Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo " Hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam trong nền kinh tế thị trường - thực trạng và phương hướng hoàn thiện " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.25 KB, 7 trang )



xây dựng pháp luật
Tạp chí luật học - 65




iệc nghiên cứu một cách toàn diện hệ
thống các văn bản pháp luật kinh tế, để có
một cái nhìn tổng thể về hệ thống pháp luật kinh
tế, nhận xét về các u điểm và nhợc điểm của
cả hệ thống và của từng văn bản, nhằm gợi mở
những vấn đề mới nảy sinh và đề xuất những
kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật này là
điều cần thiết.
Có thể phân chia hệ thống các văn bản pháp
luật kinh tế thành ba nhóm, đó là: Nhóm các
văn bản pháp luật về kinh tế và quản lí kinh tế,
nhóm các văn bản về tổ chức và hoạt động của
các doanh nghiệp và nhóm các văn bản phục vụ
việc tổ chức và quản lí nền kinh tế. Bài viết này chỉ
xin trình bày khái quát và những điểm mới của
những văn bản pháp luật kinh tế quan trọng nhất.
1. Những văn bản pháp luật cơ bản về
kinh tế và quản lí kinh tế
Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp của thời
kì đổi mới mạnh mẽ và toàn diện của nớc ta.
Những quan điểm của Đảng và Nhà nớc về
việc xây dựng và tổ chức nền kinh tế thị trờng
nhiều thành phần theo định hớng XHCN đ


đợc thể hiện rõ trong chơng hai chế độ kinh
tế. Hiến pháp đ quy định một loạt các vấn đề
cơ bản của nền kinh tế thị trờng theo định
hớng XHCN. Hiến pháp nhấn mạnh nguyên
tắc quản lí kinh tế trong nền kinh tế thị trờng
là: Nhà nớc thống nhất quản lí nền kinh tế
quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách.
Phân công trách nhiệm và phân cấp quản lí nhà
nớc giữa các ngành, các cấp; kết hợp lợi ích
của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà
nớc (Điều 26). Các quy định của Hiến pháp là cơ
sở, nền tảng cho việc xây dựng hệ thống các văn
bản pháp luật quản lí kinh tế ở nớc ta hiện nay.
Văn bản pháp luật quan trọng hàng đầu, là
xơng sống của của hệ thống pháp luật kinh tế
trong nền kinh tế thị trờng là Bộ luật dân sự
(1995). Bộ luật này đ pháp điển hoá nhiều quy
định về nền kinh tế thị trờng nh pháp nhân,
hợp đồng, quyền sở hữu tài sản, hộ gia đình, tổ
hợp tác Bộ luật dân sự cũng đ hệ thống hoá
nhiều văn bản pháp luật đơn hành về kinh tế
trớc đây trong một chỉnh thể thống nhất, thí dụ
nh những quy định về chuyển quyền sử dụng
đất, những quy định về quyền tác giả, quyền sở
hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ
T duy kinh tế đ có nhiều thay đổi trong
nền kinh tế thị trờng. Sức lao động đ đợc coi
là loại hàng hoá đặc biệt mà pháp luật cần phải
bảo hộ. Bộ luật lao động (1994) đ pháp điển
hoá một loạt các quy định về lao động và sức

lao động nh việc làm, hợp đồng lao động, tiền
lơng, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, kỉ
luật lao động, an toàn - vệ sinh lao động, bảo
hiểm x hội, giải quyết tranh chấp lao động,
V

