Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.02 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế 60B
Bài tập lớn môn:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài:

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”

1


A-

Tình hình đất nước lúc bấy giờ:

Trong giai đoạn 1920-1945, phong trào cách mạng vô sản trên thế giới
diễn ra sôi động và đạt được nhiều thắng lợi to lớn, đồng thời phong trào giải
phóng dân tộc cũng diễn ra mạnh mẽ:
Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh
chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền hay chủ nghĩa đế quốc. Từ đó, nhu cầu
về thuộc địa càng trở nên quan trọng. Sự bành trướng lãnh thổ của các nước đế
quốc đã dẫn đến một mâu thuẫn mới: đó là mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa
và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Mâu thuẫn này trở nên là một mâu
thuẫn cơ bản, hết sức sâu sắc và gay gắt của thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Năm 1848, chủ nghĩa Mác Ăng-ghen hình thành về cơ bản và đã nói lên
quy luật tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản kèm theo đó là sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội , chủ nghĩa cộng sản. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề
thuộc địa đã dẫn tới chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) và khiến cho chủ


nghĩa tư bản thời kỳ này có phần suy yếu. Trong bối cảnh đó, sự thắng lợi của
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (7/11/1917) mở ra thời đại
mới- thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đồng thời làm nảy
sinh mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Tháng 3/1919, quốc tế cộng sản do Lênin sáng lập trở thành cơ sở tham
mưu cho phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế và phong trào giải
phóng dân tộc. Cùng với đó chủ nghĩa Mác dần xâm nhập vào các nước thuộc
địa, làm thức tỉnh ý thức dân tộc của người dân khiến cho phong trào giải phóng
dân tộc diễn ra mạnh mẽ.
Về bối cảnh trong nước, qua hai cuộc khai thác thuộc địa, thực dân Pháp
cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường
tiêu thụ hàng hoá của chính quốc gây biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội, giai
cấp. Thực dân Pháp vẫn duy trì phương thức bóc lột kinh tế ở nông thôn vì vậy

2


nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam lúc này song
song tồn tại hai mâu thuẫn, mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn giữa nông dân với
địa chủ phong kiến vẫn tiếp tục diễn ra và mâu thuẫn mới hình thành là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp. Công nhân, nông dân,
tiểu tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp phong kiến địa chủ mâu thuẫn gay
gắt với bọn cướp nước và bán nước, từ đó đặt ra yêu cầu cấp bách cần giải quyết
trước hết là mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam với thực dân đế quốc
cùng bè lũ tay sai của chúng. Song, trước khi Đảng Cộng sản ra đời thì các tổ
chức yêu nước và cách mạng chưa nhận thức được mâu thuẫn chủ yếu này.
Nhân dân ta không ngừng đứng lên kháng chiến nhưng tất cả đều bị dìm
trong máu lửa do nhiều nguyên nhân khác nhau mà nguyên nhân lớn nhất là
nhận thức sai mâu thuẫn và khủng hoảng đường lối cứu nước.
Vượt qua sự hạn chế về mặt tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách

mạng theo xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết
cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
Năm 1959, trong bài Con đường giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay,
Người đã viết: “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”. Vậy, cách mạng vô sản là gì? tại sao
con đường cách mạng vô sản là duy nhất đúng? xuất phát từ cơ sở lý luận và
thực tiễn nào mà Người đã lựa chọn con đường đó làm con đường dẫn tới độc
lập, hoà bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta? Và nhân dân ta đã vận dụng tư
tưởng này làm cơ sở cho quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
như thế nào?

