Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.6 KB, 22 trang )

Phần thứ nhất: GIỚI THIỆU CHUNG
1. Lời nói đầu
Bản sắc văn hóa của một dân tộc là những giá trị vật chất và tinh thần đặc
trưng trường tồn cùng dân tộc đó. Một mặt, nó phản ánh sinh động đời sống kinh
tế - xã hội của dân tộc, mặt khác, đó cũng là dấu hiệu đặc trưng để chúng ta phân
biệt và nhận biết dân tộc này với dân tộc khác.
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống có ý nghĩa sống còn đối
với mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, đặc biệt trong xu thế hội nhập với cơ chế thị
trường hiện nay thì vấn đề này càng được chú trọng và quan tâm hơn bao giờ hết.
Vĩnh Phúc là tỉnh trung du miền núi phía bắc có nhiều dân tộc sinh sống, các
dân tộc thiểu số với những giá trị văn hóa truyền thống phong phú, độc đáo và
chứa đựng tính nhân văn cao cả, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà
nước, đặc biệt là sự ủng hộ chung sức của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở tỉnh
Vĩnh Phúc, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống là những giá trị về văn
hóa truyền thống các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc vẫn còn nhiều điểm tồn
tại, chưa chú trọng, đẩy những giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số đứng trước
những nguy cơ, thách thức không nhỏ. Chính vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc đang được đặt ra và góp phần vào sự phong phú của bản sắc văn hóa
các dân tộc tỉnh Vĩnh Phúc.
Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc
2. Tên đề tài: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các
dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc
3. Mã số của đề tài: 10/ĐTKHTCT-2014
4. Thuộc chương trình: Khoa học xã hội và nhân văn
5. Kinh phí thực hiện: 12.000.0000đ
6. Chủ nhiệm đề tài: ThS.Nguyễn Thị Lan
7. Tổ chức chủ trì đề tài: Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc
8. Các tổ chức phối hợp chính thực hiện đề tài:
Ban quản lý di tích - Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch




9. Mục tiêu của đề tài:
- Đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của
các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Nâng cao chất lượng công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh phúc hiện nay.
10. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, quan điểm nhất quán của Đảng
ta là: văn hóa, văn học, nghệ thuật là bộ phận khăng khít, phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng nói chung, từng giai đoạn lịch sử nói riêng; luôn gắn bó chặt chẽ với
đời sống nhân dân nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Sau 15 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) “Về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng về văn hóa - xã hội. Đảng, Nhà nước và các đoàn thể
đã đưa nội dung xây dựng văn hóa vào nghị quyết lãnh đạo và chương trình hành
động, kế hoạch công tác; tích cực tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vị
trí, vai trò của văn hóa, tạo bước chuyển biến tích cực về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của nhân dân và đồng bào các dân tộc thiểu số. Việc tìm hiểu, nghiên
cứu, giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số là việc làm có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Trong thời gian qua, ở trong nước đã có
nhiều hội thảo, nhiều công trình nghiên cứu về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
dân tộc, song chưa có một nghiên cứu nào về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc.
11. Nội dung nghiên cứu của đề tài:
Nội dung 1 Nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số ở
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Nội dung 2 – Đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Nội dung 3- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị

văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh phúc hiện nay.
12. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, gắn với khảo sát thực tiễn một số điểm trên
địa tỉnh Vĩnh Phúc.


13. Kế hoạch thực hiện

- . Xây dựng đề cương, thuyết minh: Từ tháng 01-03/2014
- Khảo sát, điều tra:Từ tháng 03-06/2014
- Tổng hợp, phân tích thông tin: Từ tháng 04-07/2014
- Viết báo cáo tổng hợp, báo cáo nghiệm thu: Từ tháng 06-08/2014
- Nghiệm thu: Tháng 12/2014
14. Lợi ích của đề tài:
- Đây là tài liệu tham khảo, là căn cứ quan trọng để cơ quan quản lý nhà
nước, các ngành chức năng trong tỉnh nghiên cứu việc bảo tồn, giữ gìn, phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số tỉnh Vĩnh Phúc.
- Là tài liệu nghiên cứu góp phần nâng cao nhận thức của người dân cũng như
các cấp, các ngành về ý thức, về công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số.
15. Sản phẩm giao nộp
Báo cáo kết qủa thực hiện nghiên cứu đề tài. Các giải pháp nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc
Báo cáo khoa học gồm có báo cáo chính và báo cáo tóm tắt, số lượng mỗi bộ gồm 06
quyển và 01 USB lưu file kết qủa nghiên cứu


