Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

ĐĂNG ký KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT của nước CHDCND lào THỰC TRẠNG và PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.22 MB, 71 trang )

B ộ Gi ẢO DỤC v \ BẢO 'iV.,0
rBUỜNỊỈ B ậ í ĨÍ.ỌC LUẬT ỂẮ NỘI

BE£

T uN dK A O

ĐÃNG KÝ KINH ỉ to *NH tU hO pị;.,ị}: U- ẢĨ

■CỦA' NỈ/ỜCI; CHĐCNB. LÀO - THỤCĩìtẬlNCỈ; VẰ
IH.-Í

ilO Ẳ K í HỊỈ:. '^

L ĩ'Ậ ị\ VÁN TK .-\C -Si

ỈÁ: ị: ĩ ụ o c

HN

trniĩ

06
1

rri

1

■■ ỉf


i: 2
’ề

ĩ' -k

IM NỘI ^ M i

1994


[ầ
tạ.


^ ■

........

......... ............. —

B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

B ộ T ư PHÁP

I

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI









BEEPHETTONGKAO
TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐAI HỌC LUẬT H.À M ỘI:
P HÒNG DỌC

ĐĂNG KÝ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT
CỦA NƯỚC CHDCND LÀO-THựC TRẠNG VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIÊN

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SÓ :60 38 50

LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC








NGƯỜI HƯỚNG DẪN :
PGS, TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ N Ộ I-2011


! ■ ■ ■ ■ ' ■



'

1m

- .......-


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo, PGS, TS Nguyễn Viết Tý, người
đã gợi mở cho tôi lựa chọn đề tài này để làm đề tài luận văn thạc sĩ và thầy
đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo tại Trường Đại
học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy giáo, cô giáo Khoa Pháp luật kinh tế,
đã trang bị cho tôi kiến thức khoa học trong suốt thời gian học tại trường,
cảm ơn hệ thống thông tin thư viện của trường đã giúp đỡ và tạo điều kiện
cho tôi hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên

Beephet TongKao


CHỬ VIẾT TẮT


CHDCND Lào: Cộng hòa dân chủ nhân dân lào
CTTNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
ĐKKD : Đăng ký kinh doanh
ĐNDCM Lào: Đảng nhân dân cách mạng Lào
GPKD: Giấy phép kinh doanh
UBND: ủ y ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DN : Doanh nghiệp
LDN : Luật Doanh nghiệp
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ ĐẢNG KÝ KINH DOANH VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
1.1.

5

KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA CỦA HOẠT ĐỘNG ĐĂNG

5

KÝ KINH DOANH
1. 1. 1. Khái niệm đăng ký kinh doanh


5

1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của hoạt động đăng ký kinh doanh

7

1.2.

CÁC YÉU TÓ CHI PHỐI PHÁP LUẬT VÈ ĐĂNG KÝ KINH

9

DOANH Ở LÀO HIỆN NAY

1.2.1. Tính chất của nền kinh tế

9

1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền tự do kinh doanh

10

1.2.3. Hội nhập kinh tế quốc tế

11

1.3.

PHÁP LUẬT ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA MỘT SÓ NƯỚC


12

TRÊN THÉ GIỚI

1.3.1. Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Cộng hòa Liên bang Đức

12

1.3.2. Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Singapore

13

1.3.3. Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Pháp

14

1.3.4. Pháp luật đăng ký kinh doanh ở Trung quốc

15

1.3.5. Pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam

16

Chương 2. TH ựC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ
KINH DOANH Ở CHDCND LÀO
2.1.

19


KHÁI QUÁT HỆ THÓNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẢNG KÝ KINH

19

DOANH CỦA CHDCND LÀO

2.2.

THƯC
TRANG
ÁP DUNG QUY ĐINH CỦA PHÁP LUẢT VÈ




X.





ĐĂNG KÝ KINH DOANH Ở CHDCND LÀO

23

2.2.1. Quy định của pháp luật về quyền thành lập doanh nghiệp và
quản lý doanh nghiệp

23


2.2.2. Thực trạng quy định về cơ quan có thẩm quyền ĐKKD

26

2.2.3. Sự quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh

30


2.2.4.

Quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục ĐKKD

38

2.2.5.

Pháp luật về giải quyết tranh chấp và xử ỉý vi phạm trong hoạt
động ĐKKD

44

Chương 3. MỘT SỐ KIÉN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH Ở
CHDCND LÀO HIỆN NAY
3.1.

48


THƯC TIỀN THI HÀNH PHÁP LUÃT VÈ ĐĂNG KÝ KINH




DOANH Ở CHDCND LÀO

48

3.1.1.

Những kết quả đã đạt được

48

3.1.2.

Một số vướng mắc, tồn tại của quá trình thực hiện quy định pháp
luật về đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp ở Lào hiện nay

50

3.2.

MỜTVÀI KIÉNNGHI HOÀN THIÊN PHÁP LUẢT VÈ ĐKKD

54

3.2.1.


Hoàn thiện các quy định về điều kiện ĐKKD

54

3.2.2.

Hoàn thiện đối với công tác “hậu kiểm”

57

3.2.3.

Hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục ĐKKD

58

3.2.4.

Hoàn thiện các quy định về cơ quan ĐKKD

58

3.2.5.

