Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

ĐỀ CƯƠNG tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.71 KB, 21 trang )

ĐỀ CƯƠNG TƯ TƯỞNG

Câu 1: Phân tích những giá trị cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh với dân tộc
và thời đại.

− Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc.
+ Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của thời đại, trường tồn, là tài sản vô giá của dân
tộc ta.Sở dĩ như vậy là vì tư tưởng của Người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị tinh
hoa văn hóa, tư tưởng “vĩnh cửu” của loài người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác Lênin, mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại của sự nghiệp cách mạng Việt Nam và
thế giới.
Tính sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ: Nó trung thành với
những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời khi nghiên cứu vận dụng
những nguyên lý đó Hồ Chí Minh đã mạnh dạn loại bỏ những gì không thích hợp với điều
kiện cụ thể của nước ta, đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một
cách linh hoạt, khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong quá khứ, với những hoạt động cách
mạng của Người. Ngày nay tư tưởng đó, bao gồm một hệ thống những quan điểm lý luận,
tư tưởng về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, về sự cải biến cách mạng đối với thế giới, về đạo đức, phong cách,
phương pháp Hồ Chí Minh, về việc hiện thực hóa các tư tưởng ấy trong đời sống xã hội. ..
đang soi sáng cho chúng ta.
Nét đặc sắc nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những vấn đề xung quanh việc giải
phóng dân tộc và định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Tư tưởng của Người gắn liền
với chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng nước ta vừa phản ánh quy luật khách
quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng trong thời đại cách mạng vô sản vừa phản ánh
mối quan hệ khăng khít gữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp
và giải phóng con người.
+ Nền tảng tư tường và kim chi nam cho hành động của cách mạng Việt Nam:



Tư tường Hồ Chí Minh soi đường cho Đàng ta và nhân dân ta trên con đường thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong suốt những chặng đường cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ
dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận thức
đúng những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội
và bảo đảm quyền con người, bởi vì Hồ Chí Minh đã suốt đời phấn đấu cho việc giải
phóng các dân tộc, đã để ra lý luận về sự phát triển của các dân tộc giành được độc lập tiến
lên chủ nghĩa xã hội và luôn luôn quan tâm đến lợi ích con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là chỗ dựa vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối cách mạng
đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta di tới thắng lợi.
− Giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Phát triển tư duy lý luận:
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại, không chỉ là sản phầm của dân tộc, của giai cấp
công nhân Việt Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
Ngay trong nhũng năm 20 của thế kỷ XX, cùng với quá trình hình thành về cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh. Người đã có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin: Giành độc lập dân tộc
để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cũng có những nhận thức sâu sắc và độc đáo
về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong các mạng giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Người chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của độc lập dân tộc trong tiến trình đi lên chủ
nghĩa xã hội, về tính tự thân vận động của công cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân
các nước thuộc địa và phụ thuộc, về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc thuộc
địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và về khả năng cách mạng giải phóng dân tộc
thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc.
Từ nghiên cứu lý luận, áp dụng vào những điều kiện cụ thể, Hồ Chí Minh đã hình thành
một hệ thống các luận điểm chính xác và đúng đắn về vấn đề dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin.


+ Phản ánh chân lý thời đại:
Có thể nói đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối VỚI thòi đại là từ việc xác định con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, đến việc xác định
được một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là một phương pháp để
thức tỉnh hàng trăm triệu con người bị áp bức trong các nước thuộc địa lạc hậu.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn là ở chỗ ngay từ rất sớm. Người
đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại. Trên cơ sở nắm vững đặc điểm thời đại .
Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam, với cách mạng thế
giới. Người đặt cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô sản.
Người cương quyết bảo vệ và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về khả năng to lớn và vai
trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản.
Với việc nắm bắt chính xác xu thế phát triển của thời đại : Hồ Chí Minh đã đề ra đường
lối chiến lược, sách lược phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân tộc Việt Nam. Những tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi
mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại. Đó là một
sự thật lịch sử.
+ Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả:
Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, người thầy thiên tài của cách mạng Việt
Nam, nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, một chiến sĩ
kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh đã làm sống lại những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp
cứu nước của Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục của gần một thế kỷ nô lệ đè nặng trên
đầu dân tộc ta.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng Hồ Chí Minh.
Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột và xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Sự nghiệp cách mạng vĩ đại và đạo đức phầm chất
cao quý đã thống nhất làm một ở Hồ Chí Minh.