Phần thứ hai: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ

TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Dân tộc:
Khái niệm dân tộc theo nghĩa hẹp dùng để chỉ tất cả các dân tộc (tộc người)
từ trình độ phát triển thấp (đang ở trong phạm trù xã hội nguyên thủy) đến cao
(đạt đến sự hình thành nhà nước).
1.2. Khái niệm giá trị, bảo tồn, phát huy, di sản
Giá trị là các tư tưởng bao quát được cùng nhau tin tưởng mạnh mẽ ở một
nhóm người, một giai tầng, một dân tộc hoặc một thời đại về cái gì là đúng, sai,
thiện, ác, xấu, tốt, hợp lý, không hợp lý. Ở Việt Nam, thường dùng thuật ngữ giá
trị là để chỉ phẩm chất, phẩm giá, đức tính (giá trị đạo đức, truyền thống…).
Theo Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nắng năm 2005
Bảo tồn là giữ lại không để cho mất đi
Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt lan toả tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm
Phát huy, trước hết là sử dụng giá trị tinh thần của di sản văn hóa trong công
tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, tình cảm; đồng thời, khái niệm phát huy cũng
đã bao hàm cả các hoạt động khai thác.
Di sản: Theo nghĩa Hán Việt, di là để lại, còn lại, dịch chuyển, chuyển lại; sản
là tài sản, là những gì quý giá, có giá trị. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Di sản là
cái của thời đại trước để lại
Di sản văn hóa
Di sản văn hóa được hiểu là những gì có giá trị do tổ tiên, cha ông truyền
lại cho thế hệ sau. Di sản văn hóa tồn tại dưới hai dạng là: Di sản văn hóa vật thể
và di sản văn hóa phi vật thể.
1.3 . Giá trị văn hóa truyền thống
Theo nghĩa tổng quát, truyền thống đó là những yếu tố của di tồn văn hóa, xã
hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục, tập quán, thói quen, lối
sống và cách ứng xử của cộng đồng người được hình thành trong lịch sử và đã trở
nên ổn định, được lưu truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài.



2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa truyền thống
Đại hội BCH Trung ương Đảng khóa IX tiếp tục khẳng định: “Bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa dân tộc, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong
mỹ tục của các dân tộc, tôn tạo các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh; khai
thác các kho tàng văn hóa cổ truyền… chú trọng gìn giữ, phát triển các di sản
văn hóa phi vật thể, các di tích lịch sử, nâng câp các bảo tàng”
Ngày 5/9/2012 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1211/QĐ-TTG
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012-2015 với
mục tiêu chung là nhằm nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, của các
cấp, các ngành huy động sức mạnh toàn xã hội tham gia, đóng góp vào sự nghiệp
phát triển văn hóa; bảo tồn các di sản, giá trị văn hóa phục vụ việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Vĩnh Phúc là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, định cư lâu
đời, trong quá trình phát triển, đồng bào các dân tộc thiểu số luôn có sự biến động
về nhân khẩu. Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài,
nhóm nghiên cứu khảo sát 06 dân tộc có số dân đông nhất sau dân tộc Kinh ở các
huyện, thị là Sông Lô, Lập Thạch, Tam Đảo, Bình Xuyên và thị xã Phúc Yên tỉnh
Vĩnh Phúc. 06 dân tộc là, Sán Dìu, Cao Lan, Dao, Tày, Nùng, Mường.


CHƯƠNG II. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG CÁC DÂN TỘC Ở TỈNH VĨNH PHÚC
1. Vị trí địa lý
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, vùng đồng bằng
sông Hồng. Là tỉnh có bề dày truyền thống văn hóa, cách mạng và có nhiều tiềm
năng phát triển công nghiệp và du lịch. Hiện nay, tỉnh có 9 đơn vị hành chính: 1
thành phố, 1 thị xã và 7 huyện.
Toàn tỉnh có 40 xã miền núi, trong đó, huyện Tam Đảo có 09 xã, huyện Lập

Thạch 14 xã, huyện Sông Lô 12 xã, huyện Bình Xuyên có 1 xã, huyện Tam
Dương 3 xã, thị xã Phúc Yên: 1 xã. Đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trên địa
bàn tỉnh soinh sống chủ yếu ở ven dãy núi Tam Đảo và núi Sáng của 5 huyện, thị
xã gồm 14 xã. Tính đến tháng 6 năm 2014, Đồng bào dân tộc thiểu số có hơn 47
nghìn người (chiếm khoảng 4,6% dân số toàn tỉnh) bao gồm các dân tộc thiểu số
sau: Dân tộc Sán Dìu 42,264 người chiếm 89,9%, dân tộc Cao Lan 1.827 người
chiếm 3,9%, dân tộc Nùng 911 người chiếm 1,94%, dân tộc Dao 776 người chiếm
1,65%, dân tộc Tày 676 người chiếm 1,44%, dân tộc Mường 339 người chiếm
0,72%... các dân tộc Hoa, H.Mông, Giáy, Lào, Ngái,… số lượng ít sống rải rác trên
địa bàn các huyện, thành thị (Nguồn: Tài liệu Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số
tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ II, năm 2014). Mỗi dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn
tỉnh có tập tục, sắc thái văn hóa riêng nhưng tựu chung đều có giá trị truyền thống
chung là tinh thần yêu nước, cần cù trong lao động sản xuất, anh dũng trong chiến
đấu, đoàn kết giúp đỡ nhau trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Các dân tộc thiểu số sống thành làng bản đan xen với dân tộc Kinh, có truyền
thống đoàn kết hoà thuận, hỗ trợ nhau phát triển. Số liệu bảng 1 cho thấy, các dân
tộc thiểu số cư trú rải rác ở các xã trên địa bàn các huyện Sông Lô, Lập Thạch,
Tam Đảo, Bình Xuyên, thị xã Phúc Yên là chủ yếu. Ở tỉnh Vĩnh Phúc có 6 dân tộc
thiểu số có số dân đồng hơn cả là dân tộc Sán Dìu, Cao Lan, Dao, Tày, Nùng,
Mường. Mỗi dân tộc đều có nguồn gốc lịch sử, phong tục tập quán, văn hóa riêng.
Tuy dân số ít so với dân tộc Kinh, song họ làm ăn sinh sống ở một vùng đất khá


rộng lớn men theo sườn Tây Nam của dãy núi Tam Đảo, từ giáp huyện Sóc Sơn
của thành phố Hà Nội đến giáp huyện Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang.