* Trờng đại học luật Hà Nội
TS. Trần Ngọc dũng *


Xây dựng pháp luật
66 - Tạp chí luật học

quản lí nhà nớc về lao động Bộ luật lao động
thực sự là căn cứ pháp lí không thể thiếu để bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của ngời lao
động, của ngời sử dụng lao động, làm cho sức
lao động đợc sử dụng một cách có hiệu quả
nhất và ngày càng phát triển bền vững.
Vai trò và tầm quan trọng của đất đai trong
nền kinh tế thị trờng đ đợc thể hiện rõ trong
Luật đất đai (1993).Với sự phát triển và tăng
trởng thờng xuyên, liên tục của nền kinh tế,
các yếu tố liên quan đến đất đai đòi hỏi các quy
định về đất đai phải đợc sửa đổi, bổ sung một
cách kịp thời và thích hợp. Quốc hội đ thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
đất đai (2001). Luật đất đai đ có những quy
định khá đầy đủ, cụ thể về: Quản lí nhà nớc về
đất đai, chế độ sử dụng các loại đất, quyền và

nghĩa vụ của ngời sử dụng đất, việc Nhà nớc cho
tổ chức, cá nhân nớc ngoài thuê đất
Luật thơng mại (1997) đ thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế thị trờng và cụ thể hoá
thêm các quy định của Bộ luật dân sự. Một
điểm cần đặc biệt lu ý là khái niệm thơng
mại trong đạo luật này đợc hiểu theo nghĩa
tơng đối hẹp. Đó là việc mua-bán những hàng
hoá hữu hình và giới hạn trong 14 hành vi
thơng mại đợc quy định trong Điều 45. Luật
thơng mại điều chỉnh các hành vi thơng mại,
xác định địa vị pháp lí của thơng nhân và quy
định những nguyên tắc chuẩn mực trong hoạt
động thơng mại tại nớc ta.
Để có căn cứ pháp lí cho việc khai thác và
phát huy tiềm năng cũng nh giá trị kinh tế của
các nguồn tài nguyên, khoáng sản trên đất nớc
ta, Luật khoáng sản đ đợc ban hành năm
1996. Đối tợng điều chỉnh của Luật khoáng
sản là hoạt động quản lí, bảo vệ, điều tra cơ bản
địa chất về tài nguyên khoáng sản và hoạt động
khoáng sản.
Trong nền kinh tế thị trờng, Nhà nớc tạo
ra hành lang pháp lí thông thoáng cho các công
dân cũng nh các doanh nghiệp phát huy hết sự
năng động, sáng tạo của mình. Các công dân
cũng nh các doanh nghiệp phải hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật và tuân thủ nghiêm
chỉnh những quy định hiện hành. Nếu ai cố tình
vợt ra khỏi các chuẩn mực, gây thiệt hại cho

các cá nhân, các doanh nghiệp khác hoặc cho
Nhà nớc thì đều phải bị xử lí một cách nghiêm
minh. Bộ luật hình sự (1999) là căn cứ pháp lí
quan trọng và cần thiết bảo đảm cho hoạt động
kinh tế đợc tiến hành một cách đúng đắn, bảo
đảm lợi ích của các bên.
Chơng XIV của Bộ luật hình sự đ quy
định về các tội xâm phạm sở hữu. Những hình
phạt rất nghiêm khắc đ đợc áp dụng để xử
phạt các tội nh lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ
trái phép tài sản, sử dụng trái phép tài sản, thiếu
trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản của Nhà nớc.
Với những quy định rất rõ ràng, cụ thể,
trong Chơng XVI, Bộ luật hình sự đ quy định
những hình phạt đích đáng với các tội xâm
phạm trật tự quản lí kinh tế, trong đó có các tội
chỉ có trong nền kinh tế thị trờng. Ngoài ra, Bộ
luật hình sự còn quy định các hình phạt đối với
các tội phạm về môi trờng, thí dụ nh tội huỷ
hoại nguồn lợi thuỷ sản, tội huỷ hoại rừng
2. Những văn bản pháp luật về tổ chức và
hoạt động của các doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trờng theo định
hớng XHCN, loại hình doanh nghiệp giữ vị trí
chủ đạo là doanh nghiệp nhà nớc. Theo Luật
doanh nghiệp nhà nớc (1995), doanh nghiệp
nhà nớc đợc phân thành hai loại: Doanh
nghiệp nhà nớc hoạt động kinh doanh và

