩa vụ thường xuyên
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Hiến pháp có nhiều điểm mới, trong đó, trước hết đã thể chế hóa đầy đủ
hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân
dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân. Đây là quan điểm nền tảng xuyên suốt nội dung của Hiến
pháp sửa đổi năm 2013, chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, mục đích, sức mạnh của
quyền lực Nhà nước ta là ở nhân dân, thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối

cao của quyền lực Nhà nước; khẳng định mạnh mẽ “Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân”.
Tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với Nhà nước và xã hội, Hiến pháp 2013 nêu rõ vai trò đó do lịch sử lựa chọn,
giao phó, được nhân dân thừa nhận và được Hiến pháp công nhận. Đồng thời
Hiến pháp làm rõ hơn và sâu sắc hơn bản chất tiên phong, bản chất nhân dân của
Đảng và bổ sung một yêu cầu rất quan trọng của nhân dân, đó là “Đảng gắn bó
mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
Trong số các nội dung mới của bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013 có nội
dung quy định rõ hơn về quyền sử dụng đất, thu hồi đất, được đông đảo người
dân quan tâm. Theo đó, việc thu hồi đất chỉ được thực hiện trong trường hợp
thật cần thiết, phải do luật định vì mục đích quốc phòng - an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, phải công khai, minh bạch và
phải được bồi thường để tránh việc thu hồi đất tùy tiện, tràn lan. Quy định này
đã được cụ thể hóa trong Luật Đất đai sửa đổi năm 2013 được Quốc hội thông
quan tại kỳ họp thứ 6 vừa qua.
Hiến pháp đã khẳng định nguyên tắc Nhà nước “công nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội”; “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Đây
là những nguyên tắc căn bản nhằm đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối
quan hệ với quyền con người, quyền công dân; phòng ngừa sự tùy tiện cắt xén,
hạn chế, cho chỗ này, lấy lại ở chỗ khác từ phía các cơ quan Nhà nước, nhân
viên Nhà nước. Đồng thời cũng là cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người và công
dân bảo vệ và thực hiện quyền con người và quyền công dân của mình.

4



Đáng chú ý, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định vai trò của Nhà nước và
kinh tế Nhà nước trong việc định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thừa nhận các hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế; các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh
nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền
vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá
nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị
quốc hữu hóa.
Hiến pháp sửa đổi đã tạo cơ sở cho việc quy định mở về chính quyền địa
phương, cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.
Hiện nay, công tác tuyên truyền đưa Hiến pháp vào cuộc sống đã được
các cơ quan chức năng của Nhà nước ta khẩn trương, nghiêm túc thực hiện.
Người dân Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với các nội dung của
bản Hiến pháp và cảm nhận được những nét mới, sự tiến bộ của Hiến pháp mới.
Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013
đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân, tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
------------------------------

5


Câu 2

Hiến pháp 2013 khẳng định “ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân”. Anh (chị ) phân tích và làm rõ vấn đề nêu trên?
------------------------------Tại điều 2 Hiến pháp 2013 khẳng định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Nội dung của điều này ghi nhận về
những vấn đề sau:
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, tức là một nhà nước mà mọi người dân đều phải thượng
tôn pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN được tổ chức và hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tôn
trọng, đề cao và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong mọi lĩnh vực
hoạt động của Nhà nước và xã hội. Quyền lực của nhà nước trong Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức theo các nguyên tắc dân chủ, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam gắn liền với một cơ chế bảo
vệ Hiến pháp và pháp luật phù hợp. Nhà nước pháp quyền, thị trường và xã hội
gắn bó mật thiết với nhau. Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các cam kết
quốc tế mà mình là thành viên. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,
Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, tổ chức, xây dựng Nhà nước
pháp quyền.
- Nhà nước ta là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Điều này khẳng định rằng việc xây dựng nhà nước là do Nhân dân, do đó nhà
nước thuộc về Nhân dân và nhà nước phải phục vụ lợi ích của Nhân dân.
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là nhà nước mà
nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước; nhân dân có toàn quyền quyết định tính
chất, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ mục tiêu, phương hướng phát triển của bộ máy
nhà nước, sử dụng bộ máy nhà nước để thực hiện quyền lợi của mình và kiểm

tra giám sát sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Đồng thời, tất cả các cơ quan
nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước, chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân.
Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và HĐND là những
cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Nhà nước do nhân dân là nhà nước mà ở đó các cơ quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương đều do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập để
thực hiện quyền làm chủ nhà nước của mình. Mọi chủ trương, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đều do nhân dân trực tiếp hay gián tiếp xây dựng và thực
hiện. Và mọi vấn đề quan trọng có ý nghĩa chung của cả nước hay của địa
6


phương đều do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp thảo luận, bàn bạc quyết định
thực hiện.
Nhà nước vì nhân dân là nhà nước có cơ cấu tổ chức tinh gọn, hiệu
quả, thuận tiện cho nhân dân sử dụng, kiểm tra, giám sát. Và mục đích hoạt
động của nhà nước là vì lợi ích của nhân dân; mọi chủ trương chính sách, pháp
luật đều được xây dựng trên cơ sở lợi ích của nhân dân.