Bảng 1


2. Khái quát lịch sử hình thành và phân bố của các dân tộc thiểu số ở

tỉnh Vĩnh Phúc
2.1. Dân tộc Sán Dìu
Ở Vĩnh Phúc, người Sán Dìu đã sinh sống ổn định, định canh, định cư, men
theo chân dãy núi Tam Đảo trên một dải đất dài hàng trăm km từ huyện Sông Lô,
Lập Thạch, Tam Đảo, Bình Xuyên và thị xã Phúc Yên; tập trung nhiều nhất ở
huyện Tam Đảo với 32.312 người, riêng xã Đạo trù có 12.112 người. (Xem bảng
2).
2.2. Dân tộc Cao Lan
Dân tộc Cao Lan ở tỉnh Vĩnh Phúc, có 1.827 người nhưng sống tập trung
chủ yếu ở xã Quang Yên huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc (xem bảng 3).
Đặc điểm của dân tộc Cao Lan là không thích du cư. Theo gia phả của dòng
họ Lâm ở xã Quang Yên, người Cao Lan di cư đến đây đến nay đã được 8 đời
(khoảng trên 180 năm, mỗi đời 30 năm). Từ khi định cư ở xã Quang Yên, đồng
bào Cao Lan coi đây là quê hương chính thức của mình.
2.3. Dân tộc Dao
Dân tộc Dao ở Vĩnh Phúc có 776 người. Họ đã sống định canh định cư nhiều
đời ở bản Thành Công, xã Lãng Công, huyện Sông Lô có 158 hộ với 678 người.
(xem bảng 3). Ở xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên có một bản với 14 hộ, 27 nhân
khẩu đi cư từ Thái Nguyên và Lạng Sơn đến. Nếu tính từ khi những người đầu
tiên đến ở tỉnh Vĩnh Phúc, đến nay cũng đã được 5 đời (khoảng trên 120 năm). Đặc
điểm tâm lý của người Dao từ thời xa xưa thường thích ở lưng chừng núi.
2.4. Dân tộc Tày
Theo số liệu thống kê, dân tộc Tày ở Vĩnh Phúc có 676 người. Họ sống rải
rác ở các huyện: Sông Lô 238 người; Lập Thạch 224 người; Tam Đảo 81 người;
thị xã Phúc Yên 131người.
2.5. Dân tộc Nùng.
Dân tộc Nùng ở tỉnh Vĩnh Phúc có 911 người, họ cư trú chủ yếu ở các huyện
Sông lô, Lập Thạch, Tam Đảo, Bình Xuyên, thị xã Phúc Yên. Cũng giống như dân
tộc Tày, Mường, họ sống rải rác ở các xã trên địa bàn các huyện nhưng nơi tập trung
đồng nhất là xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo với 502 người (xem số liệu ở bảng 2).



Người Nùng cư trú tại nước Việt Nam cách ngay nay khoảng 200-300 năm.
Người Nùng thường cu trú tại ven sông, suối,sườn đồi, núi và cư trú chủ yếu thành
nhiều
nhóm
sống
quây
quần
với
nhau.
Bảng 2, 3


2.6. Dân tộc Mường.
Dân tộc Mường ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 339 người, họ cư trú chủ yếu ở các huyện
Sông lô, Lập Thạch, Tam Đảo, thị xã Phúc Yên.
3. Các giá trị văn hóa truyền thống chung của các dân
tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc
3.1. Truyền thống yêu nước
3. 2. Truyền thống đoàn kết, ý thức cộng đồng
3. 3. Truyền thống cần cù, chăm chỉ trong lao động, sản xuất
4. Khái quát những giá trị văn hóa truyền thống (văn hóa vật thể và phi
vật thể) của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngoài ba đặc trưng chung của dân tộc Việt Nam là Truyền thống yêu nước,
Truyền thống đoàn kết, ý thức cộng đồng, Truyền thống cần cù, chăm chỉ trong
lao động, sản xuất ; Giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở tỉnh
Vĩnh phúc được nhóm nghiên cứu khảo sát, đánh giá có hai loại hình : Một là
Văn hóa vật thể gồm : cách thức lao động sản xuất, nông cụ; nhà ở; trang phục;
văn hóa ẩm thực. Hai là Văn hóa phi vật thể gồm: ngôn ngữ (tiếng nói và chữ

viết); Văn học dân gian; quan hệ hôn nhân; tôn giáo, tín ngưỡng; nghi lễ tang ma.
4.1. Dân tộc Sán Dìu