Trong lòng nhân dân thế giới. Chủ tịch Hồ Chi Minh là bất diệt. Bạn bè năm châu khâm
phục và coi Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp của những gì thuộc về lương tri và phẩm
giá làm người.


Câu 2: Phân tích nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chi Minh về độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi cùa vấn đề dân tộc thuộc địa.
− Độc lập tự do là khát vọng lớn nhất, là quyền tự nhiên, thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của dân tộc thuộc địa. Theo Hồ Chí Minh, tất cả các dân tộc trên thế giới, dù dân tộc đó là
“thượng đẳng” hay “hạ đẳng”, “văn minh” hay “lạc hậu” đều có quyền được hường độc
lập, đều có quy'ền được sống, quyền sung sướng và quyên tự do. Hay khi đọc bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã tuyên bố rằng
"Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do độc lập. Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thân và lực lượng, tính mạng và cùa
cải để giữ vữne nền tự do, độc lập ấy”.
− Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đó phải là
một nền độc lập thật sự, hoàn toàn, gắn với hòa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước.Nguyễn Aí Quốc đã từng tuyên bố “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa
bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng đề bảo vệ lãnh thổ
cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”; “đồng bào Nam Bộ là nhân dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí đó không bao giờ thay đổi”
− Độc lập dân tộc là nền độc lập trên tất cả các lĩnh vực : KT, CT, QS, ngoại giao. Độc lập,
tự do dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải thực sự, hoàn toàn chứ không phải thứ độc lập, tự
do giả hiệu giống như “cái bánh vẽ” mà chủ nghĩa đế quốc nếu ra. Độc lập dân tộc phải
được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, các quyền dân tộc, quyền con
người phải được thực tế hóa. Một dân tộc độc lập thi phải có quyền tự quyết định trên tất
cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, đối ngoại, toàn vẹn lãnh thổ, mà trước hết và quan
trọng nhất là tự quyết về mặt chính trị.
− Độc lập dân tộc phải gắn với cuộc sống âm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Theo Hồ
Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do của nhân dân. Người chi rõ: “Nước độc

lập mà dân không được tự do thì độc lập ấy chăng có nghĩa lý gì”. Độc lập tự do phải phải
gắn liền với hòa bình chân chính. Muốn có độc lập, tự do phải đấu tranh chống lại ách áp
bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Người khẳng định: “Chúng ta phải làm sao thực hiện
ngay: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở,làm cho dân có học
hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là ở đó, đi đến để dân ta xứng đáng với tự do độc lập
và giúp vào tự do độc lập” Từng bước thực hiện mục tiêu Tự do - Hạnh phúc của con
người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã làm gia tăng gấp bội sức mạnh dân tộc để vượt qua mọi


thử thách, đưa Tổ quốc ta bước vào điểm xuất phát của kỷ nguyên Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc.
− Độc lập dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập dân tộc khác, vấn đề dân tộc theo quan
điểm HCM, đó là 1 vấn đề mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc thể hiện sự kết hợp
nhuần nhuyễn sâu sắc vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp chủ nghĩa yêu nước chân chính và
chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

Câu 3: Tại sao Hồ Chí Minh khẳng định “Cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản”.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường cách mạng vô sản:
− Bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước khi Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm
đường cứu nước:
Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng
nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào “tình hình
đên tối tưởng như không có đường ra". Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con
đường cứu nước mới.
Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha. Người nhận thấy
con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì "đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Con
đường của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Con đường của
Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn. nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí

Minh không tán thành các con đường của họ, mà quyết tâm ra đi tìm một con đưòng mới.
− Cách mạng tư sản là không triệt để:
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nuớc Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản
Mỹ; đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng
tư sản Pháp. Người nhận thấy: Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ là không triệt để.
Bởi lẽ đó Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.
− Con đường giải phóng dân tộc:


Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười không chỉ là một cuộc cách mạng vô
sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải
phóng các dân tộc thuộc địa.
Người hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp
bức" Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc:
con đường cách mạng vô sản.
Câu 4: Vì sao quan điểm “ lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm
toàn dân tộc” là đặc điểm khác biệt lớn giữa Hồ Chí Minh với những nhà hoạt động
cách mạng đương thời.
Hồ Chí Minh đã từng nghiêm khắc phê phán việc lây ám sát cá nhân và bạo động non
làm phương thức hành động, “hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức: hoặc
làm cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự cường”. Người khẳng định "cách mạng là việc
chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người.
Trong Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ. Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy dân làm gốc”
xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. “Có dân là có tất cả”, “Dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai
trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và
năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi.
 Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc:
Hồ Chí Minh xác định lực lượng cách mạng bao gồm cả dân tộc: Đảng phải tập hợp đại

bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung
nông... vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam
mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập.
Trong lực lượng toàn dân tộc Hồ Chí Minh hết sức nhân mạnh vai trò động lực cách
mạng của công nhân và nông dân. Người phân tích: các giai cấp công nhân và nông dân có
số lượng đông nhất, nó có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức bóc lột nặng nề nhất, nên
“lòng cách mạng càng bền, chí cách mạng càng quyết” Khẳng định vai trò động lực cách
mạng của công nhân và nông dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của
những nhà yêu nước trước đó.


Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trò của công nhân và nông dân. Hồ Chí Minh không
coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác.
Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của
cách mạng.
Câu 5: Tại sao Hồ Chí Minh khẳng định “Cách mạng giải phóng dân tộc có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc”.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
− Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo:
Khi chuyển sang giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa), nền kinh tế hàng hóa phát
triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những
cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa. Các nước thuộc địa trở thành một trong những nguồn
sống của chủ nghĩa đế quốc.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, cách mạng thuộc
địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to
lớn.Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản quan tâm đến cách mạng
thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có
thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng.

Vì thế Người đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực
dân. Người chủ trương phát huy nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động trông
chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.
− Dựa trên quan hệ của cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc:
Hồ Chí Minh cho rằng, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô
sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc
đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ
không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ.
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc,
Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc.


Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất
quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được
thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế
kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng.
Câu 6: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về các đặc trưng tổng quát của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đặc trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh nghĩa là trên
những mặt về chính trị kinh tế, văn hóa - xã hội. Cụ thể chúng ta thấy Hồ Chí Minh nhấn
mạnh chủ yếu trên những điểm sau đây:
− Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ:
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ. nhân dân lao động là chủ và nhân dân lao
động làm chủ. Nhà nước là của dân do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân
mà nòng cốt là liên minh công - nông - lao động trí óc do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Mọi quyền lực trong xã hội đểu tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân đoàn kết thành
một khối thống nhất để làm chủ nước nhà. Nhân dân là người quyết định vận mệnh cũng
như sự phát triển của đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. HÒ Chí Minh coi nhân dân
có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực. Chủ nghĩa xã hội chính là sự nghiệp của

chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân
dân.
− Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát
triển của khoa học - kỹ thuật:
Đó là xã hội có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao,
sức sản xuất luôn luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa học - kỹ thuật, ứng dụng có
hiệu quả những thành tựu khoa học - kỹ thuật của nhân loại.
− Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người:
Đây là một vấn đề được hiểu nó như là một chế độ hoàn chỉnh, đạt đến độ chín muồi.
Trong giai đoạn đầu (quá độ lên chủ nghĩa xã hội), vẫn có tình trạng bóc lột sức lao động
của người lao động làm thuê. Trong chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư
liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là một xã hội được xây
dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.


− Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức:
Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không
còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí
óc, giữa thành thị và nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn
diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã hội và tự nhiên.
Các đặc trưng nêu trên là hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản
của quá khứ vừa được sáng tạo mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa
xã hội là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh quan
niệm chủ nghĩa xã hội là sự tổng hợp quyện chặt ngay trong cấu trúc nội tại của nó, một hệ
thống giá trị làm nền tảng điều chỉnh các quan hệ xã hội, đó là độc lập, tự do, bình đẳng,
công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền con người, bác ái, đoàn kết, hữu nghị.
Câu 7: Trình bày các điểm sáng tạo lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản Việt Nam.
 Nhấn mệnh chủ nghĩa yêu nước
− Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác- Lenin với phong

trào công nhân và phong trào yêu nước. HCM thêm yếu tố “yêu nước” vì:
+ Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển dân
tộc Việt Nam. Được hình thành rất sớm trong lịch sử và được thử thách qua ngàn năm lịch
sử, là văn hóa tốt đẹp nhất của dân tọc Việt Nam trong thời kì kháng chiến.
+ Hai là phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước vì có mục tiêu chung là
giành độc lập chủ quyền và có cùng chung kẻ thù.
+ Ba là phong trào nông dân kết hợp với phong trào công dân.
+ Bốn là phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết
hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 Sáng tạo về vai trò cùa Đảng
Đảng Cộng sàn là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng
lợi
− Sức mạnh quần chúng nhân dân chi có thể phát huy được qua sự lãnh đạo thống nhất,
đúng đắn và vững vàng của một tổ chức chính trị.
− Cách mệnh muốn thành công trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì tổ chức và
vận động quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi
nơi.


− Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì
quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ, chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đ ảng để tồ
chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính
quyền.
− Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai
cấp, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, ngoài ra Đảng không có lợi ích nào khác.
 Sáng tạo về bản chất của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam.
− HCM hoàn toàn tuân thủ những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin về xây dựng Đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản, nhưng luận điểm sáng tạo của Người là “Đảng của ai”: Nói

như trên vì: Đảng là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích
cùa toàn thể dân tộc, không thiên tư, thiên vị; quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc là một.
− Đảng cùa giai cấp, của nhân dân lao động và của dân tộc nhưng lại mang bản chất của giai
cấp công nhân.
− Nội dung quy đinh bản chất của giai cấp công nhân không phải chỉ là ở số lượng đảng viên
xuất thân từ công nhân mà là ở nền tảng lý luận và tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác
Lênin; ở mục tiêu đường lối của Đảng, ở vấn đề Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt
chẽ những nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của giai câp vô sản.
 Phương thức cầm quyền của Đảng
− Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền:
+ Mục tiêu lý tường của Đảng cầm quyền: Đảng không có lợi ích nào ngoài lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân. Đó là mục đích, lý tường cao cả không bao giờ thay đổi trong suốt
quá trinh lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
+Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân:
Lãnh đạo phải bằng giáo dục, thuyết phục, nghĩa là Đảng phải làm cho dân tin dân phục
và dân theo. Phải đi đường lối của quần chúng, không được quan liêu mệnh lệnh và gò ép
nhân dân, mà phải giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ dân chúng để thức tỉnh họ. Đồng thời,
Đảng phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một khối thống nhất, bày cách cho dân và hướng
dẫn họ hành động. .


Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn
học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân. Phải tận tâm tận lực phụng sự
nhân dân nhằm đem lại các quyền lợi và lợi ích cho nhân dân.
+Đảng cầm quyền, dân làm chủ: Quyền lực phải thuộc về nhân dân, xây dựng một Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Đảng lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và củng cố quyền
làm chủ của nhân dân.
Câu 8: Nêu các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng. Nguyên tắc nào là nguyên tắc
cơ bản? Vì sao?