---------------------------

7


Câu 3
Anh, chị phân tích và chứng minh Điều 2 khoản 3 Hiến pháp 2013
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp”
---------------------------* Về quyền lực nhà nước là thống nhất

Quyền lực nhà nước thống nhất là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Cho đến nay, các khía cạnh của vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất
như: Thế nào là thống nhất quyền lực nhà nước? Quyền lực nhà nước thống nhất
ở đâu? Ý nghĩa của quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước như thế nào? Các khía cạnh này chưa được nhận thức
thống nhất. Có một số người cho rằng, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng
sự thống nhất đó tập trung vào Quốc hội. Do vậy, Quốc hội được Hiến pháp xác
nhận là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Và với vị trí pháp lý đó, những
người này cho rằng Quốc hội là cơ quan có toàn quyền, là cơ quan cấp trên của
các quyền hành pháp và tư pháp. Một số khác lại cho rằng, trong nhà nước kiểu
mới như nhà nước ta, giai cấp công nhân và Nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của một Đảng, ngày càng thống nhất về lợi ích, trong nội bộ không có sự phân
chia thành phe phái đối lập như trong nhà nước tư sản, nên thống nhất quyền lực
nhà nước là yếu tố cơ bản, duy nhất giữ vai trò quyết định trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước mà không cần thiết phải phân công quyền lực nhà
nước. Quan niệm này đề cao tính thống nhất của quyền lực nhà nước, phủ nhận,
xem thường hoặc hạ thấp vai trò của phân công, phân nhiệm rành mạch quyền
lực nhà nước. Thực chất quan niệm này cũng không khác gì quan điểm nói trên.
Theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thì quyền lực nhà
nước thống nhất là ở Nhân dân. Quan niệm thống nhất quyền lực nhà nước là ở
Nhân dân thể hiện ở nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân”.
Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất là cách thức tổ chức quyền
lực nhà nước đề cao trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân, hạn chế sự dựa
dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy
quyền, giao quyền. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan,
đối lập, thiếu trách nhiệm tồn tại trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là giữa
quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình
thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của
các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ xã hội là nhân

dân.
Như vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở nhân dân, chủ
thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước là quan niệm có ý nghĩa chỉ đạo
tổ chức quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
8


hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mọi biểu hiện xa rời
quan điểm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân theo Hiến pháp sửa đổi năm
2013 đều dẫn đến việc tổ chức quyền lực nhà nước kém hiệu quả.
* Về “phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người
ủy quyền đối với người được ủy quyền. Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước không
phải là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm, phân chia được một cách quá
rạch ròi; vì nó là một thể thống nhất, như nói ở trên. Điều đó lại càng đòi hỏi
phải kiểm soát quyền lực nhà nước, hạn chế hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền
lực nhà nước được nhân dân ủy quyền.
Xuất phát từ các đòi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước thường
được lượng hóa bằng các quy định của Hiến pháp để phân định nhiệm vụ quyền
hạn của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự lượng hóa này là để giao
cho các cơ quan nhà nước khác nhau, thay mặt nhân dân thực hiện. Sự phân định
các quyền như vậy là điều kiện cơ bản để nhân dân giao quyền mà quyền đó
không bị lạm quyền hoặc lạm dụng, nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu
lực và hiệu quả thực hiện các quyền mà mình đã giao. Đồng thời cũng là để cho
các cơ quan tương ứng được giao quyền cần đề cao trách nhiệm trong việc thực
thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra việc thực hiện quyền lực nhà nước được
giao. Theo đó, trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã tiến một bước mới trong
việc phân công quyền lực nhà nước. Lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta chỉ rõ
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến (không còn là duy nhất có quyền lập hiến

như Hiến pháp năm 1992), quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp (Điều 94), Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều
102). Việc xác nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp là một sự đổi mới quan trọng, tạo điều kiện để làm rõ vị trí, vai
trò, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi quyền.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định
thành ba quyền nói trên là một nhu cầu khách quan. Ngày nay, xu hướng phân
định rành mạch ba quyền đó ngày càng được coi trọng trong tổ chức quyền lực
nhà nước. Vì, xã hội càng phát triển, phân công lao động càng phải chuyên môn
hóa cao để phát triển vừa thống nhất, vừa hiệu quả. Đồng thời, thực tiễn xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta chỉ ra rằng, việc phân
định mạch lạc ba quyền là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò của Nhà nước
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