doanh nghiệp nhà nớc hoạt động công ích. Mỗi
loại doanh nghiệp này có cơ chế tổ chức và hoạt
động khác nhau để bảo đảm lợi ích của doanh
nghiệp cũng nh của Nhà nớc. Luật doanh
nghiệp nhà nớc đ có những quy định rất cụ


xây dựng pháp luật
Tạp chí luật học - 67

thể và chi tiết về quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp nhà nớc, thành lập, tổ chức lại, giải thể,
phá sản doanh nghiệp nhà nớc, quản lí nhà
nớc và thực hiện quyền sở hữu của Nhà nớc
đối với doanh nghiệp nhà nớc, tổ chức quản lí
doanh nghiệp nhà nớc, quản lí phần vốn của
Nhà nớc ở các doanh nghiệp
Hợp tác x là hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh phổ biến nhất của nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hớng XHCN. Vì vậy,
việc tạo lập cơ sở pháp lí đầy đủ và vững chắc
cho việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức
kinh tế này là việc cần thiết. Luật hợp tác x
(1996) với các quy định khá đầy đủ và chi tiết
về địa vị pháp lí của loại hình doanh nghiệp phổ
biến trong nền kinh tế nớc ta từ hàng chục năm
nay đề cập hàng loạt các vấn đề quan trọng liên
quan đến tổ chức và hoạt động của các hợp tác
x nh thành lập và đăng kí kinh doanh; x
viên; tổ chức và quản lí hợp tác x; tài sản và tài

chính của hợp tác x; hợp nhất, chia tách, giải
thể, phá sản hợp tác x; quản lí nhà nớc đối với
hợp tác x
Các điều lệ mẫu của các hợp tác x là loại
nguồn luật đặc biệt, vì chúng là cơ sở, là khuôn
mẫu cho các hợp tác x xây dựng nên điều lệ
riêng của mỗi hợp tác x - văn bản bản pháp lí
điều chỉnh hoạt động kinh doanh hàng ngày của
các hợp tác x ở nớc ta. Bằng việc ban hành
các nghị định năm 1997, Chính phủ đ tạo ra cơ
sở pháp lí cho việc tổ chức và hoạt động của sáu
loại hình hợp tác x. Luật hợp tác x và các điều
lệ mẫu của hợp tác x đ quy định các vấn đề
quan trọng của hợp tác x trong nền kinh tế thị
trờng, thể hiện sự hoà nhập của các hợp tác x
nớc ta với các hợp tác x trên thế giới.
Năm 1990, để tạo điều kiện cho nhiều loại
hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng
hình thành và phát triển, Nhà nớc ta đ ban
hành Luật công ti và Luật doanh nghiệp t
nhân. Trong hơn 10 năm qua, nền kinh tế của
nớc ta có nhiều biến đổi khả quan, nhu cầu hội
nhập ngày càng to lớn, pháp luật về các loại
hình doanh nghiệp ngày càng phải đợc bổ
sung, hoàn thiện và có tính tơng thích với pháp
luật của các nớc khác trên thế giới. Luật doanh
nghiệp (1999) đ thay thế cho Luật công ti và
Luật doanh nghiệp t nhân.
Luật doanh nghiệp có những quy định về
hai loại hình công ti mới, đó là công ti TNHH