Hoàn thiện các quy định về giải quyết tranh chấp và xử lý vi










phạm trong hoạt động ĐKKD

61

KẾT LUẬN

63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

64


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Từ năm 1986 đến nay, Lào tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đặc
biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Đó là chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ tự cung, tự cấp
sang kinh tế sản xuất hàng hoá. Chính sách kinh tế nhiều thành phần nhận được
sự thống nhất tại Đại hội IV Đảng NDCM Lào đã đem lại những chuyển biến
tích cực đối với sự phát triển kinh tế ở CHDCND Lào. Quan điểm thừa nhận sự
tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong cơ cấu kinh tế được tiếp tục khẳng định
qua các lần Đại hội lần thứ V, VI của Đảng NDCM Lào: "Cơ cấu kinh tế ở
CHDCND Lào là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu,

nhiều hình thức tẻ chức kinh tế cùng tồn tại lâu dài, các thành phần kinh, tế đều
bình đẳng trước pháp luật và hoạt động dưới sự quản lỷ của nhà nước theo cơ
chế thị trường, vừa hợp tác kinh doanh, vừa cạnh tranh lành mạnh
Trên cơ sở quan điểm này, Đảng và Nhà nước Lào đã tiến hành hàng
loạt các biện pháp kinh tế, trong đó có hoạt động đăng ký kinh doanh. Đăng
ký kinh doanh là khâu đầu tiên của các nhà đầu tư trong hoạt động kinh
doanh. Thông thường, theo pháp luật của các nước phát triển hoạt động cấp
giấy đăng ký kinh doanh là dễ dàng và nhanh chóng. Để điều chỉnh hoạt động
đăng ký kinh doanh có hiệu quả và ổn định, năm 1994 Quốc hội CHDCND
Lào đã thông qua các đạo luật: Luật Kinh doanh, Luật Khuyến khích Đầu tư
trong nước, Luật Khuyến khích Đầu tư nước ngoài. Năm 2005, Quốc hội
CHDCND Lào đã thông qua Luật Doanh nghiệp thay cho Luật Kinh doanh
(1994). Pháp luật về đăng ký kinh doanh đã tạo hành lang pháp lý an toàn cho
hoạt động kinh doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế, mở rộng năng lực sản
xuất kinh doanh, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các
nhà kinh doanh, đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm và phát triển các loại
hình kinh doanh. Sự phát triển về số lượng của các loại hình doanh nghiệp ở


2

nước CHDCND Lào trong mấy năm gần đây đã minh chứng cho hoạt động
đăng ký kinh doanh ở CHDCND Lào đã và đang đi đúng hướng, khai thác
được các tiềm năng kinh tế, giải quyết đúng đắn các quan hệ kinh tế đối ngoại
và các nhu cầu khác của xã hội. Nền kinh tế quốc dân Lào đang từng bước
phát trien và tạo được lòng tin nhất định vào sự nghiệp đổi mới trong quần
chúng nhân dân.
Tuy nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng ổn định, nhưng chưa thực sự
làm cho các nhà đầu tư hài lòng trong hoạt động xin cấp giấy đăng ký kinh
doanh; còn có các hiện tượng gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong hoạt

động xin cấp giấy đăng ký kinh doanh, vấn đề này tồn tại là do nhiều nguyên
nhân khác nhau. Qua nghiên cứu tìm hiểu, cá nhân tôi nhận thấy rằng, một
trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hoạt động đăng ký kinh doanh khó
khăn, chậm chạp, kéo dài là do vấn đề pháp luật đăng ký kinh doanh chưa
hoàn thiện, quan hệ hoạt động đăng ký kinh doanh vẫn còn diễn ra không
thuận lợi, không nhanh chóng và kịp thời; quan điểm của một số cán bộ nhà
nước trong các cơ quan thực hiện việc cấp giấy đăng ký kinh doanh là chưa
thực sự đúng đắn theo chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước đã đăt
ra. Điều này đã dẫn đến gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư trong hoạt
động đầu tư cũng như Nhà nước Lào trong hoạt động quản lý kinh tế. Thực
tiễn đặt ra là cần sớm hoàn thiện pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về
đăng ký kinh doanh nói riêng.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Đãng kỷ kinh doanh theo pháp luật của
nước CHDCND Lào - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” mang tính cấp
thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm đáp ứng
được nhu cầu của các nhà đầu tư, tạo thuận lợi trong hoạt động cấp giấy đăng
ký kinh doanh, làm cho các nhà đầu tư thấy rằng đây là quyền năng thực sự của

công dân và khi công dân muốn thực hiện quyền này thì Nhà nước phải công
nhận và có các biện pháp bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của họ.


3

2. Mục đích nghiên cứu của việc nghiên cứu đề tài

Luận văn hướng đến mục đích làm sáng tỏ quy định của pháp luật Lào
hiện hành về đăng ký kinh doanh, nêu lên thực trạng pháp luật từ đó đưa ra một
số kiến nghị để đóng góp cho quá trình xây dựng pháp luật về ĐKKD tại Lào.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài


Ở nước CHDCND Lào trong những năm gần đây, qua nghiên cứu của
tác giả cho thấy chưa có đề tài nào chuyên nghiên cứu về đăng ký kinh doanh,
mà chỉ dừng lại ở một số bài viết về đăng ký thành lập doanh nghiệp trong các
bài báo, bài viết đơn lẻ nói sơ qua về hoạt động đăng ký kinh doanh.
Từ đó có thể nói ràng cho tới thời điểm này, ở Lào vẫn chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện nhằm hoàn
thiện pháp luật về đăng ký thành lập doanh nghiệp.
4. Phạm vi nghiên cứu