4.1.1. Người Sán Dìu đã sớm có nền văn minh cấy lúa nước. Để có nước
trồng lúa nước, người Sán Dìu đã đoàn kết cùng nhau và được nhà nước đầu tư
làm nhiều công trình thủy lợi lớn như hồ Đại Lải, Xạ Hương, làng Hà, đầm Sáu
Vó… với hàng ngàn km kênh mương dẫn nước về ruộng tưới tiêu cho một số
cánh đồng bằng phẳng hàng trăm mẫu như ở xã Đạo Trù, Minh Quang, Hợp
Châu, Đại Đình của huyện Tam Đảo.
Người Sán Dìu có phương tiện vận tải khá đặc biệt là chiếc xe quyệt.
4.1.2. Nhà ở
Dân tộc Sán Dìu ở nhà đất giống như nhà của người Kinh.
4.1.3.Trang phục.
Người Sán Dìu đàn ông thường mặc áo dài màu đen (chàm) bên ngoài áo
cánh trắng. Trang phục nữ giới gồm Váy; áo: dèm; khăn; xà cạp; đồ trang sức. bộ
áo váy phụ nữ Sán Dìu không thêu thùa nhiều kiểu hoa văn xanh đỏ, đen, trắng.

4.1.4. Văn hóa ẩm thực
Việc chế biến các món ăn của họ cũng khá cầu kỳ, dùng nhiều gia vị và ăn
nóng. Người Sán Dìu kiêng ăn thịt chó.
4.1.5. Ngôn ngữ
Người Sán Dìu dựa vào chữ Hán để tạo ra chữ Hán - Nôm Sán Dìu. Người
Sán Dìu dùng tới 60-70% chữ Hán cổ trong một văn bản hoặc sách cúng.
4.1.6. Văn học dân gian
Văn học dân gian của người Sán Dìu độc đáo nhất có lẽ là hát ví Soọng cô
có ý nghĩa là xướng ca.
4.1.7. Quan hệ hôn nhân
Hôn nhân của người Sán Dìu theo nghi thức truyền thống, việc cưới xin của
người Sán Dìu phải tiến hành đủ các bước: Lễ dạm hỏi, lễ so tuổi, lễ ăn hỏi, lễ dứt

lời, lễ cưới chính thức và lễ lại mặt. Lễ Khai hoa tửu trong ngày cưới chính thức.
4.1.8. Tín ngưỡng và tôn giáo


Cũng như người Kinh, người Sán Dìu rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên.
Cùng với việc thờ cúng tổ tiên, người Sán Dìu thờ cúng táo quân, thờ thần cửa,
thờ thần Hoàng làng, thờ Mẫu.
4.1.9. Lễ tang
Người Sán Dìu quan niệm con người chỉ chết về phần thể xác, còn phần
linh hồn sống mãi với người thân con cháu. Nghi lễ tang ma của người Sán Dìu
gồm, lễ trao nhà táng, lễ đưa ma. Người Sán Dìu cũng có tục cải táng như
người Kinh.
4.2. Dân tộc Cao Lan
Trước đây, dân tộc Cao Lan chủ yếu là trồng lúa cạn-nương rẫy. Hiện nay,
đồng bào Cao Lan cũng như người Kinh trông lúc nước là chủ yếu, năng suất khá
cao đạt 40-45 tạ/ha.
4.2.2. Nhà ở
Nhà ở của người Cao Lan là nhà sàn gầm cao, nhìn không khác gì nhà sàn
người Tày, người Nùng, người Dao.
4.2.3. Trang phục
Áo của phụ nữ mặc ngày thường là loại áo vải nhuộm chàm hay thâm nâu
non, tay chẽn, hơi rộng ngang. Váy của phụ nữ Cao Lan là một tấm vải được
khâu khép kín, ghép bằng năm miếng vải. Khăn là một mảnh vải sáu vuông dài
trên 2m, ruộng khoảng 40cm màu chàm. Bắp chân cuốn xà cạp. Trang phục nam
giới là loại năm thân cài cúc bên cạnh. Quần nam giới gần giống quần chân què
của người Kinh, cũng kiểu ống rộng, cạp buộc bằng dây vải.
Các cô gái Cao Lan ngày xưa thường có hai bộ đồ cưới, một bộ có thể mặc
khi cần thiết, một bộ để khi già chết mặc vào khi khâm liệm.
4.2.4. Văn hóa ẩm thực
Dân tộc Cao Lan ăn các món ăn như người Kinh. Ngoài những thức ăn tươi,

người Cao Lan còn có thịt sấy khô, món gỏi cá, món xôi đen. Bánh chim, bánh
chuột “ẹt nộc, ẹt nâu”
4.2.5. Ngôn ngữ
Tiếng Cao Lan cổ, còn gọi là ngôn ngữ văn cúng, văn nghệ gần với thổ ngữ
Quảng Đông của người Trung Quốc và một số dân tộc khác ở Việt Nam. Trong
khi đó, cả hai hệ thống tiếng nói cổ và tiếng nói hàng ngày của người Cao Lan có
đủ vốn từ để thể hiện tư duy từ cao đến thấp.
4.2.6. Văn học dân gian