một thành viên (là các tổ chức) và công ti hợp
danh. Chính phủ cũng đ ban hành một số nghị
định để đa Luật doanh nghiệp đi vào cuộc
sống và phát huy tác dụng tích cực của nó. Các
quy định về vốn pháp định, hàng loạt giấy
phép con đ đợc bi bỏ, nhiều loại cổ đông và
cổ phần khác nhau đ đợc quy định làm cho
môi trờng kinh doanh ngày càng tự do và
thông thoáng, phát huy đợc ngày càng mạnh
mẽ sự năng động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm
của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trờng.
Để đổi mới doanh nghiệp nhà nớc, nâng
cao hiệu quả của các doanh nghiệp này đồng
thời để thi hành một cách nghiêm túc Luật
doanh nghiệp, năm2001, Chính phủ đ ban hành
Nghị định số 63/2001 vể chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nớc, doanh nghiệp của tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - x hội thành công ti
TNHH một thành viên. Điều này có tác dụng
làm cho vốn của Nhà nớc đợc sử dụng một
cách linh động và có hiệu quả hơn, các doanh
nghiệp năng động hơn chứ không ỷ lại Nhà
nớc nh trớc và nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các doanh nghiệp nhà nớc hoặc
doanh nghiệp của các tổ chức.
Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam đợc
ban hành năm 1996 đ thay thế cho Luật đầu t
nớc ngoài năm 1987 và đợc Quốc hội sửa đổi,
bổ sung vào năm 2000. Với việc ban hành đạo
luật này, Nhà nớc ta khuyến khích các nhà đầu t

nớc ngoài đầu t vào Việt Nam trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền và tuân thủ pháp luật


Xây dựng pháp luật
68 - Tạp chí luật học

của Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có
lợi. Nhà nớc ta bảo hộ quyền sở hữu đối với
vốn đầu t và các quyền lợi hợp pháp của nhà
đầu t nớc ngoài, tạo điều kiện thuận lợi và thủ
tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu t
nớc ngoài đầu t vào Việt Nam. Luật đầu t
nớc ngoài cũng quy định các lĩnh vực và địa
bàn khuyến khích đầu t, các hình thức đầu t,
các biện pháp bảo đảm đầu t, quyền và nghĩa
vụ của nhà đầu t nớc ngoài và doanh nghiệp
có vốn đầu t nớc ngoài, quản lí nhà nớc về
đầu t nớc ngoài.
Theo Luật ngân hàng nhà nớc Việt Nam và
Luật các tổ chức tín dụng (1997), Ngân hàng
nhà nớc thực hiện chức năng quản lí nhà nớc
về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; Các đạo luật
này đ thể hiện rõ chính sách của Nhà nớc ta
về xây dựng và hiện đại hoá các loại hình tổ
chức tín dụng ở Việt Nam.
Chính phủ cũng đ ban hành Nghị định số
16/2001- NĐ/CP về tổ chức và hoạt động của
công ti cho thuê tài chính.
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động rất quan

trọng và rất phổ biến trong nền kinh tế thị
trờng. Luật kinh doanh bảo hiểm (2000) điều
chỉnh việc tổ chức và kinh doanh bảo hiểm, xác
định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và cá
nhân tham gia bảo hiểm.
Một trong những dấu hiệu đặc trng cơ bản
nhất của nền kinh tế thị trờng là có thị trờng
vốn. Năm 1998 Chính phủ đ ban hành Nghị
định số 48/1998- NĐ/CP về chứng khoán và thị
trờng chứng khoán. Nghị định này đ có
những quy định cụ thể về hoạt động phát hành
chứng khoán ra công chúng, thị trờng giao
dịch tập trung, công ti chứng khoán, quản lí nhà
nớc về chứng khoán và thị trờng chứng
khoán
Ngày 14/4/1999, Chính phủ cũng đ ban
hành Nghị định số 22/1999 quy định về đầu t
ra nớc ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.
3. Các văn bản pháp luật phục vụ cho
việc tổ chức và quản lí nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trờng theo định
hớng XHCN, Nhà nớc không còn can thiệp
sâu vào hoạt động tác nghiệp hàng ngày của các
doanh nghiệp mà điều chỉnh nền kinh tế ở tầm
vĩ mô thông qua việc ban hành các chính sách
hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành
phần kinh tế phát triển. Luật khuyến khích đầu
t trong nớc (1994) đ đợc thay thế bằng
Luật khuyến khích đầu t trong nớc (1998).
Quan hệ kinh tế là mối quan hệ dân sự đặc