Khóa luận chủ yếu nghiên cứu quy định của pháp luật Lào hiện hành về
đăng ký kinh doanh gồm những vấn đề: thẩm quyền; Điều kiện; trình tự thủ
tục; giải quyết tranh chấp trong đăng ký kinh doanh. Cụ thể được quy định
trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, trên cơ sở có đối chiếu với một số hệ
thống pháp luật doanh nghiệp một số nước trên thế giới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây
dựng và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN, thực chất là dân chủ hoá trong đời sống kinh tế
- xã hội để phát huy mọi tiềm năng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Luận văn vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận
của triết học Mác - Lênin, của lý luận nhà nước và pháp luật, trong điều kiện


4

cơ chế kinh tế mới. Trong đó, luận văn đặc biệt chú ý đến việc vận dụng
phương pháp biện chứng và phương pháp lịch sử để phân tích, so sánh, đối


chiếu, tổng hợp trong quá trình giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn

Luận văn có những điểm mới sau:
- Luận văn là công trình đầu tiên ở Lào nghiên cứu một cách có hệ
thống lý luận về đăng ký kinh doanh;
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật của nước
CHDCND Lào về đăng ký kinh doanh;
- Luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp hoàn thiện những
chế định pháp luật quan trọng có liên quan trực tiếp đến đăng ký kinh doanh.

về mặt thực tiễn, luận văn đã đưa ra những kiến nghị cụ thể góp phần
vào hoạt động xây dựng pháp luật về đăng ký kinh doanh của nước CHDCND
Lào trong thời gian tới nhằm đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về đăng ký kinh doanh và pháp luật về đăng ký
kinh doanh;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh ở CHĐCN Lào
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật đăng ký kinh
doanh ở CHĐCN Lào.


5

CHƯƠNG 1

TỒNG QUAN VÊ ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VÈ
ĐĂNG KÝ KINH DOANH
1.1. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẢNG KÝ
KINH DOANH

1.1.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh

ĐKKD là một thuật ngữ trong hệ thống thuật ngữ luật học ở CHĐCN
Lào hiện nay. Thuật ngữ ĐKKD xuất hiện lần đầu tiên trong Luật Kinh doanh
(1994) và tiếp tục được sử dụng trong các văn bản pháp luật sau này.
Dưới góc độ kinh tế, kinh doanh là một phạm trù gắn liền với sản xuất
hàng hóa, là tổng thể các hình thức, phương thức và biện pháp nhằm tổ chức
các hoạt động kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng của cải vật chất của xã hội nhằm mục tiêu
thu về một giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Dưới góc độ pháp lý, “kinh doanh” là thực hiện liên tục một hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợ i.
Từ điển Lào giải thích từ “đăng ký” dưới hai nội dung như sau:
Thứ nhất: Chính thức ghi vào văn bản của cơ quan pháp luật những
thông tin cần thiết về sự kiện làm cơ sở phát sinh hoặc chấm dứt những quan
hệ pháp lý nhất định.
Thứ hai: Bằng chứng công nhận bắt đầu sự tồn tại hoặc chấm dứt một
sự kiện hoặc hiện tượng pháp luật.
Như vậy, từ cách định nghĩa trên có thể xem xét thuật ngữ “đăng ký
kinh doanh” trên các phương diện sau:


6


- về phương diện kỉnh tế: ĐKKD là hoạt động của DN tuy không trực
tiếp tạo ra của cải vật chất hay những dịch vụ nhằm thu lợi nhuận về cho DN
song nó là những hoạt động đầu tiên tạo tiền đề cần thiết để DN có thể tiến
hành được hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Vì vậy, trong giai đoạn
tiến hành ĐKKD, DN chưa ra đời, song những chi phí trong quá trình ĐKKD,
thành lập DN vẫn được tính vào chi phí hợp lý của DN và được khấu trừ
trong khi tính thuế.
- về phương diện quản lý Nhà nước: ĐKKD được coi là một biện pháp
quản lý Nhà nước về kinh tế. Việc ĐKKD tạo tiền đề cho việc quản lý thống
nhất đổi với các DN trong phạm vi cả nước, từ đó đưa ra các biện pháp hỗ trợ
cần thiết, đảm bảo quyền và lợi ích của từng loại hình DN. Thông qua việc
ĐKKD, cơ quan Nhà nước có các thông tin cần thiết về một DN, tạo điều kiện
để quản lý đầu tiên của Nhà nước đối với DN để Nhà nước giám sát, quản lý
các hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN.
- về phương diện chính trị: ĐKKD được hiểu là một quyền tự do dân
chủ của công dân. Quyền tự do thành lập DN và ĐKKD là nội dung cơ bản
của quyền tự do kinh doanh, là tiền đề thực hiện các quyền khác thuộc nội
dung quyền tự do kinh doanh [20, Tr 40 ]. Tự do kinh doanh về thực chất là
khả năng của chủ thể được thực hiện những hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm, cung cấp dịch vụ kinh doanh dưới những hình thức thích hợp với khả
năng vốn, khả năng quản lý của mình nhằm thu lợi nhuận. Tuy nhiên, quyền
này phải được hiểu là tự do trong “khuôn khổ”, dân chủ phải tập trung và bình
đẳng trước pháp luật. Như vậy, điều này tùy thuộc vào hệ thống pháp luật và
khả năng của các cơ quan Nhà nước trong việc thực thi pháp luật, đặc biệt là
những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến tự do kinh doanh.
- về phương diện pháp lý: ĐKKD là một thủ tục pháp lý bắt buộc đối
với DN tham gia mới và tham gia lại thị trường. Đó chính là hoạt động “khai