----------------------------9


Câu 4
Khái niệm quy phạm pháp luật hành chính?
Phân tích các đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính.
Anh (chị) cho ý kiến về việc áp dụng quy phạm pháp luật hành chính
hiện nay, liên hệ địa phương, lĩnh vực công tác?
---------------------------* Khái niệm quy phạm pháp luật hành chính
Quy phạm pháp luật hành chính là quy tắc hành vi do Nhà nước đặt ra để
điều chỉnh quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành và điều hành phát sinh
trong lĩnh vực quản lý nhà nước.
* Các đặc điểm của quy phạm pháp luật hành chính
Do quy phạm pháp luật hành chính là một dạng của quy phạm pháp luật
nên các quy phạm pháp luật hành chính vừa có các đặc điểm chung của quy
phạm pháp luật, vừa có các đặc điểm khác với các quy phạm pháp luật nói

chung. Quy phạm pháp luật hành chính cũng có một số đặc điểm riêng:
- Nội dung của các quy phạm pháp luật hành chính là các vấn đề khác
nhau của quản lý hành chính nhà nước.
Thông qua các quy phạm pháp luật nhà nước quy định cơ cấu tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể quản lý hành chính, quy định quyền, nghĩa
vụ và cách thức thực hiện các quyền, nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức là đối
tượng quản lý hành chính nhà nước, những biện pháp bảo đảm thực hiện quyền,
nghĩa vụ đó, các hoạt động giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm và các hoạt
động khác bảo đảm cho quản lý hành chính nhà nước đúng pháp luật.
- Quy phạm pháp luật hành chính điều chính các quan hệ xã hội phát
sinh trong quản lý hành chính nhà nước.
Đây là đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt quy phạm pháp luật hành
chính với quy phạm của các ngành luật khác. Do quy phạm pháp luật hành chính
quy định về các vấn đề khác nhau của quản lý hành chính nhà nước nên nó là cơ
sở làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính.
- Quy định pháp luật hành chính do nhiều cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền ban hành trong đó chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước, người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.
Quy phạm pháp luật hành chính trong các văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành bởi nhiều cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khác nhau nhưng
trong đó các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính, người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính ban hành chiếm số lượng lớn có vai trò
quan trọng. Do trong bộ máy nhà nước chỉ riêng các cơ quan hành chính nhà
nước mới có chức năng quản lý hành chính nên hầu hết các hoạt động của cơ
quan này là để quản lý hành chính nhà nước vì thế số lượng các quy phạm pháp
luật do cơ quan hành chính nhà nước ban hành là lớn nhất và nội dung các quy
10


phạm pháp luật do cơ quan hành chính ban hành là toàn diện nhất. Mặc dù, các

quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành, nhất là các quy
phạm do Quốc hội ban hành, có hiệu lực pháp lý cao nhưng thường không cụ thể
và toàn diên. Còn các quy phạm do Tòa án và Viện kiểm sat ban hành thường
chỉ tập trung vào công tác tổ chức nội bộ của chính hệ thống các cơ quan này
hoặc trong trường hợp cần có sự phân định ranh giới hoạt động giữa hành pháp
và tư pháp.
- Quy phạm pháp luật hành chính có tính ổn định không cao
Quy phạm pháp luật hành chính hay các văn bản quy phạm pháp luật
hành chính có tính ổn định không cao, thường xuyên được sửa đổi, bổ sung hoặc
thay thế bằng các quy phạm pháp luật mới. tính ổn định không cao không chỉ
với các quy phạm pháp luật hành chính do cơ quan hành chính ban hành mà
ngay cả các quy phạm do Quốc hội ban hành. Đặc điểm này xuất phát từ thực
tiễn là các quan hệ quản lý hành chính ở Việt Nam không ngừng vận động, thay
đổi buộc các quy định pháp luật phải thay đổi theo để đáp ứng nhu cầu thực tế.
* Anh (chị) cho ý kiến về việc áp dụng quy phạm pháp luật hành
chính hiện nay, liên hệ địa phương, lĩnh vực công tác?

-------------------------------

11


Câu 5
Phân tích đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh
của Luật Hành chính?
--------------------------------Luật hành chính là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật được
phân biệt với các ngành luật khác chủ yếu về đối tượng điều chỉnh. Đối tượng
điều chỉnh của luật hành chính là các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước.
1. Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là các quan hệ xã hội

phát sịnh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước với nội dung chính là chấp
hành và điều chỉnh.
Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính gồm ba nhóm lớn:
- Nhóm quan hệ phát sinh trong quan trình cơ quan hành chính
thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
+ Giữa cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới
theo hệ thống dọc.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan
hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp (Chính phủ với các
bộ, cơ quan ngang bộ); giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chung với cơ
quan chuyên môn trực thuộc nó (Chính phủ với các cơ quan chuyên môn của nó
như: ban quản lý lăng chủ tịch Hồ Chí Minh; bảo hiểm xã hội Việt Nam; thông
tấn xã Việt Nam; …)
+ Giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương với
cơ quan hành chính có thẩm quyền chung ở cấp tình: bộ với ủy ban nhân dân
cấp tỉnh.
+ Giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương
khác nhau: các bộ, cơ quan ngang bộ với nhau.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với các đơn vị trực
thuộc cơ quan hành chính ở trung ương đóng tại địa phương đó. Trong quan hệ
này thì không có quan hệ về tổ chức nhưng có quan hệ về hoạt động.
+ Giữa cơ quan hành chính với các đơn vị cơ sở trực thuộc.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức kinh tế thuộcc các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Các tổ chức kinh tế này phải đặt dưới sự
quản lý thường xuyên của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nơi đóng
trụ sở.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội.
+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân, người nước ngoài,
người không quốc tịch.