Người Cao Lan có tới 11 làn điệu hát dân ca, giao duyên, hát cúng thần linh,
cúng tổ tiên. Nhạc cụ của người Cao Lan gồm trống và khèn. Tuy nhiên, đến nay,
người Cao Lan đã không chế tạo và dùng hai loại nhạc cụ này nữa.
Làn điệu Sình ca là linh hồn của văn hóa Cao Lan. Đây là một loại hình sinh
hoạt văn hóa tinh thần vô cùng đặc sắc và có ý nghĩa lớn đối với người Cao Lan.
4.2.7. Quan hệ hôn nhân
Về thủ tục cưới xin phải trải qua nhiều giai đoạn dạm hỏi – sửa lễ gá bạc – lễ
nạp cheo hẹn ngày – lễ cưới. Trước đây, con trai phải ở rể nhà con gái từ 2-3
năm. Khoảng 100 năm trở lại đây, tục lệ này không còn nữa, người con gái đến ở
nhà chồng ngay sau ngày cưới.
4.2.8. Tín ngưỡng và tôn giáo
Người Cao Lan không hẳn đi theo tôn giáo nào. Các bộ sách còn lưu lại của
người Cao lan phần nhiều nghiêng về Nho giáo và Đạo giáo.
Vì vậy mới phải
4.2.9. Nghi lễ tang ma
Khi trong nhà có người chết, con trai, gái dâu, rể thắt con dao ngang lưng, có
khi là vỏ dao. Khi đoàn thầy cúng đến, họ cúng tế suốt đêm và làm nhà giấy– nhà
cho người chết rồi hóa vàng để cho họ ở ngôi nhà ấy muôn thủa. Người Cao Lan
có tục nhất táng thiên thu không cải táng.
4.3. Dân tộc Dao

Dân tộc Dao làm lúa nương là chủ yếu, lúa ruộng là phụ. Người Dao ở tỉnh
Vĩnh Phúc đã tiếp thu kỹ thuật canh tác nông nghiệp, trồng các giống lúa mới năng
suất cao.
4.3.1. Nhà ở
Dân tộc Dao có nhiều nhóm, mỗi nhóm có nhà ở khác nhau. Nhóm Dao
quần chẹt ở Lãng Công huyện Sông Lô thì ở nửa sàn nửa đất.
4.3.2. Trang phục, dân tộc Dao thường mặc áo cánh bằng vải nhuộm chàm.
Quần may thụng như kiểu quần ta của người Kinh. Áo phụ nữ may bằng vải màu
chàm dài đến giữa ống chân. Các mép cổ, gấu, tay áo, phía sau lưng đều được
thêu các hình họa tiết hoa văn bằng chỉ màu. Chân được cuốn bằng xà cạp trắng
Bộ quần áo phụ nữ Dao được bảo tồn đến ngày nay hầu như nguyên gốc,
chứng tỏ phụ nữ Dao rất ít thay đổi. Họ có ý thức giữ gìn bản sắc của giới và
dân tộc mình.
4.3.3. Văn hoá ẩm thực


Người Dao còn ăn cơm nếp, xôi ngô non, đỗ, gạo nếp.
4.3.4. Văn hoá dân gian
Trong các gia đình người Dao ở bản Thành Công, xã Lãng Công còn có rất
nhiều cuốn sách được lưu giữ nhiều đời. Như cuốn 36 đoạn ca và 7 ca khúc viết
theo dạng thơ 7 chữ thường được các thầy cúng và mọi người hát trong lễ cấp
sắc, trong tết nhảy. Người Dao có hai bộ tranh thờ chính: một bộ thờ thần linh, một
bộ thờ thần pháp.
Người Dao có điệu hát Páo dung là một trong những nét văn hóa truyền
thống đặc sắc nhất của người Dao.
4.3.4. Tôn giáo
Người Dao không theo tôn giáo cụ thể nào. Trong quan niệm của người Dao
hiện đại, có hai vị thánh được tôn trọng trên hết, một là ông Bàn tổ (Bàn vương)
người lập ra trời – đất và người Dao, hai là Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người đã tạo
ra cuộc sống yên bình và phát triển cho họ. Lễ cấp sắc chỉ được tổ chức cho nam

giới với ý nghĩa công nhận một người đã trưởng thành.
4.3.5. Nghi lễ tang ma
Người Dao không làm giỗ cho người chết. Đã chôn không cải táng.
4.4. Dân tộc Tày
4.4.1. Nhà ở: Nhà của dân tộc Tày nhà người dân tộc Nùng, tương đối giống
nhà sàn của người Cao Lan.
4.4.2. Về trang phục: Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải
sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như
không có hoa văn trang trí.
4.5. Dân tộc Nùng.
4.5.1. Người Nùng sinh sống bằng cách làm nương rẫy với cây lương thực
chính. Các ngành nghề thủ công đã phát triển (nghề dệt mộc, đan lát và nghề rèn,
nghề gốm, đan lát, làm giấy dó, làm ngói âm dương).
4.5.2. Nhà ở
Người Nùng thường ở nhà sàn và nhà nửa sàn nửa đất, trong đó nhà sàn là
kiểu nhà truyền thống ưa thích của họ.
4.5.3. Trang phục: Phụ nữ Nùng mặc áo năm thân và cài một hàng cúc bằng
nút vải phía bên nách phải. Nam, nữ mặc quần nhuộm chàm, cạp to, ống rộng,