7


sinh một doanh nghiệp”. Với tư cách là một chế định pháp lý, ĐKKD là tổng
hợp các quy định do Nhà nước ban hành quản lý sự xuất hiện trên thị trường
của một chủ thể kinh doanh mới. Chính vì vậy, chủ thể trực tiếp tiến hành
hoạt động kinh doanh phải khai báo theo đúng quy định của pháp luật về các

nội dung cụ thể, còn cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành ghi tên vào
sổ sách của Nhà nước đồng thời cấp cho chủ thể ĐKKD giấy chứng nhận
ĐKKD. ở một số quốc gia trên thế giới, để thành lập DN và đưa DN vào hoạt
động nhà đầu tư cần thực hiện hai công việc độc lập nhau, đó là: đăng ký
thành lập DN và đăng ký ngành, nghề kinh doanh. Tại Lào, đăng ký kinh
doanh bao gồm hai việc diễn ra đồng thời là: đăng ký thành lập DN và đăng
ký lĩnh vực kinh doanh của DN [20, Tr 45].
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của hoạt động đăng ký kinh doanh

ĐKKD là một thủ tục pháp lý bắt buộc đối với tất cả các DN khi tham
gia vào một hoạt động kinh doanh. ĐKKD có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với Nhà nước và đối với DN ở mỗi quốc gia khác nhau.
- Đổi với Nhà nước:
Thứ nhất, ĐKKD tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền có khả năng kiểm soát được thị trường kinh tế nói chung như: số lượng
chủ thể, lĩnh vực, ngành, nghề tham gia hoạt động, khu vực hoạt động, hiệu
quả kinh doanh của từng DN... Và đây chính là cơ sở để các cơ quan Nhà
nước hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý Nhà nước của mình.
Thứ hai, ĐKKD giúp cho các cơ quan Nhà nước chủ động trong việc
nắm bắt các chủ thể tham gia thị trường kinh tế, từ đó có các biện pháp điều

tiết và can thiệp phù hợp đối với nền kinh tế, bảo đảm cho các chủ thể mới khi
tham gia vào thị trường có được các quyền lợi cơ bản của mình đồng thời có
điều kiện thuận lợi hơn để có thể tồn tại và phát triển.



8

Thứ ba, ĐKKD tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước nắm bắt được
các yếu tố mới trong kinh doanh, đảm bảo nền kinh tế phát triển hiện đại phù
hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Thông qua hồ sơ
ĐKKD, Nhà nước xem xét quyết định thành lập và phát triển các doanh
nghiệp Nhà nước chủ chốt theo nguyên tắc ngành, nghề nào xã hội cần nhưng
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không có khả năng đầu tư thì
Nhà nước sẽ đầu tư và ngược lại, để phát triển nền kinh tế hiện đại, vì sự phát
triển chung của toàn xã hội nhưng không xa rời đường lối của Đảng và Nhà
nước, xa rời mục tiêu XHCN.
- Đổi với doanh nghiệp:
Thứ nhất, ĐKKD là hoạt động cần thiết để khai sinh ra DN, để DN
tham gia vào thị trường chung và có thể tiến hành hoạt động kinh doanh một
cách hợp pháp. Thông qua ĐKKD, địa vị pháp lý, các quyền, các nghĩa vụ,
các lợi ích hợp pháp của DN được Nhà nước xác nhận và bảo vệ. Từ thời
điểm cấp giấy chứng nhận ĐKKD, DN có tư cách pháp lý đầy đủ để tiến hành
sản xuất, kinh doanh hợp pháp mà không bị sự can thiệp trái pháp luật nào
của bất cứ tổ chức, cá nhân nào vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
Thứ hai, ĐKKD là điều kiện để DN tồn tại và phát triển. Việc ĐKKD
cho DN là một bảo đảm pháp lý quan trọng giúp bạn hàng của DN biết được
rằng, người giao dịch với mình có đủ tư cách pháp lý để tham gia quan hệ
pháp luật hay không? Hoạt động kinh doanh là nhằm mục đích lợi nhuận, bởi
vậy độ tin cậy lẫn nhau là một yếu tố quan trọng đảm bảo an toàn trong kinh
doanh. Chính vì vậy, ĐKKD tạo niềm tin to lớn cho các bạn hàng khi tham
gia vào các giao dịch. Đây chính là cơ sở để DN đứng vững trong môi trường
kinh doanh hiện nay.
Thứ ba, ĐKKD là điều kiện để DN tự giải thoát mình ra khỏi thị

trường, thoát khỏi sức ép từ các hoạt động kinh doanh (sức ép từ phía các bạn


9

hàng, sức ép từ chính bản thân DN) khi không còn đủ sức để trụ vững trong
nền kinh tế bằng thủ tục tuyên bố phá sản. Thông qua thủ tục phá sản, doanh
nghiệp sẽ chấm dứt sự tồn tại và hoạt động của mình.
1.2.