B- Phân tích câu nói của Hồ Chí Minh:
I- Phân tích luận điểm:
1)

Cách mạng vô sản:

3


Trước hết, theo định nghĩa thì cách mạng vô sản là cuộc cách mạng nhằm
thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân
là giai cấp lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nếu như các cuộc cách mạng trước đó kết thúc bằng việc giành chính
quyền thì đối với cách mạng vô sản, việc giành chính quyền mới chỉ là bước đầu
cho quá trình biến đổi cách mạng toàn bộ đời sống xã hội. Cách mạng vô sản
phải bao gồm cả hai thời kỳ: cách mạng về chính trị với nội dung chính là thiết
lập nhà nước chuyên chính vô sản và tiếp theo là thời kỳ giai cấp công nhân và
nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ về mọi mặt

kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng v.v..., xây dựng xã hội mới về mọi mặt nhằm
thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Mục tiêu của cách mạng vô sản là giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng là giai cấp công nhân
phải đoàn kết với những người lao động khác thực hiện lật đổ chính quyền của
giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột. Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cuộc cách
mạnglà giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động vào
công cuộc tổ chức một xã hội mới về mọi mặt, thực hiện xoá bỏ tình trạng người
bóc lột người để không còn tình trạng dân tộc nàyáp bức, bóc lột dân tộc khác.
Cách mạng vô sản được lãnh đạo bởi giai cấp công nhân bởi giai cấp công
nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, là lực lượng đại biểu cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương
thức sản xuất tương lai; do vậy, về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh
lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xoá bỏ mọi chế độáp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới-xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong chương IV của Tuyên ngôn Đảng Cộng sản,
C.Mác đã chỉ rõ: ”Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản
thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều

4


suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; giai cấp vô sản,
trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp...” Giai cấp công nhân là
giai cấp tiên phong cách mạng, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có ý thức tổ
chức kỷ luật cao và có bản chát quốc tế. Do đó, sứ mệnh đánh đổ giai cấp tư sản
được giao vào tay vô sản là điều không cần bàn cãi.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế-xã hội của giai
cấp này quy định nhưng để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì
phải thông qua nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân mà trong những nhân tố

chủ quan đó thì việc thành lập Đảng Cộng sản là vô cùng quan trọng. MộtĐảng
trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc, vững mạnh về chính
trị,tư tưởng và tổ chức là nhân tố giữ vai trò quyết định nhất đảm bảo cho giai
cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản là tổ
chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của
giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động, sự lãnh đạo của Đảng cũng là
sự lãnhđạo của toàn thể giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản có lợiích cơ bản
thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động,
vì thế Đảng có thể thực hiện giác ngộ quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các
phong trào cách mạng. Đảng Cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp
công nhân và cả dân tộc.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn giành được thắng lợi, giai cấp công
nhân phải thực hiện được sự liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và các
tầng lớp lao động khác nhằm tạo nên khối đại đoàn kết của lực lượng cách
mạng, trong đó nòng cốt là liên minh công-nông. Sự liên minh về mặt chính trị
trở thành cơ sở vững chắc cho Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành nòng cốt
trong mặt trận dân tộc thống nhất, thực hiện khối liên minh rộng rãi với các tầng
lớp lao động khác. Sự liên minh về mặt kinh tếtrở thành một động lực to lớn để
thúcđẩy xã hội phát triển nhất là trong thời kỳ tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ngoài ra liên minh liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân

5


cùng các tầng lớp lao động khác còn bao gồm cả nội dung văn hoá, xã hội.
2)

Cách mạng giải phóng dân tộc:

Cách mạng giải phóng dân tộc là cuộc cách mạng nhằm lật đổ ách thống

trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của
nhân dân.
* Vậy, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải là
hai khái niệm đồng nhất. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh của đất nước ta công cuộc
giải phóng dân tộc lại gắn liền với cách mạng vô sản.
3) Mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản:
Chủ nghĩa Mác chỉ cho các dân tộc bị áp bức thấy rằng, thời đại đế quốc
chủ nghĩa “Tất nhiên cũng phải lại sản sinh ra và nuôi dưỡng cái chính trị đấu
tranh chống áp bức dân tộc và cái chính trị đấu tranh của giai cấp vô sản chống
giai cấp tư sản; bởi vậy, thời kỳ ấy ắt phải làm cho: một là, những cuộc khởi
nghĩa và những cuộc chiến tranh dân tộc cách mạng, hai là những cuộc chiến
tranh và những cuộc nổi dậy của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản, ba là, sự
kết hợp giữa hai hình thức chiến tranh cách mạngđó, trở nên có khả năng xảy ra
và không tránh khỏi.”
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã “nhìn thấy rằng đằng sau những cuộc xung đột
chính trịmang tính chất dân tộc, đằng sau khát vọng của các dân tộc muốn thống
nhất dân tộc, đằng sau những cuộc chiến tranh giữa các quốc gia dân tộc, giữa
một bên là các quốc gia này và một bên là các dân tộc bị nô dịch, là cuộc đấu
tranh của các giai cấp- giai cấp vô sản, giai cấp tư sản, bọn quý tộc ruộng đất,
các tầng lớp xã hội khác./Như vậy, C.Mác và Ph.Ăng-ghen coi cách mạng xã hội
chủ nghĩa làđiều kiện để giải quyết vấn đề dân tộc”(Phong trào công nhân quốc
tế-Những vấn đề lịch sử và lý luận. Tập 1. tr 989-990 ).
Lênin cũng chỉ ra rằng:” mâu thuẫn cơ bản nhất của chủ nghĩa đế quốc là

6


đấu tranh giữa tư sản và vô sản đã đến thời kỳ hiện thực cách mạng. Mâu thuẫn
giữa đế quốc với thuộc địa gắn liền với mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản cũng
mang tính thời sự nóng bỏng của sự nghiệp cách mạng giải phóng.”(Tư tưởng

Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. NXB
Lao động. tr 35).
Qua đây có thể thấy vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Trong thờiđại chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc là một quy luật
khách quan; mục tiêu giải phóng dân tộc và mục tiêu giải phóng giai cấp, giải
phóng con người có mối quan hệ khăng khít. Chỉ có xoá bỏ tận gốc tình trạng áp
bức, bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, mớiđảm
bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sụ phát triển hài
hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do, hạnh phúc của con
người. Do đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được sung sướng, tự do.
*Vậy, tại sao trong hoàn cảnh Việt Nam, cách mạng vô sản là “con đường
duy nhất đúng “để cứu nước và giải phóng dân tộc? Để phân tích quan điểm này
trước tiên chúng ta cần tìm hiểu tận gốc nguyên nhân vì sao và con đường nàođã
dẫn Hồ Chủ tịch đi tới kết luận trên.
4) Hành trình dẫn tới lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, tinh thần vô sản và
việc tìm ra con đường cứu nước của Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh sinh ra trong cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược và
đô hộ, giai cấp phong kiến từng bước nhượng bộ, đầu hàng, làm tay sai cho thực
dân Pháp, các cuộc đấu tranh chống Pháp lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam
rơi vào tình thế “dường như trong đêm tối không có đường ra”. Năm 1911,
Người rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước. Khác với các nhà yêu
nước trước đó ra nước ngoài tìm kiếm sự giúp đỡ, học tập, “cầu viện”, hoặc đào

7


tạo cán bộ để chỉ đạo, chuẩn bị lực lượng, phát động phong trào đấu tranh trong
nước, Hồ Chí Minh quyết định sang Pháp.
Những nhận định ban đầu của Người về nước Pháp đã được thực tiễn

chứng minh là đúng đắn. Đặc biệt, với bước ngoặt tư tưởng khi tiếp xúc với
“Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”, có thể nói, Hồ
Chí Minh đã tìm ra được chìa khóa cho con đường cách mạng Việt Nam. Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời
của cách mạng thế giới; giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa là một bộ phận
của cách mạng thế giới: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là
vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận
mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”(1).
Hồ Chí Minh ví chủ nghĩa đế quốc là một một con đỉa hai vòi, vòi này nó
hút máu nhân dân thuộc địa, vòi kia hút máu giai cấp vô sản và nhân dân lao
động chính quốc. Vì vậy, cần phối hợp chặt chẽ cách mạng ở chính quốc và
thuộc địa để cắt cả hai vòi của con đỉa ấy. Hồ Chí Minh ví chủ nghĩa tư bản như
một con rắn độc, trong đó nọc độc và sức sống của nó tập trung ở các thuộc địa
nhiều hơn là ở chính quốc. Hồ Chí Minh cho rằng, những người khinh thường
cách mạng thuộc địa, đề cao cách mạng chính quốc là những người “muốn đánh
chết rắn đằng đuôi”.
Một bước tiến mới, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về mối
quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa đã được thể hiện
trong tác phẩm Đường Cách mệnh. Trong tác phẩm này, bên cạnh luận điểm
“Nếu công nông Pháp cách mệnh thành công thì dân tộc An Nam sẽ được tự
do”, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư sản
Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng
dễ”(2). Như vậy, từ những nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân và phong trào đấu
tranh ở thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đưa ra dự đoán mang tính then chốt: cách