biệt. Quan hệ này chủ yếu là nhằm mục đích
kinh doanh và có mục tiêu là lợi nhuận. Vì vậy,
nó cần phải đợc thể hiện dới hình thức đặc
biệt và có những chế tài đặc biệt bảo đảm việc
thi hành nó. Năm 1989, Hội đồng Nhà nớc đ
thông qua Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Để đáp ứng yêu cầu năng động, khẩn trơng
của các quá trình kinh tế, các tranh chấp kinh tế
cần phải đợc giải quyết một cách nhanh gọn,
thiết thực. Quốc hội đ thông qua Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà án
nhân dân, thành lập toà kinh tế (1993) và Uỷ
ban thờng vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994). Với các
văn bản này, các tranh chấp xảy ra trong kinh
doanh đ đợc xử lí theo cách thức khác với
cách giải quyết các vụ kiện dân sự để giảm bớt
chi phí, rút ngắn thời gian xét xử, đạt đợc hiệu
quả cao hơn.
Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trờng còn có cơ hội lựa chọn việc giải quyết
tranh chấp kinh tế một cách chủ động hơn,
nhanh gọn hơn, ít tốn kém về thời gian và chi
phí vật chất hơn đồng thời cũng kín đáo hơn
thông qua việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại
các trung tâm trọng tài phi Chính phủ. Nghị
định số116/CP (1990) của Chính phủ về việc


xây dựng pháp luật

Tạp chí luật học - 69

thành lập các trung tâm trọng tài kinh tế (phi
Chính phủ) đ thay thế cho Pháp lệnh trọng tài
kinh tế.
Để tạo ra cơ sở pháp lí cần thiết cho việc
tuyên bố phá sản doanh nghiệp và giảm bớt đến
mức thấp nhất những bất lợi cho x hội, hạn chế
những thiệt hại của các chủ nợ và con nợ, Quốc
hội đ thông qua Luật phá sản doanh nghiệp
(1993). Với các quy định của mình, Luật phá
sản doanh nghiệp là công cụ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu t; góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của ngời lao động.
Đạo luật này cũng là công cụ tái tổ chức lại
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, góp phần cơ cấu
lại nền kinh tế và qua đó, nó góp phần bảo vệ
trật tự, kỉ cơng x hội.
Để tạo ra những cơ sở pháp lí tơng thích
với hệ thống pháp luật của đa số các nớc trên
thế giới có nền kinh tế thị trờng đồng thời để
bảo đảm cho nền tài chính của Việt Nam ngày
càng lành mạnh, bảo đảm nguồn thu cho ngân
sách nhà nớc ngày càng hợp lí và đợc đảm
bảo vững chắc, có sự tăng trởng, Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp (1997) đ thay thế cho Luật
thuế lợi tức và Luật thuế giá trị gia tăng đ thay
thế cho Luật thuế doanh thu trớc đây.
Để hớng dẫn thi hành hai luật thuế này,
Chính phủ đ ban hành Nghị định số 30/1998

quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp và Nghị định số 79/2000 quy định
chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng.
Để đáp ứng những yêu cầu về những hình
thức thanh toán tài chính mới trong nền kinh tế
thị trờng, Uỷ ban thờng vụ Quốc hội đ ban
hành Pháp lệnh thơng phiếu (1999).
4. Nhận xét về pháp luật kinh tế trong nền
kinh tế thị trờng ở Việt Nam và kiến nghị
nhằm hoàn thiện hệ thống này
Trong những năm vừa qua, hệ thống các văn
bản pháp luật kinh tế đ góp phần đáng kể vào
việc hình thành cơ chế quản lí kinh tế mới, tạo
lập hành lang pháp lí thông thoáng, tạo điều
kiện cho sự phát triển năng động của các doanh
nghiệp. Hệ thống pháp luật này cũng góp phần
vào việc hình thành nhiều thành phần kinh tế mới,
thúc đẩy việc giao lu và phát triển kinh tế, mở
rộng thị trờng trong và ngoài nớc, ổn định và làm
lành mạnh hoá nền tài chính của đất nớc
Tuy vậy, hiện nay vẫn đang tồn tại thực
trạng là các văn bản pháp luật kinh tế hiện hành
vẫn cha hoàn chỉnh, cha đồng bộ, thiếu thống
nhất, mâu thuẫn giữa các văn bản, còn chung
chung còn nhiều điều bất cập, hạn chế quyền
chủ động và cha phát huy hết tiềm năng của
các chủ thể kinh doanh, cha đáp ứng những
yêu cầu to lớn của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc.
Vì vậy, cần có những đổi mới mạnh mẽ và

sửa đổi một cách căn bản và có hệ thống các
văn bản pháp luật kinh tế hiện hành, làm cho
các văn bản này thực sự đóng vai trò là cơ sở
pháp lí cần thiết cho sự phát triển năng động,
sáng tạo của nền kinh tế.
Tôi xin đề xuất một số kiến nghị có tính
khái quát đối với việc sửa đổi và hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh tế của nớc ta nh sau.
1. Cần xây dựng Bộ luật kinh doanh, trong đó
quy định địa vị pháp lí của tất cả các loại hình
doanh nghiệp hiện có tại Việt Nam.
Hiện tại, Luật doanh nghiệp đ có các quy
định về địa vị pháp lí của 5 loại hình doanh
nghiệp khác nhau. Tuy vậy, đây vẫn cha phải
là toàn bộ các loại hình doanh nghiệp hiện có
tại Việt Nam. Cần phải bổ sung các quy định về
địa vị pháp lí của các loại hình doanh nghiệp
khác trong nền kinh tế nớc ta vào nội dung của
Luật doanh nghiệp và đổi tên gọi Luật doanh
nghiệp thành Bộ luật kinh doanh. Nói cách
khác, cần nhất thể hoá các đạo luật đơn hành
hiện nay nh Luật doanh nghiệp nhà nớc, Luật
hợp tác x, Luật đầu t nớc ngoài và cụ thể hoá
hơn nữa các quy định của Bộ luật dân sự về tổ


Xây dựng pháp luật
70 - Tạp chí luật học

hợp tác, về hộ gia đình trong văn bản pháp lí

đầy đủ và hoàn chỉnh về các chủ thể kinh doanh
trong nền kinh tế thị trờng của nớc ta. Mặc dù
các loại hình doanh nghiệp kể trên có thể có
nhiều điểm khác nhau về quy mô, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động, chế độ sở hữu tài sản, cơ chế
quản lí, nguồn vốn nhng tất cả chúng đều có
điểm chung, đó là hoạt động kinh doanh nhằm
mục tiêu lợi nhuận hoặc hiệu quả kinh tế-x hội.
Trong nền kinh tế thị trờng, các loại hình
doanh nghiệp này đều cần có sự bình đẳng trớc
pháp luật, có quyền tự do kinh doanh và đều cần
đợc khuyến khích một cách thích đáng. Văn
kiện của đại hội Đảng lần thứ IX đ chỉ rõ "tiếp
tục phát huy những tác động tích cực của Luật
doanh nghiệp, tiến tới xây dựng một luật áp
dụng thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp
khác nhau thuộc các thành phần kinh tế".
(1)