CÁC YỂU TÓ CHI PHỚI PHÁP LUẬT VÈ ĐĂNG KÝ KINH DOANH Ở

LÀO HIỆN NAY

1.2.1. Tính chất của nền kinh tế

Hoạt động ĐKKD được thực hiện dựa trên quan điểm chỉ đạo: thể chế
đường lối đối mới, chủ trương chính sách của Đảng về phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Cơ sở pháp lý quan trọng khuyến khích các chủ thể tham gia hoạt động
sản xuất, kinh doanh được quy định tại Điều 16, Hiến pháp 2003: “Phát huy
mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế
Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh
tế tư bản Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức, cá nhân
thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh những ngành, nghề
mà pháp luật không cấm, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh
tranh theo pháp luật”. Như vậy, Hiến pháp đã xóa bỏ hoàn toàn sự phân biệt
đối xử, tình trạng bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khi ĐKKD giữa
Nhà nước hay tư bản, tư nhân. Từ đó, tạo nên một sân chơi bình đẳng, thu hút

ngày càng lớn số lượng các chủ thể tham gia vào hoạt động ĐKKD.
Đặc điểm nền kinh tế thị trường Lào được xây dựng từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung. Cho nên, vấn đề đặt ra đối với pháp luật về ĐKKD là
phải xóa triệt để cơ chế cũ đã lỗi thời và lạc hậu này, tạo cơ chế vận hành nền
kinh tế thị trường theo những quy luật riêng, khách quan, vừa phải đảm bảo
nền kinh tế Nhà nước “được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành và
lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền


10

tảng vững chăc của nên kinh tê quốc dân” ( điêu 19, Hiến pháp năm 2003).
Đây là một vấn đề mang tính nhạy bén, do đó cần phải nghiên cứu cẩn thận,
sâu sắc để phát triển lành mạnh nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN.
Tóm lại, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Lào đòi hỏi pháp
luật về ĐKKD phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
* Tạo hành lang pháp lý vững chắc để mọi thành phần kinh tế, mọi
công dân yên tâm, chủ động phát huy mọi tiềm năng vào sản xuất, kinh
doanh;
* Tạo ra cơ chế pháp lý đảm bảo một cách có hiệu quả sự bình đẳng
thực sự giữa các thành phần kinh tế;
* Đấu tranh phòng và chống một cách có hiệu quả những mặt tiêu cực
nảy sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp, chính đáng của DN, công dân và người tiêu dùng.
1.2.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền tự do kinh doanh

Quyền tự do kinh doanh là một trong những bộ phận họp thành quyền
tự do dân chủ của công dân. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1986)
với chủ trương chuyển đổi cơ chế quản lý sang hoạt động theo cơ chế thị

trường có sự quản lý của Nhà nước, tự do kinh doanh trở thành nguyên tắc
hiến định và quyền tự do kinh doanh đó đã trở thành một quyền cơ bản của
công dân. Hiến pháp 2003 quv định tại điều 52 như sau: “Công dân có quyền
tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 của
Nước CHDCND Lào: “Bảo đảm cho mọi công dân có quyền đầu tư, kinh
doanh trong những lĩnh vực, ngành, nghề, địa bàn mà pháp luật không cẩm,
quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền bình đảng


11

trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và phát triển, trong cung cấp và
tiếp cận thông tin
Từ quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước nêu trên, pháp luật về
ĐKKD phải được cụ thể hóa thành những quy phạm pháp luật thông thoáng,
các thủ tục đơn giản, gọn nhẹ để các chủ thể được thực hiện các quyền tự do
kinh doanh của mình. Quyền tự do kinh doanh của các chủ thể phải được đặt
trong sự quản lý của Nhà nước để có được tự do thật sự và toàn diện, tự do
trong sự bình đẳng với các chủ thể khác. Không có vai trò của Nhà nước,
quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư chỉ còn là hình thức.
1.2.3. Hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế, hiểu theo một cách chặt chẽ là việc gắn kết
mang tính thiết chế giữa các nền kinh tế với nhau. Hay nói cách khác, hội
nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một
mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế
giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế
quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế
khu vực và toàn cầu. Vì vậy, Lào phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự

phân công lao động quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học
kỹ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên
tắc bình đẳng cùng có lợi.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn trong chính sách đối
ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước Lào. Nhà nước Lào đang tạo một môi
trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với các điều
ước quốc tế mà Lào đã tham gia ký kết, xây dựng một khung pháp luật cho
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ độc quyền kinh
doanh, cải thiện môi trường đầu tư, từng bước thống nhất pháp luật áp dụng
đối với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.


12

1.3.

PHÁP LUẬT ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRỂN

THẾ GIỚI

Pháp luật về ĐKKD là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp
luật của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, ở các nước có nền kinh tế, xã hội, chính trị
khác nhau thì các quy định pháp luật về ĐKKD cũng khác nhau rất nhiều. Và
điểm khác biệt cơ bản nhất về ĐKKD giữa các quốc gia là cơ quan nào có
thẩm quyền quản lý và cấp giấy chứng nhận ĐKKD. Hiện nay, trên thế giới
hình thành hai mô hình tổ chức đăng ký DN cơ bản là:
- Mô hình 1: Cơ quan ĐKKD nằm trong hệ thống tòa án.
- Mô hình 2: Cơ quan ĐKKD nằm trong tổ chức của một Bộ máy hoặc
một ban của Chính phủ.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, em xin giới thiệu về mô hình tổ

chức ĐKKD ở nước CHLB Đức, Singapore, Trung Quốc, Việt Nam.
1.3.1. Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Cộng hòa Liên bang Đức