12


- Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước xây
dựng và củng cố chế dộ công tác nội bộ: kiểm tra, nâng cấp trình độ nghiệp
vụ, khen thưởng, kỉ luật, sắp xếp nhân sự, tổ chức…
- Quan hệ được phát sinh trong quá trình cá nhân, tổ chức được nhà
nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước trong
một số trường hợp cụ thể.
+ Trao quyền cho các nhân, tổ chức trong bộ máy nhà nước như: tòa án
nhân dân, thẩm phán chủ tọa phiên tòa…
+ Trao quyền cho cá nhân, tổ chức không phải trong bộ máy nhà nước:
chỉ huy tàu bay, tàu biển khi rời sân bay, bến cảng…
2. Phương pháp điều chỉnh là cách thức mà nhà nước áp dụng trong
việc điều chỉnh bằng pháp luật để tác động vào các quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điều chỉnh của ngành luật đó.
Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là phương pháp mệnh
lệnh được hình thành từ quan hệ “quyền lực - phục tùng” giữa một bên có quyền
nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên kia là cơ quan, tổ
chức hoậc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh đó. Chính môi quan hệ
“quyền lực - phục tùng” thể hiện sự không bình đẳng giữa các bên tham gia
quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Sự không bình đẳng đó là sự không bình
đẳng về ý chí và thê hiện rõ nét ở những điểm sau:
- Trước hết, sự không bình đẳng trong quan hệ quản lý hành chính nhà
nước thể hiện ở chỗ chủ thể quản lý có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý
chí của mình lên đối tượng quản lý. Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đạt
ý chí của chủ thể quản lí lên đôi tượng quản lý trong những trường hợp khác
nhau được thực hiện dưới những hình thức khác nhau:
+ Hoặc một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy
định bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra việc thực hiện chúng. Phía bên kia có

nghĩa vụ thực hiện các quy định, mệnh lệnh của cơ quan có thẩm quyền.
+ Hoặc một bên có quyền đưa ra yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có
quyền xem xét, giải quyết và có thể đáp ứng hay bác bỏ yôu cầu, kiến nghị đó.
+ Hoặc cả hai bên đều có quyền hạn nhất định nhưng bên này quyết định
điều gì phải được bên kia cho phép hay phê chuẩn hoặc cùng phôi hợp quvết
định.
- Biểu hiện thứ hai của sự không bình đẳng thể hiện ở chỗ một bên có thể
áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng quản lí phải thực hiện
mệnh lệnh của mình. Các trường hợp này được pháp luật quy định cụ thể nội
dung và giới hạn.
Các cơ quan hành chính nhà nước và các chủ thể quản lí hành chính
khác, dựa vào thẩm quyền của mình, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình có
quyền ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản lí thích hợp đối với
13


từng đối tượng cụ thể. Những quyết định ấy có tính chất đơn phương vì chúng
thế hiện ý chí cúa chủ thể quản lí hành chính nhà nước trên cơ .sờ quyển lực đã
dược pháp luật quy định.
Những quyết định hành chính đơn phương đều mang tính chất bắt buộc
đối với các đối tượng quản lý. Tính chất bắt buộc thi hành của các quyết dinh
hành chính được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên,
các quyết định hành chính đơn phương không phải bao giờ cũng được thực hiện
trên cơ sở cưỡng chế mà được thục hiện chủ yếu thông qua phương pháp thuyết
phục.
----------------------------------

14



Câu 6
Phân tích khái niệm và các dấu hiệu tội phạm?
Ý nghĩa của việc xác định dấu hiệu tội phạm? Cho ví dụ minh họa?
--------------------------------* Tội phạm
- Khái niệm:
Theo điều 8 Bộ Luật Hình sự năm 2015:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
- Các dấu hiệu tội phạm: Theo Luật hình sự Việt Nam, hành vi coi là
tội phạm được phân biệt với những hành vi không phải là tội phạm qua bốn dấu
hiệu sau:
1. Tính nguy hiểm cho xã hội:
Tính nguy hiểm cho xã hội được coi là dấu hiệu cơ bản quan trọng nhất,
quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm.
Nguy hiểm cho xã hội, về khách quan, là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt
hai đáng kể cho các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không những là căn cứ để phân
biệt hành vi là tội phạm với những hành vi vi phạm khác, mà còn là cơ sở để
đánh giá mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm tội.
Tính nguy hiểm cho xã hội có tính khách quan, không phụ thuốc váo ý
muốn chủ quan của nhà làm luật, cho nên khi khẳng định một hành vi nguy
hiểm cho xã hội, khi xác định mức độ nguy hiểm của nó cần đánh giá nhiều tình
tiết khác nhau của hành vi hoặc có liên quan đến hành vi như:
Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại.