dài tới tận mắt cá chân. Phụ nữ thường đeo tạp dề trước bụng. Trang phục của
nam: Cổ áo đứng, Có 4 túi không nắp và xẻ. Quần ống tọa và rất rộng.
4.5.4. Văn hoa ẩm thực
Người Nùng ăn cơm tẻ là chủ yếu, thích ăn các món xào mỡ lợn. Món ăn
"Khau nhục "là món ăn độc đáo.
4.5.5. Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái
(ngữ hệ Thái - Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái.... Người Nùng dùng
chữ Nôm Nùng, chữ Hán để ghi chép gia phả, bài cúng, bài hát…
4.5.6. Hôn nhân:
Sau ngày cưới cô dâu chưa ở hẳn bên nhà chồng, khi có con thì về nhà

chồng.
4.5.7. Văn hóa dân gian. Người Nùng có làn điệu dân ca đậm đà màu sắc
dân tộc như Sli. Đến nay, người biết hát Sli không nhiều, nhất là Sli theo đúng
nguyên bản ngày xưa.
4.6. Dân tộc Mường
4.6.1. Tên gọi, đời sống kinh tế.
Người Mường làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Nhiều
phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ thuật khá tinh xảo. Tuy nhiên, ngày nay,
người Mường ở Vĩnh Phúc không còn dệt vải nữa, họ mua vải về may quần áo.
4.6.2. Nhà cửa
Người Mường sống trong những ngôi nhà sàn truyền thống, người Mường
rất trọng hướng nhà. Họ quan niệm làm nhà đúng hướng sẽ đem lại tài lộc và
may mắn đến cho gia đình
4.6.3. Trang phục
Nam giới người Mường mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi
dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Quần lá tọa ống rộng dùng khăn thắt giữa
bụng. Cạp váy phụ nữ nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công.


4.6.4. Ngôn ngữ
Tiếng Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á), rất gần
với tiếng Việt có thể nói một cách khái quát (nhưng không tuyệt đối, khoảng 75%)
4.6.5. Văn hóa ẩm thực.
Rượu Cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà
của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Ðặc biệt,
phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.
4.6.6. Quan hệ hôn nhân
Ðám cưới phải qua các bước: ướm hỏi, lễ bỏ trầu, lễ xin cưới, lễ cưới lần thứ
nhất, lễ đón dâu. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả

gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.
4.6.7. Nghi lễ tang ma. Khi có người mất, con trai trưởng cầm dao nín thở
chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gian thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Hình
thức chịu tang của con cái trong nhà không khác so với người Kinh.

4.6.8. Văn nghệ dân gian
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khá phong phú , có các thể loại
thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Người Mường còn có hát ru
em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi...
5. Thực trạng về công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
5.1. Công tác bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống dân tộc thiểu
số ở tỉnh Vĩnh Phúc
Hiện nay, cán bộ phòng dân tộc các huyện Tam Đảo, thị xã Phúc Yên là
người dân tộc thiểu số, họ đều hiểu và nắm chắc các phong tục, tập quán và
những sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc mình


5.2. Những kết quả đạt được trong việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc thiểu số tỉnh Vĩnh Phúc
Phòng Dân tộc huyện Tam Đảo, thị xã Phúc Yên, chuyên viên phụ trách về
công tác dân tộc ở các huyện Sông Lô, Lập Thạch, huyện Bình Xuyên đã phối hợp
với phòng văn hóa và các cơ quan ban ngành trong huyện thực hiện các cuộc khảo
sát, nghiên cứu các dự án, đề tài khoa học về bảo tồn văn hóa vật thể và phi vật thể
của các dân tộc đang có nguy cơ bị mai một.
Việc bản tồn, khai thác và phát huy các di tích danh thắng gắn với lễ hội
truyền thống đã được các huyện có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chú
trọng. Trong những năm gần đây, những di tích lịch sử, văn hóa, gắn với lễ hội
truyền thống của dân tộc Sán Dìu, Cao Lan, Dao đang được phục hồi và phát huy
tác dụng làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân.

Hàng năm, phòng văn hóa thông tin các huyện, thị đã tổ chức ngày hội văn
hóa quần chúng, các cuộc giao lưu văn nghệ giữa các xã trong huyện, giữa các
huyện với nhau.
5.3. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân
tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc
5.3.1. Trong lĩnh vực văn hóa vật chất
Về kinh tế, trước hết cùng với việc vận động và tiến hành các biện pháp hành
chính của các cấp chính quyền nhằm chấm dứt tình trạng đốt rừng làm nương rẫy
của đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay đã chấm dứt hẳn.
Đồng bào đã thực hiện giao khoán đất trồng rừng, làm kinh tế trang trại, vùng
miền núi, nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đã xuất hiện những mô hình
vườn rừng hiệu qủa như vườn na ở xã Đạo Trù, Bồ Lý huyện Tam Đảo; vườn rau,
cây ăn qủa ở Đạo Trù, Minh Quang, Hồ Sơn. Các trang trại chăn nuôi gà ở Tam
Quan, Hồ Sơn huyện Tam Đảo; mô hình nuôi lợn rừng ở Quang Yên, huyện Sông
Lô, Xã Quang Sơn, huyện Lập Thạch, xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, nhiều hộ
gia đình chăn nuôi mỗi năm đã cho nhập từ 200-400 triệu đồng.
Về văn hóa ẩm thực
Cơ cấu thành phần ăn, chất lượng bữa ăn cũng thay đổi và được nâng lên, các
đồ dùng gia đình được hiện đại hóa và tiếp thu từ người Kinh như các dụng cụ
làm bếp, nấu ăn…các bữa cỗ của người Nùng không còn nhiều món như trước
nữa; các bữa ăn của dân tộc Dao, Cao Lan đã có nhiều thay đổi.
Về nhà ở.