- Cơ quan ĐKKD: Tòa án Hành chính là cơ quan có thẩm quyền trong
việc ĐKKD ở Đức. Tất cả các loại hình công ty sau khi được thành lập đều
phải đăng ký vào danh bạ thương mại của Nhà nước theo những quy định của
Luật Thương mại. Các tòa án Hành chính bang đều có danh bạ thương mại
này.
- Thủ tục ĐKKD: Trước khi đăng ký một DN vào danh bạ thương mại,
tòa án phải tiến hành các thủ tục kiểm tra chặt chẽ về mặt pháp lý đối với việc
thành lập DN đó. Một trong những quy định đó là vốn tối thiểu khi thành lập
DN.
Ngoài ra, đế được ghi tên vào danh bạ thương mại, công ty phải đáp
ứng những điều kiện nhất định như phải có giấy phép hành nghề của cơ quan
quản lý ngành; chủ DN có kiến thức nghiệp vụ tối thiểu về ngành, nghề DN


13

hoạt động. Ví dụ: Muốn hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tổ chức bảo hiểm,
dịch vụ tài chính thì DN phải có giấy phép của Nhà nước.
Điều đặc biệt là pháp luật về ĐKKD của Đức không bắt buộc loại hình
công ty hợp danh phải ĐKKD. Nếu không đăng ký vào danh bạ thương mại,
công ty này có thể đăng báo rộng rãi. Sự đăng báo này cũng có giá trị pháp lý
tương tự như đăng ký vào sổ danh bạ thương mại.
1.3.2. Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Singapore

- Cơ quan ĐKKD: pháp luật Singapore đề cao trách nhiệm cá nhân của
nhân viên Nhà nước thực hiện công tác ĐKKD. Cơ quan ĐKKD ở nước này
chính là những nhân viên đăng ký. Những nhân viên này thuộc biên chế của

cơ quan công cộng do Bộ trưởng Bộ tài chính trực tiếp bổ nhiệm, hoạt động
theo pháp luật và chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật..[ 23, Tr 21].
Nhân viên ĐKKD có các phó và trợ lý cũng là những nhân viên công cộng
được Bộ trưởng Bộ tài chính trực tiếp bổ nhiệm để giúp việc. Nhân viên
ĐKKD có thể giao phó cho một cá nhân bất kỳ toàn bộ hoặc một phần trách
nhiệm, quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo các điều kiện và giới hạn mà nhân
viên này cho là phù họp với thực hiện quy định của luật.
Quyền hạn của nhân viên ĐKKD là rất lớn. Nhân viên đăng ký có
quyền quyết định mọi vấn đề ĐKKD trong phạm vi pháp luật cho phép theo ý
chủ quan của mình.
- Thủ tục ĐKKD ở Singapore được thực hiện rất đơn giản. Chủ thể
kinh doanh hoặc người đại diện cho doanh nghiệp chỉ cần làm đơn gửi tới
nhân viên đăng ký. Đơn đăng ký bao gồm các nội dung chủ yếusau:

Tên

doanh nghiệp; trạng thái chung của doanh nghiệp; trụ sở chính củadoanh
nghiệp và các trụ sở khác của doanh nghiệp...
Đe đảm bảo cho việc quản lý nhà nước trong quá trình hoạt động của
doanh nghiệp trong khi thủ tục “khai sinh” DN rất đơn giản, Singapore đã đề


14

ra những biện pháp quản lý và xử lý ngiêm khắc các hành vi vi phạm như
phạt tiền 100$ Singapore hay bắt giam đến 06 tháng; quy định giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh chỉ có giá trị pháp lý trong vòng 01 năm, sau thời
hạn đó doanh nghiệp phải xin gia hạn.
Việc quy định các thủ tục đơn giản ở Singapore xuất phát từ tiền đề
kinh tế-xã hội .Singapore là nước công nghiệp phát triển, có nền kinh tế thị

trường đúng nghĩa, ý thức tôn trọng pháp luật và thực hiện pháp luật của
người dân rất cao.
1.3.3. Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Pháp

- Cơ quan ĐKKD: Tòa án pháp là nơi thực hiện đăng ký kinh doanh
thông qua phòng lục sự.
- Thủ tục ĐKKD: ở Pháp để có thể kinh doanh các chủ thể phải đáp
ứng điều kiện vốn pháp định. Công ty TNHH phải có vốn tối thiểu là
50.000F. Thành viên công ty TNHH không được góp vốn bằng khả năng như
(uy tín hay kinh nghiệm) vào công ty, trừ trường hợp công ty do hai vợ chồng
thành lập. Với loại hình công ty trách nhiệm vô hạn thì pháp luật Pháp không
quy định mức vốn tối thiểu để thành lập công ty.
Pháp không quy định người quản lý công ty nhất thiết phải là người có
quốc tịch Pháp, họ có thể là người nước ngoài với điều kiện có thẻ thương
gia. Pháp cũng quy định khi đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp phải có
giấy phép hoạt động của các Bộ quản lý chuyên ngành.
Trước khi gửi hồ sơ ĐKKD đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
doanh nghiệp Pháp phải thông báo trước về việc thành lập công ty trên một tờ
thông tin hợp pháp, ghi rõ những đặc thù của công ty. Đây là một thủ tục có
sự khác biệt so với đa số những quy định ở các nước khác vì thường sau khi
được cấp giấy chứng nhận ĐKKD, DN mới tiến hành hoạt động thông báo về
việc thành lập của mình.