Tính chất của hành vi khác quan, trong đó bao gồm cả phương pháp, thủ
đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội.
Mức độ thiệt hại gây ra.
Tính chất lỗi.
Động cơ, mục đích, nhân thân của người phạm tội.
Hoàn cảnh chính trị - xã hội lúc và nơi hành vi phạm tội xảy ra.
2. Tính có lỗi
Tính có lỗi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của tội phạm.

15


Về mặt nội dung, trường hợp có lỗi là trường hợp một người lựa chọn xử
sự không phù hợp với đòi hỏi của xã hội trong khi họ có điều kiện để lựa chọn
xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Ngược lại, nếu một người xử sự không
phù hợp với đòi hỏi của xã hội trong khi họ không có điều kiện để lựa chọn xử
sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội thì họ không có lỗi.
Về mặt hình thức, lỗi là thái độ, tâm lý chủ quan của con người đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó
gây ra, thể hiện dưới dạng cố ý và vô ý.
Luật hình sự Việt Nam chia lỗi thành hai lội: cố ý và vô ý.
- Lỗi cố ý bao gồm:
+ Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả
xẩy ra.
+ Lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy
không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
- Lỗi vô ý bao gồm:
+ Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của

mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ
không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
+ Lỗi vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của
mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có
thể thấy trước hậu quả đó.
Căn cứ vào tính có lỗi cho thấy:
Luât hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan chỉ
thông qua hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của người
thực hiện hành vi đó.
Mục đích của áp dụng hình phạt là trừng phạt người có lỗi chứ không
phải trừng phạt hành vi.
3. Tính trái pháp luật hình sự
Tính trái pháp luật hình sự cũng được thể hiện thông qua Điều 8 là :”Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…được quy định trong Bộ luật hình sự..”.
Trong bộ luật hình sự, tính trái pháp luật hình sự không chỉ được thể hiện
ở Điều 8 mà còn được thể hiện ở Điều 2 và Điều 7. Điều 2 quy định :”chỉ người
nào phạm tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự…”
Như vậy tính trái pháp luật cũng là dấu hiệu đặc biệt quan trọng. Những
hành vi được coi là trái pháp luật cũng đồng thời là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong Luật hình sự. Tính trái pháp luật là căn cứ để đảm bảo
quyền lợi của công dân, tránh việc xử lý tùy tiện.

16


Tính trái pháp luật hình sự và tính nguy hiểm cho xã hộ là hai dấu hiệu
có mối quan hệ biện chứng với nhau, tính trai pháp luật hình sự là dấu hiệu về
mặt hình thức pháp lí phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội.
4. Tính phải chịu hình phạt

Tính phải chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ có
hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm cũng không có
hình phạt.
Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy
hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội và
tính trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt, tính
nguy hiểm cho xã hội càng lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm mà bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có thể bị đe dọa
áp dụng hình phạt.
* Ý nghĩa của việc xác định dấu hiệu tội phạm
Việc xác định dấu hiệu tội phạm
+ Là cơ sở thống nhất cho việc xác định những tội phạm cụ thể trong các
phần tội phạm của Bộ Luật hình sự. Ví dụ: Luật hình sự Việt Nam phân chia tội
phạm thành 4 loại tội phạm: Tôi ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
+ Là cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng đúng đắn những điều luật quy
định về từng tội phạm cụ thể. Ví dụ: Điều 46 Bộ Luật Hình sự năm 2015 quy
định tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng.
+ Là cơ sở cho việc xây dựng những chế định khác liên quan đến chế
định tội phạm. Ví dụ: Miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) là một trong những chế
định thể hiện rõ chính sách hình sự nhân đạo cao nhất của Nhà nước ta về xử lý
một người có hành vi vi phạm mà BLHS quy định là tội phạm. Có hai trường
hợp được miễn TNHS cho người phạm tội đó là đương nhiên được miễn TNHS
và có thể được miễn TNHS.
+ Giúp xác định giữa hành vi bị coi là tội phạm với hành vi không phải
là tội phạm. Ví dụ: Giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, … là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội chỉ có thể là nguy hiểm đảng kể, do vậy hành vi ấy chỉ có thể là
tội phạm mà không thể là vi pháp luật khác.
--------------------------------------


17


Câu 7
Phân tích khái niệm và các yếu tố cấu thành tội phạm?
Cho ví dụ minh họa? Ý nghĩa trong việc xác định tội danh?
--------------------------------* Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội
phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự.
* Các yếu tố cấu thành tội phạm
1. Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ,
bị tội phạm xâm hại, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại.
Theo BLHS 2015 các quan hệ đó là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền,
lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Các loại khách thể của tội phạm
- Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị
tội phạm xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Theo Luật hình sự Việt Nam,
khách thể chung của tội phạm là những quan hệ xã hội được xác định tại khoản
1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
- Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất
được một nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội
phạm xâm hại. Khách thể loại có vai trò quan trọng về mặt lập pháp. Nó là cơ sở
để Bộ luật hình sự xây dựng các chương trong phần các tội phạm. Ví dụ các tội
xâm phạm sở hữu bao gồm các tội phạm xâm hại đến nhóm quan hệ về sở hữu.
- Khách thể trực tiếp của tội phạm là một hoặc một số quan hệ xã hội cụ
thể bị hành vi phạm tội cụ thể xâm hại. Thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe doạ
gây thiệt hại (xâm hại) đối với khách thể trực tiếp mà tội phạm đã gây phương