8


mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng chính quốc, cách mạng Việt
Nam có thể thành công trước cách mạng Pháp. Đồng chí Phạm Văn Đồng nhận

định: “Luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ,...nó nằm trong dòng sáng
tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu
tranh vạch đường cho thời đại”(3).
Theo Hồ Chí Minh, làm cách mạng thực chất là để giải quyết mâu thuẫn
cơ bản trong xã hội. Do đó, để làm cách mạng thành công, trước hết phải xác
định đúng đắn mâu thuẫn xã hội và mâu thuẫn thời đại. Người nhận thấy ở Việt
Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần phải giải quyết: Một là, mâu thuẫn giữa dân
tộc Việt Nam với bọn đế quốc cướp nước; Hai là, mâu thuẫn giữa đông đảo quần
chúng nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến. Từ đó,
Hồ Chí Minh khẳng định: Mâu thuẫn cơ bản trên thế giới lúc bấy giờ là mâu
thuẫn giữa các giai cấp đi áp bức bóc lột và các giai cấp bị áp bức bóc lột; mâu
thuẫn cơ bản ở Việt Nam cần tập trung giải quyết là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với bọn đế quốc cướp nước và tay sai của chúng.
Từ những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đi đến
xác định lực lượng nòng cốt của cách mạng. Người cho rằng, chính các giai tầng
bị áp bức bóc lột sẽ là người thực hiện cuộc cách mạng lật đổ các giai cấp thống
trị mình, giành lấy quyền sống và quyền độc lập, tự do cho chính họ. Với Việt
Nam, lực lượng cách mạng chính là giai cấp công nhân, nông dân, tư sản dân
tộc, tiểu tư sản... Trong đó, “...ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh
càng bền, chí cách mệnh càng quyết...công nông bị áp bức nặng hơn... công
nông là đông nhất nên sức mạnh hơn hết,... nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp
khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc... nên công nông là gốc
cách mệnh”(4).
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng đó phải là,
và chỉ có thể là giai cấp vô sản, trên cơ sở đoàn kết rộng rãi với tất cả các giai

9


tầng yêu nước. Điều này được biểu hiện rõ nét trong Cách mạng Tháng Tám

1945. Khi thời cơ cách mạng đến, Hội nghị Đảng toàn quốc tháng 8-1945 nhận
định: “Chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi của ta và Đồng
minh”(5). Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Bằng sức lực, trí tuệ của dân ta, chưa đầy một
tháng, cách mạng đã thắng lợi trên phạm vi cả nước, đưa Việt Nam bước sang
một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng CNXH.
Tiếp tục kế thừa và phát triển đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, Việt
Nam đã giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong những năm xây dựng CNXH ở miền Bắc, một quan điểm luôn được Hồ
Chí Minh quán triệt là nếu trước đây nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực tự
cường, trường kỳ kháng chiến thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần
tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà. Tư tưởng đó đã khơi dậy sự sáng
tạo và trở thành động lực to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và dựng xây
đất nước.
5) Hồ Chí Minh chọn cách mạng vô sản mà không phải là cách mạng thiết
lập chế độ tư sản.
Ở thời kỳ đế quốc chủ nghĩa các cuộc đấu tranh giải phóng thuộc địa
chống chủ nghĩa đế quốc mang tính cách mạng theo hai xu hướng: cách mạng tư
sản và cách mạng vô sản. Song xu hướng cách mạng tư sản ngày càng bị điều
kiện lịch sử hạn chế, xu hướng cách mạng vô sản phù hợp với sự phát triển lịch
sử ngày càng có sức mạnh và tương lai rực rỡ hơn bởi vì: Giai cấp tư sảnở các
nước thuộcđịa ra đời từ nền kinh tế thực dân đế quốc, cũng là sản phẩm của sự
xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Họ có mâu thuẫn với tư
sản nước ngoài nhưng thống nhất với tư sản nước ngoài về phương thức bóc lột
giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản phương Đông thuộc địa mới ra đời, nhưng đã có
bạn đồng minh là giai cấp vô sản phương Tây lớn mạnh đã ý thức được vai trò,