15

Việc thiết lập trung tâm xí nghiệp bên cạnh phòng Công thương nghiệp
là cơ quan duy nhất, cũng là cơ quan tiếp nhận hồ sơ ĐKKD đã tạo điều kiện
cho việc ĐKKD ở Pháp rất thuận lợi và nhanh chóng. Thay vì gửi hồ sơ đến
tất cả các cơ quan có liên quan thì doanh nghiệp chỉ gửi thông báo đến Trung

tâm xí nghiệp. Trung tâm xí nghiệp sẽ có trách nhiện xem xét hồ sơ, gửi đến
các cơ quan liên quan và Tòa án - cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy
ĐKKD để hoàn thành thủ tục pháp lý. Cho nên, thời gian hoàn thành thủ tục
ĐKKD ở Pháp rất ngắn. Thực hiện chế độ “một cửa” là ưu điểm lớn nhất của
pháp luật về đăng kỷ kinh doanh.
1.3.4. Pháp luật đăng ký kinh doanh ở Trung quốc

- Cơ quan ĐKKD'. ở Trung Quốc việc ĐKKD được tập trung ở một cơ
quan hành chính nhà nước - Cục quản lý hành chính công thương. Cục quản
lý hành chính công thương có trách nhiệm quản lý ĐKKD trong toàn quốc.
Nhiệm vụ của cục quản lý hành chính công thương là ĐKKD, đăng ký quảng
cáo, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, quản lý thị trường.
Ngoài ra giúp việc cho Cục quản lý hành chính công thương là Vụ đăng
ký quản lý doanh nghiệp với các phòng ban của mình. Vụ đăng ký quản lý
doanh nghiệp có chức năng : dự thảo hoặc tham gia dự thảo quy định về
ĐKKD; giám sát và thanh tra các hoạt động ĐKKD; quản lý các hồ sơ liên
quan đến đăng ký doanh nghiệp.
- Thủ tục ĐKKD: Thủ tục ĐKKD ở Trung Quốc có 2 bước.
Bước 1: Xin phê duyệt tên.
Đây là quy định thể hiện sự khác biệt của Trung Quốc. Tên gọi của
công ty phải được cơ quan ĐKKD phê duyệt trước. Chỉ khi Cục quản lý hành
chính công thương ra “thông tri xét duyệt trước tên gọi xí nghiệp” thì doanh
nghiệp mới được tiến hành bước 2 làm thủ tục xin gia nhập. Tên công ty đã
được xét duyệt có thời hạn bảo hộ trong vòng 06 tháng. Trong thời hạn này


16

tên gọi của công ty được xét duyệt trước không được dung cho hoạt động
kinh doanh, không được chuyển nhượng. Nếu sau thời hạn đó mà người thành

lập doanh nghiệp không hoàn thành thủ tục tiếp theo hoặc không tiếp tục
thành lập doanh nghiệp thì tên đó đương nhiên hết hiệu lực [ 23, Tr 25 ].
Bước hai: Xin thành lập và đăng ký.
Trung Quốc đã nhập hai thủ tục thành lập và đăng ký thành một. Người
đại diện có giấy chứng nhận ủy quyền của người thành lập doanh nghiệp sẽ
tiến hành các thủ tục gửi hồ sơ xin thành lập doanh nghiệp đến cơ quan đăng
ký kinh doanh. Trung Quốc vẫn coi điều kiện vốn pháp định là điều kiện để
ĐKKD thể hiện ở quy định hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp có giấy
chứng nhận đã kiểm tra vốn do cơ quan kiểm tra vốn có thẩm quyền cấp. Với
những ngành nghề mà pháp luật quy định trước khi xin đăng ký doanhn
nghiệp phải báo cáo để để ngành có liên quan phê duyệt, đồng thời phải nộp
văn bản phê chuẩn cho cơ quan ĐKKD. Chỉ sau khi được cấp “giấy chứng
nhận pháp nhân doanh nghiệp” thì công ty mới đủ tư cách pháp nhân để tiến
hành các hoạt động chuẩn bị cho sản xuất, kinh doanh.
ở 'Trung Quốc, Cục quản lý hành chính công thương đã thực hiện đồng
thời nhiệm vụ ĐKKD và quản lý sự hoạt động của DN. Do đó đã giảm bớt
các đầu mối kiểm tra, kiểm soát chồng chéo của nhiều cơ quan, tránh được sự
phiền hà cho doanh nghiệp, tạo điều kiện để nhà nước thực hiện việc quản lý
tập trung, thống nhất các DN trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên việc thành lập
doanh nghiệp ở Trung Quốc còn phải trải qua hai bước khá phức tập về thủ
tục và trình tự. vốn pháp định và các loại giấy phép của ngành chủ quản vẫn
là hai yếu tố bắt buộc phải có trong điều kiện thành lập và ĐKKD.
1.3.5. Pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam

-

Cơ quan đăng kỷ kinh doanh: cơ quan đăng ký kinh doanh được tổ

chức ở cả Trung ương và địa phương tạo thành hệ thống cơ quan Nhà nước có



17

chức năng quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Việc quy định như vậy của
Việt Nam là rất hợp lý. Xuất phát từ sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam từ
nhu cầu ĐKKD của các chủ thể hiện này không chỉ diễn ra ở các khu kinh tế
lớn nữa mà đã mở rộng ra phạm vi cả nước. Vì vậy xây dựng hệ thống cơ
quan đăng ký kinh doanh ở cả khu vực địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc các chủ thể tiến hành hoạt động đăng ký,góp phần thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế địa phương. Mặt khác, pháp luật quy định không chỉ các
phòng ban thuộc Sở Ke Hoạch Đầu Tư mới có quyền cấp giấy ĐKKD mà còn
trao thẩm quyền này cho các cơ quan khác như Ban quản lý khu chế xuất, khu
công nghiệp, điều này đã tạo ra sự linh hoạt trong cấp phép ĐKKD cho các
chủ thể hoạt động trong khu vực này, mặt khác giảm tải gánh nặng cho các cơ
quan chuyên môn nhà nước.
- Thủ tục ĐKKD:
+ Chuẩn bị hồ sơ nộp tại cơ q

sơ ĐKKD bao

gồm: giấy đề nghị ĐKKD, văn bản xác nhận phần vốn góp của các thành
viên, các giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể của các thành viên, bên cạnh đó
nếu doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực yêu cầu chứng chỉ hành nghề yêu cầu
mức vốn pháp định thì phải có văn bản chứng chỉ xác nhận các yêu cầu này.
Pháp luật Việt Nam quy định hồ sơ khá đơn giản nhưng vẫn chặt chẽ đảm bảo
đầy đủ thông tin về chủ thể. Mặt khác việc pháp luật quy định không phải mọi
ngành nghề đều yêu cầu mức vốn pháp định, đã đặt ra điều kiện cần thiết với
các chủ thể cần đáp ứng nhưng vẫn tạo sự thông thoáng linh hoạt cho các chủ
thể có nhu cầu kinh doanh biết nên lựa chọn lĩnh vực kinh doanh nào.
+ Cơ quan có thâm quyên xem xét và ra quyêt định câp hoặc không câp

giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Cơ quan có thẩm quyền( phòng ĐKKD, Ban quản lý khu công nghiệp)
tiếp nhận hồ sơ của chủ thể, xem xét trong thời hạn 10 ngày làm việc. Căn cứ


18

vào nội dung, giấy tờ trong hồ sơ ĐKKD mà chấp nhận cấp giấy ĐKKD nếu
hồ sơ hợp lệ, đầy đủ; nếu từ chối cấp phải nêu rõ lý do. Pháp luật Việt Nam
quy định thời gian này tương đối nhanh, điều này góp phần cho sự ra đời của
doanh nghiệp - chủ thể của nền kinh tế.
+ Công bố thông tin về đăng ký kinh doanh.
Đây là thủ tục bắt buộc mà các doanh nghiệp phải thực hiện, việc công
bố thực hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng giúp công khai thông
tin doanh nghiệp tạo điều kiện để khách hàng tìm hiểu, mặt khác giúp doanh
nghiệp quảng bá tên tuổi trên thị trường, hỗ trợ các cơ quan ĐKKD kiểm tra
được hoạt động của DN.


19

CHƯƠNG 2
TH ựC TRẠNG PHÁP LUẬT VÈ ĐĂNG KÝ KINH DOANH Ở






CHDCND LÀO

2.1.

KHÁI QUÁT HỆ THÓNG PHÁP LUẬT VÈ ĐĂNG KÝ KINH DOANH

CỦA CHDCND LÀO

Lào xuất phát điểm là một nước nghèo nên các hoạt động kinh doanh
xuất hiện muộn hơn so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Do
vậy, pháp luật về kinh doanh nói chung, ĐKKD nói riêng cũng có lịch sử hình
thành và phát triển ngắn hơn. Nhìn chung các quy định pháp luật ĐKKD ở
Lào được hình thành từ những năm năm mươi của thế kỷ XX. Trong khi đó,
pháp luật về ĐKKD xuất hiện sớm ở các nước Châu Âu, đặc biệt là ở nước
Pháp vào thế kỷ XVII (1973). Đầu thế kỷ XX, Lào vẫn là một nước thuộc địa
của Pháp vì thế hoạt động thương mại được điều chỉnh bởi Bộ luật thương
mại của Pháp ( được ban hành năm 1807).
Sau khi Đảng và Nhà nước tiến hành công cuộc phát triển kinh tế cơ
chế thị trường, định hướng XHCN. Trong thời gian vừa qua, Nhà nước Lào
đã quan tâm nghiên cứu các loại hình Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền
kinh tế thị trường ở Lào. Quá trình này đã được bắt đầu từ đại hội IV của
Đảng (1986) chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Quán triệt đường lối đổi mới này, năm 1988 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu
tư nước ngoài, ghi nhận các hình thức DN liên doanh, DN 100% vốn đầu tư
nước ngoài, đánh dấu sự xuất hiện các loại hình chủ thể kinh doanh mới ở
nước Lào. Nhất là sau khi ban hành Hiến pháp 1991. Tình hình kinh tế - xấ
hội đã đặt ra cho khoa học kinh tế cũng như khoa học pháp lý của Lào phải
xem xét việc hoạt động và quản lý đối với xí nghiệp quốc doanh. Để đáp ứng
được yêu cầu kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới, Thủ tướng Chính phủ đã



×