hại đến khách thể chung và khách thể loại của tội phạm. Ví dụ tội phạm cướp
tài sản trực tiếp xâm hại khách thể là quan hệ nhân thân thân và cả quan hệ sở
hữu.
2. Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của bên ngoài tội
phạm. Mặt khách quan của tội phạm có những dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho
xã hội, hậu quả tác hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
nguy hiểm và hậu quả tác hại, thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện và
công cụ thực hiện tội phạm,…
Dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm:
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội: Trong mặt khách quan của tội phạm,
hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản hơn các biểu hiện khác. luật Hình sự,
18


hành vi được hiểu là những “biểu hiện” của con người ra bên ngoài thế giới
khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt những mục đích có chủ định
và mong muốn.
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là biểu hiện thứ hai trong mặt khách
quan của tội phạm, thể hiện ở việc gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được
Luật Hình sự bảo vệ. Hâu quả của tội phạm là thiệt hai cho các quan hệ xã hội
được Luật hình sự bảo vệ. Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của Luật Hình sự, thể hiện dưới
các dạng: Thiệt hại về vật chất, thiệt hai về thể chất, thiệt hại về tinh thần, các
biến đổi khác.
Ví dụ: Hành vi xúi giục người khác tự sát (Điêu 101 Bộ Luật Hình sự)
đưa đến hậu quả là sự tự sát của người bị xúi giục hay hành vi dụ dỗ người chưa
thành niên phạm pháp (Điều 252 Bộ Luật hình sự 2015) dẫn đến hậu quả là sự
sống sa đọa hay phạm pháp của người bị dụ dỗ.
- Vấn đề quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong Luật Hình sự
Đây là mối quan hệ khách quan luôn tồn tại giữa hành vi khách quan và

hậu quả của hành vi khách quan. Một người phải chịu trách nhiệm hình sự về
hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu giữa hành vi khách quan đã thực hiện của họ
và hậu quả nguy hiểm đó có quan hệ nhân quả với nhau.
Hậu quả tác hại của tội phạm có ý nghĩa xác định giai đoạn hoàn thành
của tội phạm. Tội có cấu thành vật chất được coi là hoàn thành khi hành vi nguy
hiểm đã gây ra hậu quả tác hại. Tội có cấu thành hình thức được coi là hoàn
thành khi người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội theo quy định
của điều luật cụ thể trong Bộ luật Hình sự.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối quan
hệ giữa các hiện tượngtrong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân (là
hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là hậu quả
của tội phạm).
3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt
độ tuổi luật định đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
- Năng lực trách nhiệm hình sự:
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Người có
năng lực trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt Nam là người đạt độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ Luật hình sự 2015) và không thuộc những
trường hợp trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 Bộ
Luật hình sự 2015).
- Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: 14 là tuổi bắt đầu có năng lực trách
nhiệm hình sự và tổi 16 là tổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Ngoài ra,
19


còn một số trường hợp là chủ thể đặc biệt của tội phạm, đó là trường hợp chủ thể
của tội phạm ngoài việc có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu

trách nhiệm hình sự, họ còn phải có thêm một số dặc điểm đặc thù khác. Ví dụ
chỉ có những ngưới có chức vụ, quyền hạn liên quan đến tài sản mới có thể thực
hiện được hành vi tham ô tài sản (Điều 278 Bộ Luật hình sự 2015)…
Chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi
phạm tội cụ thể.
Theo quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2015 thì “Pháp nhân thương mại
là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận được chia cho các thành
viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế
khác.”
4. Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện bên trong của tội
phạm, là thái độ tâm lý của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm gồm các
dấu hiệu lỗi, động cơ, mục đích của tội phạm.
Dấu hiệu trong mặt chủ quan của tội phạm
- Lỗi là dấu hiệu bắt buộc phải có ở mọi tội phạm vì tội phạm nào cũng
được thực hiến do cố ý hoặc vô ý. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra được
biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Các hình thức lỗi của tội phạm
+ Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hành vi phạm tội
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi
và nhận thức rõ hậu quả tất yếu xẩy ra hoặc có thể xảy ra.
Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra.
Ví dụ về lỗi cố ý trực tiếp: các tội xâm phạm sở hữu, các tội phạm chức
vụ.
+ Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có
ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi
và nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra.
Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng bỏ
mặc không quan tâm đến hậu quả, hậu quả xảy ra như thế nào cũng chấp nhận.
Ví dụ về lỗi cố ý gián tiếp: Tội bức tử, tội giết người, tội cố ý gây thương
tích.
+ Lỗi vô ý vì quá tự tin: là lỗi của người phạm tội tuy thấy trước hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó
sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
20


Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi
và nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra.
Về ý chí: Người phạm tội loại trừ khả năng hậu quả xảy ra.
+ Lỗi vô ý do cẩu thả: là trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội tuy không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả
đó.
Về lý trí: Người phạm tội trong lỗi vô ý do cẩu thả do cẩu thả nên không
thấy trước hậu quả của hành vi nhưng trong điều kiện phải thấy trước và có thể
thấy được hậu quả đó.
Về ý chí: Trong lỗi vô ý do cẩu thả người phạm tội không có khả năng
điều khiển được hành vi của mình (tức là người phạm tội không có ý chí).
Ý nghĩa trong việc xác định tội danh
Hoạt động định tội danh của các chủ thể có thể theo 2 xu hướng: Định
tội danh đúng hoặc định tội danh sai.
+ Đối với hoạt động định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hoá
trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt một cách công minh có căn cứ pháp
luật. Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc

tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế,
trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự,
nguyên tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm.
Định tội danh đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, về thẩm quyền điều tra, xét xử qua
đó góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền và tự do dân chủ của công dân
trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
+ Đối với hoạt động định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả
tiêu cực như: không đảm bảo được tính công minh có căn cứ đúng pháp luật,
truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô
bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội
cao quý nhất được thừa nhận trong Nhà Định tội danh sai làm giảm uy tín của cơ
quan tư pháp, vi phạm pháp chế XHCN, ảnh hưởng đến hiệu quả của đấu tranh
phòng chống tội phạm.

------------------------------------

21


Câu 8
Phân tích nội dung cơ bản của chế định quyền sở hữu trong ngành Luật
dân sự. Cho ví dụ minh họa?
--------------------------------Theo quy định tại Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Quyền sở
hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của
chủ sở hữu theo quy định của luật”.
VD: Bạn có một chiếc xe máy, đăng ký xe mang tên của bạn chứng tỏ sự
chứng nhận của Nhà nước bạn là chủ sở hữu chiếc xe đó. Với chiếc xe bạn có
- Quyền chiếm hữu: chiếc xe đó là của bạn và không ai được cầm giữ
chiếc xe (tức chiếm hữu làm của riêng) mà không được phép của bạn .

- Quyền sử dụng: bạn có toàn quyền sử dụng chiếc xe theo ý bạn.
- Quyền định đoạt: Bạn có quyền bán, cho mượn, cho thuê, tặng, đổi ...
chiếc xe mà không phải chịu sự chi phối của người khác, thậm chí hủy hoại
chiếc xe cũng là quyền định đoạt của bạn.
1. Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản (Điều 179 Bộ
luật Dân sự năm 2015).
Có 2 hình thức chiếm hữu:
+ Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản phù hợp với
quy định của pháp luật. Đó là việc chiếm hữu tài sản trong các trường hợp sau
đây (Theo Điều 165 Bộ luật Dân sự 2015) bao gồm:
Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản;
Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự
phù hợp với quy định của pháp luật; Ví dụ: việc thuê, mướn: không là chủ sở
hữu nhưng chiếm hữu tài sản phù hợp với quy định của pháp luật.
Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là
chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm
phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp
luật có liên quan;
Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc
phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này;
Quy định khác của pháp luật có liên quan; các trường hợp khác do pháp
luật quy định.
+ Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật: là việc chiếm hữu tài sản không
phù hợp với quy định của pháp luật. Cụ thể đó là việc chiếm hữu tài sản của một
người mà không thuộc vè bất cứ trường hợp nào của việc chiếm hữu tài sản có
căn cứ pháp luật.
Trong thực tế, một người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật một tài
sản sẽ được coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình nếu
người không biết và không thể biết việc chiếm hữu đó là không có căn cứ pháp

22


luật. Mặc khác, nếu người đó biết hoặc tuy không biết nhưng buộc phải biết việc
chiếm hữu đó là không có căn cứ pháp luật mà vẫn chiếm hữu sẽ bị coi là chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình.
Ví dụ một người mua một chiếc xe máy từ một chủ thể khác không có
giấy chứng nhận quyền sở hữu chiếc xe máy, trong khi đòi hỏi người mua phải
yêu cầu chứng minh quyền được bán hợp pháp của người bán.
2. Quyền sử dụng là khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản (Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Như vậy, thực hiện quyền sử dụng chính là việc con người khai thác
những lợi ích của tài sản để thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần phát sinh trong
đời sống của mình. Việc khai thác những lợi ích này bao gồm cả việc con người
thu nhận những kết quả do tài sản mang lại như thu hoạch hoa quả, hưởng trứng
của gia cầm, hưởng tiền do người khác thuê tài sản …
Ví dụ: Một người thuê căn nhà trên diện tích đất 1.000m 2 , vậy họ được
thu hoạch, sử dụng những hoa quả trên mảnh đất đó.
Đối với quyền sử dụng của chủ sở hữu, chủ sở hữu được sử dụng tài sản
theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi
ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác; Đồng thời, người không phải là chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo thoả
thuận với chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản của
mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản
(Điều 192 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Có hai hình thức định đoạt tài sản
+ Định đoạt số phận thực tế của tài sản: Là việc chủ sở hữu bằng hành vi
của mình làm cho tài sản không còn trong thực tế.
Ví dụ: tiêu dùng hết, hủy bỏ tài sản.