Trong Bộ luật kinh doanh, các vấn đề nh
các nguyên tắc kinh doanh trong nền kinh tế thị
trờng, quyền tự do kinh doanh, cơ chế thành
lập, cơ cấu lại, giải thể, phá sản của các doanh
nghiệp có thể đợc quy định trong các chơng
chung. Còn những điểm đặc thù của từng loại
doanh nghiệp, các quyền và nghĩa vụ của từng
loại doanh nghiệp khác nhau thì có thể và sẽ
đợc quy định trong các chơng riêng. Trên thế
giới đ có một số nớc có đạo luật nh vậy, tuy
rằng nội dung của các quy định cha thực sự cụ

thể và chi tiết ở mức cần thiết.
2. Cần xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự áp
dụng chung cho cả tố tụng kinh tế, tố tụng lao
động và tố tụng hôn nhân và gia đình.
Các công trình nghiên cứu cụ thể và chi tiết
đ cho thấy có đến 80% các quy định trong các
thủ tục tố tụng nêu trên là giống nhau. Chỉ có
khoảng 20% các quy định của các loại tố tụng
trên là khác nhau. Vì vậy, tôi cho rằng hoàn
toàn có thể và cần phải quy định các vần đề
chung về tố tụng dân sự, kinh tế, lao động và
hôn nhân và gia đình trong một số chơng của
Bộ luật tố tụng dân sự. Còn những điểm đặc thù
của từng loại hình tố tụng thì đợc quy định
trong những chơng riêng của Bộ luật này.
3. Cần xây dựng Luật hợp đồng kinh tế thay
thế cho Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đ lạc hậu
và bất cập.
Trong luật này cần thể hiện rõ đặc trng cơ
bản của hợp đồng kinh tế là nhằm mục đích
kinh doanh, mu cầu lợi nhuận và quy định
nguyên tắc hàng đầu của việc giải quyết các
tranh chấp liên quan đến hợp đồng kinh tế là
nhanh gọn, ít tốn kém về thời gian, công sức và
chi phí, làm cho các quá trình kinh tế đợc diễn
ra nhanh chóng, đạt hiệu quả cao.
Tôi cho rằng cần mở rộng phạm vi của các
đối tợng tham gia kí kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế, bởi vì, nếu chỉ giới hạn phạm vi chủ thể
kí kết hợp đồng kinh tế là pháp nhân và các cá

nhân có đăng kí kinh doanh thì sẽ loại bỏ hàng
loạt các chủ thể kinh tế khỏi lĩnh vực kí kết và
thực hiện các hợp đồng kinh tế, mặc dù mục đích
kí kết hợp đồng của các chủ thể này cũng là kinh
doanh và mu cầu lợi nhuận; thí dụ nh trờng
hợp các doanh nghiệp t nhân hoặc công ti hợp
danh, tổ hợp tác kí kết hợp đồng với nhau.
4. Cần xây dựng Luật về khuyến khích và
bảo đảm đầu t.
Hiện nay, các quy định về bảo đảm và
khuyến khích đầu t đang đợc quy định trong
ba văn bản pháp luật khác nhau. Điều đó dẫn
đến việc không nhất quán và rờm rà, có nhiều
mâu thuẫn giữa các hình thức khuyến khích đầu
t, gây ra sự bất hợp lí và bất bình đẳng giữa các
nhà đầu t. Khi đ nhất thể hoá các đạo luật đơn
hành về địa vị pháp lí của các loại hình doanh
nghiệp vào Bộ luật kinh doanh thì cũng cần tập
trung các quy định về bảo đảm và khuyến khích
đầu t vào trong một đạo luật. Đó là Luật
khuyến khích và bảo đảm đầu t. Trong đạo luật
này, cần có các chơng quy định chung về
chính sách bảo đảm và khuyến khích đầu t của
Nhà nớc. Đồng thời, cũng cần có các chơng


xây dựng pháp luật
Tạp chí luật học - 71

quy định riêng về một số đặc thù của ba loại

khuyến khích đầu t khác nhau.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX cũng đ
đề cập vấn đề này: "Xây dựng Luật đầu t trên
cơ sở thống nhất Luật đầu t nớc ngoài tại
Việt Nam và Luật khuyến khích đầu t trong
nớc".
(2)

5. Mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật
thơng mại.
Trong thời đại ngày nay, các mối quan hệ
kinh tế ngày càng trở nên phong phú, có nhiều
loại hàng hoá có thể mua bán, trao đổi trên thị
trờng. Nếu chỉ coi hàng hoá hữu hình mới là
đối tợng điều chỉnh của Luật thơng mại thì đó
là điều bất cập và gây ra nhiều hạn chế, trở ngại
cho các mối quan hệ thơng mại và ảnh hởng
đến quyền lợi của các thơng nhân. Vì vậy, tôi
cho rằng cần mở rộng phạm vi điều chỉnh của
Luật thơng mại sang cả lĩnh vực các hàng hoá
vô hình, dịch vụ, nh chuyển giao công nghệ,
mua bán bản quyền tác giả Hiệp định thơng
mại Việt Nam - Hoa Kì cũng đ quy định rất
nhiều loại hình dịch vụ là đối tợng của hoạt
động thơng mại giữa hai nớc. Trong tơng
lai, khi Việt Nam gia nhập WTO thì các dịch vụ
đó cũng là đối tợng của thơng mại giữa Việt
Nam và nhiều nớc khác trên thế giới.
6. Cần ban hành pháp lệnh quy định tính
cỡng chế của các phán quyết của các trung tâm

trọng tài.
Uỷ ban thờng vụ Quốc hội cần ban hành
văn bản này để tăng tính hiệu quả của các phán
quyết của các trung tâm trọng tài phi Chính phủ
và khắc phục đợc mâu thuẫn hiện nay giữa việc
công nhận tính pháp lí của các phán quyết của
trọng tài nớc ngoài và không công nhận tính
pháp lí của các trung tâm trọng tài trong nớc.
7. Cần quy định đất đai có nhiều hình thức
sở hữu (sở hữu nhà nớc, sở hữu tập thể, sở
hữu t nhân).
Từ khi diễn ra quá trình đổi mới đến nay,
"nhu cầu" về bất động sản (nhà- đất) là rất lớn,
cần đợc thoả mn từ những nguồn "cung"
chính đáng và hợp pháp. Đất đai cần đợc coi là
loại hàng hoá có giá trị đặc biệt; Nhà nớc, các
tập thể, tổ chức và cá nhân cần đợc phép mua
bán đất trên thị trờng theo quy định của pháp
luật. Có nh vậy thì mới tạo điều kiện cho việc
hình thành thị trờng bất động sản và tránh thất
thu khoản thuế to lớn cho Nhà nớc. Chúng ta
nên nhớ lại rằng trớc khi có Hiến pháp 1980, ở
Việt Nam có bốn hình thức sở hữu đất đai khác
nhau và không phải vì thế mà Nhà nớc không
quản lí đợc đất đai. Mặt khác, hiện nay, trên
thế giới có trên 200 nớc mà hầu nh duy nhất
ở Việt Nam là đất đai chỉ thuộc quyền sở hữu
của Nhà nớc.
8. Cần xây dựng và ban hành Luật cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền.

Cạnh tranh là quy luật phổ biến trong nền
kinh tế thị trờng, kể cả trong nền kinh tế thị
trờng theo định hớng XHCN ở nớc ta. Đó là
nguyên tắc hoạt động có tính sống còn của các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Mặt khác, có những khu vực kinh tế và những
lĩnh vực mà Nhà nớc phải nắm giữ để bảo đảm
sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh
tế, của chế độ x hội nên cũng cần có cơ chế
độc quyền thích hợp. Do đó, việc xây dựng và
ban hành một đạo luật về cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền là vấn đề hết sức cần thiết và cấp
bách. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX cũng
đ chỉ rõ:"Chống đặc quyền và lũng đoạn thị
trờng, ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền trong kinh doanh phù hợp với những
điều kiện thực tế của Việt Nam"
(3)
./.

(1).Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr.320-321.
(2).Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr.329.
(3).Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr.322.

×