10



sứ mệnh lịch sử của mình. Theo đó, tinh thần đấu tranh của tư sản nước thuộcđịa
chắc chắn không thể triệt để như giai cấp vô sản nên không thể trở thành lực
lượng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đổ đế quốc thực dân
được.
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh đã tổng kết các nét
chính trong lịch sử cách mạng Mỹ, Pháp và Nga, đồng thời rút ra bài học cho
cách mạng Việt Nam:
+ Về cách mạng Mỹ: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150
năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ
hai.
Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là
chưa phải cách mệnh đến nơi.
Chúng ta đã hi sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm
sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay bọnít
người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc.”
+ Về cách mạng Pháp: “Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào
để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó
lại thay phong kiến mà áp bức dân.
Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,
cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà
nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi
vòngáp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy.
Dân chúng công nông là gốc cách mệnh, tư bản là hoạt đầu, khi nó không
lợi dụng được dân chúng nữa, thì nó phản cách mệnh.”
+ Về cách mạng Nga(1917): “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh

11



Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng
cái phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế
quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được
vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các
thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả các đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong
thế giới.
Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì
phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải cóđảng vững bền, phải bền gan,phải
hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và
Lênin.”
Tất cả những luận điểm vàsự tổng kết thực tiễn trên đều cho thấy: Việt
Nam không còn con đường giải phóng dân tộc nào khác ngoài tiến hành cách
mạng vô sản
II- Làm rõ luận điểm trên:
1) Trên cơ sở lý luận:
Những lập luận, dẫn chứng đưa ra trong khi phân tích phía trên đây cũng
đã phần nào chứng minh cho tính đúng đắn của luận điểm. Ngoài ra có thể lấy
một vài ví dụ khác nữa về cơ sở lý luận của nhận định của Hồ Chủ tịch:
Trong các tác phẩm của mình, Lênin đã trình bày tư tưởng cho rằng nếu
trước kia phong trào giải phóng dân tộc kết thúc với việc giai cấp tư sản lên nắm
chính quyền, thì trong thời đại đế quốc chủ nghĩa những phong trào này được sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản đứng đầu là các Đảng Cộng sản, khi gặp những
điều kiện thuận lợi, có thể dẫn tới việc thành lập một chính quyền thực sự nhân
dân. Trong trường hợp này, các nước thuộc địa cũ, với những quan hệ tiền tư
bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại, có khả năng, với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản
đã chiến thắngở các nước tiên tiến - thực hiện bước quá độ dầnchuyển lên chủ
nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng này của