+ Định đoạt số phận pháp lý của tài sản: Là việc chủ sở hữu dịch chuyển
quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác thông qua các giao dịch dân sự
như bán, trao đổi, tặng cho tài sản …
Pháp luật quy định cho cá nhân là chủ sở hữu hoặc không phải là chủ sở
hữu có quyền định đoạt về tài sản, tuy nhiên để có quyền định đoạt thì phải đáp
ứng những điều kiện nhất định về năng lực hành vi và các trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định: (i) về năng lực hành vi, việc định đoạt tài sản phải do người
có năng lực hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật; (ii) về trình
tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về định đoạt tài sản: trong trường hợp
pháp luật có quy định về trình tự, thủ tục định đoạt thì cần phải tuân thủ theo
trình tự, thủ tục đó.
----------------------------------

23


Câu 9
Nêu các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Cho ví dụ
--------------------------------1. Cầm cố tài sản
- Định nghĩa: Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố)
giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận
cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Ví dụ: A vay B số tiền 10.000.000đ và A giao cho B chiếc xe gắn máy để
cầm cố)
- Hình thức: Cầm cố tái sản bắt buộc phải thành lập thành văn bản, có
thể thành lập thành một văn bản riêng, có thể thiết kế thành các điều khoản trong
hợp đồng chính.
- Đối tượng của cầm cố: Phải là một vật sẵn có và được phép chuyển
giao. Tài sản là các loại giấy tờ có giá có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự.
Lưu ý: Không bao gồm các tài sản hình thành trong tương lai.

- Xử lý tài sản cầm cố:
+ Khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực
hiện hoặc là thực hiện không đúng.
+ Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trước hạn.
+ Những trường hợp khác do pháp luật quy định.
2. Thế chấp tài sản:
- Định nghĩa: Thế chấp tài sản là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài
sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia
(bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
Ông A có căn nhà ba tầng đứng tên ông, vì ông A đang rất cần một khoản
tiền tương đối lớn nhưng ông lại không có và không có khả năng xoay sở nên
ông đã thế chấp căn nhà này cho Ngân hàng để ông có tiền. Việc ông thế chấp
căn nhà này bằng cách ông sẽ chuyển giấy tờ đứng tên ông (sổ đỏ) cho Ngân
hàng để đảm bảo về mặt pháp lý rằng nếu ông A không có khả năng thanh toán
khoản tiền mà ông đã vay tại ngân hàng trong một khoảng thời gian đã được quy
định thì Ngân hàng sẽ tiến hành phát mãi tài sản đó.
- Hình thức thế chấp: Lập thành văn bản, văn bản riêng hoặc chung, thế
chấp hoặc không.
- Đối tượng: Giấy tờ minh chứng cho tương lai; CÁc vật sẵn có; Tài sản
là vật hình thành trong tương lai; Tài sản là những giấy tờ có giá có thể chuyển
giao; Các quyền tài sản.
3. Bảo lãnh
- Định nghĩa: là biện pháp bảo đảm mang tính chất đối nhân, theo đó
người thứ ba cam kết (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo
24


lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu
khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ.

- Hình thức bảo lãnh: Phải lập thành văn bản; Đối với trường hợp luật
định phải công chứng chứng thực.
- Đối tượng: Tài sản của bên bảo lãnh.
4. Đặt cọc:
- Định nghĩa: Giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý
hoặc vật có giá trị khác trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện
hợp đồng
- Hình thức đặt cọc: Phải lập thành văn bản
- Đối tượng: Tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác
5. Ký cược:
- Định nghĩa: Bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một
khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác trong một thời hạn
để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê
- Hình thức ký cược: Không đòi hỏi phải lập thành văn bản
- Đối tượng: Tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác
6. Kí quỹ
- Định nghĩa: Bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá
quý hoặc giấy tờ có giá vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo
đảm việc thực hiện nghĩa vụ
- Đối tượng: Tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá
* Xử lý tài sản bảo đảm
Theo quy định tại Điều 299 BLDS 2015, các trường hợp được xử lý tài
sản bảo đảm bao gồm: Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; bên có nghĩa vụ
phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo
thỏa thuận hoặc theo quy định pháp luật; trường hợp khác do các bên thỏa thuận
hoặc luật có quy định.
Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm: BLDS 2015 không đưa ra nguyên tắc
xử lý tài sản bảo đảm mà chỉ quy định về nghĩa vụ thông báo việc xử lý tài sản
bảo đảm của bên xử lý tài sản bảo đảm trước khi xử lý tài sản bảo đảm tại Điều

300. Việc thông báo này bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản và phải báo trước
một khoảng thời hạn hợp lý cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo bảm
biết. Trong trường hợp bên xử lý tài sản bảo đảm không thông báo về việc xử lý
tài sản bảo đảm dẫn đến thiệt hại cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo
đảm thì phải bồi thường thiệt hại.
25


×