Nhà ở của đồng bào các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Vĩnh có sự thay đổi đáng
kể trong kết cấu kỹ thuật, đã xuất hiện nhiều dạng nhà khác nhau, nhà sàn gỗ
được thưng bằng tre nứa và lợp tranh nay đã được thay bằng nhà gạch, lợp ngói,
bê tông cốt thép. Nhà sàn hầu như không còn nữa, nhiều gia đình dân tộc làm nhà
tầng như nhà người Kinh.
Về trang phục, phạm vi sử dụng trang phục truyền thống của dân tộc Sán Dìu,

Cao Lan, Dao, Tày, Mường…đã, đang bị thu hẹp dần và bị mai một đi rất nhiều.
Hiện nay, trang phục truyền thống chỉ còn phổ biến ở các cụ bà là có thói quen
mặc y phục, còn đa số các thành phần khác, nhất là thanh thiếu niên đều ưa chuộng
loại quần áo may sẵn bằng vải dệt công nghiệp may theo kiểu của người Kinh.
5.3.2. Trong đời sống xã hội
5.3.4. Trong lĩnh vực văn hóa tinh thần
Về chữ viết: Hiện nay, chữ viết của người Sán Dìu, người Cao Lan, người
Dao, người Tày, Mường ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang bị thu hẹp và đứng
trước nguy cơ rất lớn về mất hẳn chữ viết của dân tộc; lớp trẻ hầu như không biết
viết, biết đọc.
Về văn học dân gian:
Mỗi dân tộc thiểu số đều có vốn văn học dân gian rất phong phú bao gồm
Sọng cô, Xình ca, Sli, Páo dung, Xéc bùa, bọ mẹng … ngày nay nó chỉ hiện diện
chủ yếu trong các dịp diễn ra lễ hội và các ngày hội văn hóa thể thao do các cơ
quan văn hóa địa phương tổ chức.
Hiện nay, ở huyện Tam Đảo đã thành lập được 25 câu lạc bộ hát Soọng cô, hát
dân ca Sán Dìu…, xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên 02 câu lạc bộ, huyện Lập
Thạch 05 câu lạc bộ…
Lễ hội, hiện nay, phần nghi lễ càng được đơn giản hóa, không còn các nghi lễ
cúng tế kéo dài nhiều ngày gây tốn kém về tiền bạc, của cải và ảnh hưởng đến
sản xuất như trước đây như nghi lễ cấp sắc của người Sán Dìu, người Dao.
Về quan hệ hôn nhân.
Về nghi lễ tang ma.
Nghi lễ này đối với các dân tộc thiểu số được bảo tồn đến ngày nay.
Về tôn giáo, tín ngưỡng
Các phong tục, tập quán, nghi lễ của đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Vĩnh
Phúc về cơ bản vẫn bảo tồn. Bộ tranh thờ chung, tranh thờ riêng của các dòng họ


người Cao Lan, người Dao vẫn còn giữ nguyên bộ và được đem ra thờ hàng năm.

Lễ cấp sắc của người Sán Dìu, người Dao vẫn duy trì .
6. Một số tồn tại, hạn chế
- Nhận thức của không ít cấp ủy, ngành, một bộ phận cán bộ về giá trị văn hóa
truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa đầy đủ. Đầu tư chưa có hệ thống cho
việc sưu tầm, bảo tồn, bảo vệ và phổ biến những giá trị văn hóa truyền thống.
- Việc tổ chức sưu tầm, nghiên cứu giới thiệu, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được tiến hành liên tục, thường xuyên,
theo một chương trình, kế hoạch đồng bộ, thống nhất.
- Một số cán bộ, viên chức phòng Dân tộc huyện, cán bộ phụ trách về dân tộc
thuộc ủy ban nhân dân huyện, xã, Ban dân tộc tỉnh hầu hết không qua đào tạo
đúng chuyên ngành.
- Kinh phí đầu tư cho công tác bảo tồn hiện nay còn hạn hẹp, chưa đáp ứng
được và đủ nhu cầu cho hoạt động.
- Nhận thức của một bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số về việc bảo tồn,
giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa tuyền thống dân tộc còn hạn chế.
7. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
- Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số ở nhiều nơi
còn nghèo và khó khăn.
- Do trình độ dân trí còn thấp, một số người dân bản địa chưa có sự quan tâm
đến việc lưu giữ, kế tục, sử dụng và truyền dạy văn hóa truyền thống cho các thế
hệ sau.
- Việc tuyên truyền, giáo dục và vận động quần chúng tham gia giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc chưa được tiến hành thường xuyên và sâu rộng đến các thôn,
làng và các tầng lớp nhân dân.
8. Một số nhiệm vụ và giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa truyền thống các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc
- Tiếp tục quán triệt và đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
năm BCH Trung ương Đảng khóa VIII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI vào cuộc sống của người dân, đặc biệt là
đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh với mục tiêu “Xây dựng

nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Cụ thể:


- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Làm tốt công tác quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đãi ngộ cán bộ là
người dân tộc thiểu số.
- Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về nhiệm vụ bảo tồn và phát huy văn
hóa các dân tộc.
- Phát huy dân chủ ở cơ sở, coi trọng vai trò của già làng, trưởng thôn, người
có uy tín trong công tác vận động đồng bào các dân tộc thực hiện có hiệu qủa các
chính sách dân tộc.
- Tiếp tục thống kê, kiểm kê, đăng ký quản lý các di vật, nông cụ, nhạc cụ;
đẩy mạnh công tác sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu văn hoá dân gian.
- Bảo tồn, phát huy có hiệu quả giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn
nơi các dân tộc thiểu số sinh sống, thực hiện tốt quy hoạch thuộc lĩnh vực văn
hóa, thể thao và du lịch.
- Tập trung đầu tư, hỗ trợ công tác sưu tầm, bảo tồn các làng nghề thủ công
truyền thống; các làng văn hóa dân tộc gắn với phát triển du lịch.
- Hỗ trợ đào tạo nghề, xây dựng các làng nghề truyền thống như đan lát mây
tre đan, dệt thổ cẩm, rượu cần người Mường phục vụ các khu du lịch sinh thái –
tâm linh vùng Tây Thiên – Thiền viện trúc lâm; hồ Đại Lải…
- Hỗ trợ, phục dựng các lễ hội truyền thống và duy trì tổ chức theo định kỳ tạo
sân chơi và khuyến khích tinh thần, khả năng sáng tác cho các tầng lớp nhân dân.
- Mở rộng, khuyến khích việc dạy và học chữ của đồng bào dân tộc thiểu số;
Trên đây là một số nhiệm vụ và giải pháp nhằm góp phần nâng cao nhận thức
của đồng bào các dân tộc thiểu số, sự quan tâm chỉ đạo nhiều hơn nữa của các
cấp, các ngành đối với công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống các
dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là những nhiệm vụ cần thiết, thiết thực để
các dân tộc phát triển bền vững, giảm dần khoảng cách về kinh tế, hội nhập văn
hóa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng cùng phát triển.

Phần thứ ba: KẾT LUẬN
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số ở tỉnh
Vĩnh Phúc là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, được
nhân dân phần đấu thực hiện suốt thời gian qua. Trong quá trình đổi mới đất nước
và họi nhập quốc tế, văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số ở Vĩnh Phúc đã


trải qua không ít khó khăn thách thức. Song nhờ sự chỉ đạo và hỗ trợ của các cấp
chính quyền, cùng với sự nố lực của toàn dân, sự nghiệp bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số đã đạt được những kết qủa
đáng khích lệ.
Trong suốt qúa trình phát triển đất nước, văn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số chứa đựng trong nó cả những mặt tích cực và hạn chế, vì vậy, bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa (những mặt tích cực) truyền thống của đồng bào
các dân tộc thiểu số là việc làm cần thiết nhằm mục tiêu thoả mãn tinh thần, đời
sống tâm linh, tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người, đồng thời góp phần
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Mặt khác, xây
dựng, tổ chức, quản lý tốt các hoạt động văn hóa truyền thống của đồng bào sẽ
góp phần to lớn vào xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, làm cơ sở cho việc
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời phát
huy tốt những ảnh hưởng tích cực của giá trị văn hóa truyền thống vào đời sống
xã hội hiện nay.
Ngày nay, xu hướng tiến tới hiện đại và hội nhập vào nền văn hóa nhân loại là
quy luật tất yếu. Tuy nhiên, trong sự phát triển nội tại của văn hóa đặt ra cho văn
hóa các dân tộc thiểu số những cơ hội, thách thức mới, một trong những thách
thức cơ bản nhất, nổi trội nhất là làm thế nào để bảo tồn và phát huy được các giá
trị văn hóa truyền thống tộc người trong môi trường đầy biến động, đề tài xin đề
xuất một số nhiệm vụ và giải pháp để bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh Phúc, gồm:
Thứ nhất, nhóm giải pháp về công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chủ

trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa, xây dựng nền
văn hóa đạm đà bản sắc dân tộc.
Thứ hai, giải pháp về phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, về hỗ trợ kinh phí, về xóa đói giảm nghèo, phát triển làng nghề
truyền thống…
Thứ ba, giải pháp về bảo tồn các gá trị văn hóa truyền thống, nhất là các giá trị
văn hóa phi vật thể gồm, ngôn ngữ, chữ viết, lễ hội,…
Thứ tư, giải pháp về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, về đào tạo đội ngũ
cán bộ người dân tộc thiểu số, phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có
uy tín trong cộng đồng tộc người để nâng cao nhận thức của người dân về giá trị
văn hóa truyền thống dân tộc mình, từ đó có ý thức trong việc giữ gìn, phát huy
những giá trị đó trường tồn cùng sự phát triển của tộc người.


Thực hiện tốt các nhóm giải pháp trên sẽ có tác động tích cực trong việc bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số ở tỉnh Vĩnh
Phúc trong những năm tiếp theo.



×