12



Lênin đề cập một cách chính xác tới hoàn cảnh của nước ta, qua đây có thể thấy
con đường thực hiện cách mạng vô sản, tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn có khả năng. Chúng ta hoàn toàn có thể tự
tin đi theo con đường ấy, không cần “kinh qua” giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
2) Thực tiễn cách mạng Việt Nam - những minh chứng thuyết phục:
Cách mạng vô sản ở Việt Nam có những đặc điểm đặc trưng của mọi cuộc
cách mạng vô sản, đống thời cũng thể hiện tính sáng tạo, vận dụng khéo léo phù
hợp hoàn cảnh riêng của đất nước:
- Cách mạng nước ta do một chính đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng
sản Việt Nam – chính đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động; hoạt
động trên cơ sở thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hết
lòng vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động trong nước và đấu
tranh vì sự phát triển của vô sản toàn thế giới.
- Lực lượng của cách mang nước ta bao gồm cả dân tộc: công nhân, nông
dân, tiểu tư sản, trí thức, trung nông,tư sản dân tộc,...
- Cách mạng được tiến hành chủđộng, sáng tạo, tự lực tự cường và tranh
thủ sựủng hộ của quốc tế.
- Sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Những thành tựu mà cách mạng ta đạt được là những minh chứng hùng
hồn nhất chứng tỏ sự đúng đắn của con đường màHồ Chủ tịchđã lựa chọn, nhân
dân ta đã và đang thực hiện:
- Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đãđưa đến sự thành lập
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chế độ thuộc địa nửa phong kiến bị xoá
bỏ, một kỷ nguyên mới mở ra - kỷ nguyên của độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.

13



- Thắng lợi của cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên xã hội
chủ nghĩa, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Đảng đã đề ra và thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Trong Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã tổng kết: “Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát
triển theo con đường chủ nghĩa xã hội, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế
ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận
nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, đất nước ta từ một nền
kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện
đại hoá.”
III - Giữ vững và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày
nay:
Trong quá trình đổi mới, đất nước ta tiếp tục thực hiện bước tiếp theo của
cuộc cách mạng vô sản nhằm làm thay đổi toàn bộ đời sống xã hội, từng bước
thực hiện thành công quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội với các nội dung sau:
- Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì mục tiêu chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến
lược cách mạng với linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái
mới.
- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy

14



đổi mới kinh tế làm trọng tâm, dồng thời từng bước đổi mới chính trị. Phát huy
dân chủ, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân,
đồng thời chống mọi khuynh hướng dân chủ cựcđoan, quá khích, mọiâm mưu
lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối chính trị, chống phá
chế độ, can thiệp vào nội bộ nước ta.
Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường phải đi đôi với tăng cường vai trò của quản lý Nhà nước theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Mở rộng và tăng cường khối đạiđoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần
yêu nước, ý chí tự lực tự cường, động viên sức mạnh của cả dân tộc, nỗ lực phấn
đấu vìmục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
- Mở rộng sự hợp tác quốc tế, tranh thủ sụ đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ
của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Động viên mọi nguồn nhân lực bên trong là chính, đồng thời khai thác tốt những
điều kiện thuận lợi trong quan hệ đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợivà
tranh thủ những nhân tố tích cực phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc tự
chủ, giữ gìn, phát huy bản sắc và truyền thống đẹp đẽ của dân tộc.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt. Đảng ta phải luôn luôn tự đổi mới và chỉnh đốn. Củng cố và xây dựng
Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ; tăng cường bản chất giai cấp
công nhân và tính tiên phong của Đảng; đổi mới phương thức, lề lối làm việc
nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và
toàn xã hội.

C- Kết luận:

15



Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “ Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” trải qua thời
gian càng ngày càng chứng tỏ được tính đúng đắn. Nhận định mang ý nghĩa
sống còn cho nền độc lập dân tộc trên là kết tinh của một quá trình giác ngộ, tìm
hiểu, vận dụng muôn vàn khó khăn gian khổ mà vô cùng vĩđại của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Nó là kết quả của việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, là bài học rút
ra từ thực tiễn cách mạng thế giới và là sự biểu hiện rõ nét nhất của trí tuệ và
tinh thần yêu nước, tinh thần vô sản của người cộng sản lỗi lạc, vị anh hùng giải
phóng dân tộc Việt Nam - Hồ Chí Minh.

*Tài liệu tham khảo:
+ Phong trào công nhân quốc tế-Những vấn đề lịch sử và lý luận. Tập 1.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. NXB Lao động.
+ Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB
Chính trị quốc gia.
+ Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, 2009.

16


+ Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Chính
trị quốc gia, 2009.
+ 70 năm Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Thông tấn, 2001.
+ Hồ Chí Minh tuyển tập, NXB Chính trị quốc gia.
+ Phong trào công nhân quốc tế - Những vấn đề lịch sử và lý luận, tập 1.

17




×