Các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng:






Nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách
Nguyên tắc tự phê bình.
Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
Nguyên tắc đoàn kết trong Đảng
Trong các nguyên tắc này nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản
trong xây dựng Đảng. Nguyên tắc này thể hiện sự thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa “tập
trung” và “dân chủ”. Mặt này là điều kiện của mặt kia và ngược lại,về mối quan hệ giữa
“tập trung” và “dân chủ” được Hồ Chí Minh khẳng định: tập trung trên nền tảng dân chủ
và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, là cơ sở của tập trung. Nếu không có sự gắn bó và
thống nhất với nhau thì sẽ dẫn tới độc đoán chuyên quyền và tự do vô tổ chức, vô kỷ luật.
Tuy nhiên, “tập trung” và “dân chủ” có nội dung cụ thể.
“Tập trung" là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp
hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho Đảng ta “tuy nhiều người, nhưng
khi tiến đánh chỉ như một người”.
Còn dân chủ theo Hồ Chí Minh, là của quý báu nhất của nhân dân là thành quả của cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân chủ được thể hiện tư tưởng phải được tự do. Tự do
là thế nào? Đối với mọi vấn đề mọi người được quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp
phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi
người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền
tự do phục tùng chân lý. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc thực hiện và phát huy dân chủ
nội bộ, vì nếu không có dân chủ nội bộ thì sẽ làm cho “nội bộ của Đảng âm u”. Hơn nữa



dân chủ trong Đảng mới có thể nói dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây
dựng một chế độ dân chủ thật sự.
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo hay chế độ lãnh đạo của
Đảng. Nguyên tắc này cũng có hai mặt gắn bó mật thiết với nhau, gần với nguyên tắc tập
trung dân chủ vì tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Trong lãnh đạo phải tập thể vì nhiều người thì
nhiều kinh nghiệm, còn một người, dù tài giỏi đến mấy cũng không thể xem xét tất cả mọi
mặt của vấn đề. Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn chân lý của nó rất rõ rệt. Tục
ngữ có câu: "Khôn bầy hơn khôn độc” là nghĩa đó.
Cá nhân phụ trách là trên cơ sở bàn bạc kỹ lưỡng của tập thể, công việc mới chạy, kế
hoạch định rõ ràng rồi thì giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế
hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách. Không có cá nhân phụ trách thì sẽ
sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai
thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong. Tục ngữ có câu: “Nhiều sãi không ai đóng
cửa chùa" là như thế.
Trong khi thực hiện nguyên tắc phải chống lại căn bệnh độc đoán chuyên quyền và dựa
dẫm vào tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. Hồ Chí Minh nêu
rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là
hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ.
Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi
với nhau”.
Câu 9: Tại sao xây dựng Đảng phải coi trọng nguyên tắc “tự phê bình và phê
bình”?
Mục đích, thái độ và phương pháp tự phê bình và phê bình.
Tại vì nguyên tắc tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, là quy luật
phát triển của Đảng. Đảng cũng từ trong xã hội mà ra nên có những căn bệnh trong xã hội
lây ngấm vào Đảng. Cá nhân đảng viên, cán bộ cũng là con người, cũng có cái tốt, cái xấu,
thiện, ác trong lòng. Con người ta không phải là thánh thần, ai cũng có khuyết điểm cả. Tự
phê bình là thuốc đắng nhưng giã tật. Ngược lại nếu không tự phê bình thì như người có

bệnh mà không uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Một
Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận


khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn
cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế
là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Mục đích của tự phê bình và phê bình phải nhằm để giúp nhau tiến bộ, làm cho phần tốt
trong mỗi con người này nở như hoa mùa xuân,làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu mất
dần đi, tức là nói đến chân, thiện, mỹ.
Về thái độ và phương pháp tự phê bình và phê bình được HCM nêu rõ ở những điểm
như:
+ Phải được tiến hành thường xyên như người ta rửa mặt hằng ngày; liên tục, từ trên xuống
và từ dưới lên; đảm bảo công khai, dân chủ gắn với sửa chữa, biểu dương, khen ngợi.
+ Phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không giấu giếm và cũng không
thêm bớt khuyết điểm, “dĩ hòa vi quí”. Cũng không lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ,
vùi dập, đả kích người khác.
Câu 10: Thế nào là đại đoàn kết toàn dân? Vì sao đại đoàn kết toàn dân phải trên
tinh thần khoang thứ, độ lượng, tin vào dân?
 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ ràng, toàn diện, có
sức thuyết phục, tha phục lòng người. Các khái niệm này có biên độ rất rộng lớn. Hồ Chí
Minh thường dùng khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "mỗi một người con
Rồng cháu Tiên", không phân biệt dân tộc đa số hay thiếu số, có tín ngưỡng hay không tín
ngưỡng, không phân biệt "già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện". Như vậy “dân” và
“nhân dân” vừa là để chỉ một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mọi con người Việt
Nam cụ thể, cả hai đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc.
Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp dược mọi người dân vào một
khối thống nhất trong cuộc dấu tranh chung. Đó trả lời cho câu hỏi: Đoàn kết với ai? Hồ
Chí Minh nhiều lần nêu rõ: “... Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tồ quốc và

phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Đại đoàn kết toàn dân được xuất phát từ sự kế thừa và nâng cao tư duy chính trị truyền
thống của dân tộc như: “nước lấy dân làm gốc”;
"Dễ mười lần không dân cũng chịu


Khó trăm lần dân liệu cũng xong "
Hồ Chí Minh khái quát sâu sắc rằng: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Nước lấy dân làm
gốc. Gốc cỏ vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Do đó, Đại đoàn kết
tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao dộng khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó
cũng như cái nền nhà, gốc của cây.
Đoàn kết toàn dân trên tinh thần khoan thứ, độ lượng, tin vào dân thì mới đoàn kết bền
vững:
Phải có lòng khoan dung, độ lượng, thương yêu, tin tưởng con người. Quan điểm này
của Hồ Chí Minh đã kê thừa truyền thống nhân ái, khoan dung của dân tộc, trên cơ sở xác
định rõ vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của nhân dân trong lịch sử và trong sự nghiệp
cách mạng.
Người cho rằng: “Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này
hay thế khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng, đại lộ, ta phải
nhận rằng là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những
đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới
thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn vẻ vang”. Người chỉ ra rằng, trong
mồi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt
xấu.... Cho nên, vì lợi ích cách mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng cái
phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập họp, quy tụ rộng rãi mọi lực lược
Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân
dân là nguyên tắc tối cao, mới có thể thực hiện đại đoàn kết rộng rãi. Đây là sự tiếp nối
truyền thống của dân tộc “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền

cũng là dân”. Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch
của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi cách mạng, là nền và gốc của Mặt trận.
Câu 11: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân và vì
dân.
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản
của chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai? Năm 1927, trong cuốn
“Đường Kách Mệnh” Bác chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho


đến nơi, nghĩa là làm sao kách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh
phúc”. Hồ Chí Minh đã giải thích rất ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu nội dung nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Nhà nước của dân:
- Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và
trong xã hội đều thuộc về nhân dân.
Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Năm 1946) nói: “Nước
Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
- Nhân dân có quyền quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân
tộc.
Điều 32 (Hiến pháp 1946 quy định: “Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ
đưa ra nhân dân phúc quyết...”, thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân
chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
Hoặc khi dân bầu ra các đại biểu, uỷ quyền cho họ bàn và quyết định những vấn đề
quốc kế dân sinh, thì nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân nếu họ không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
- Nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền
làm những việc pháp luật không cấm và có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp
và pháp luật. Đồng thời, là người chủ cũng phải thể hiện năng lực, trách nhiệm làm chủ

của mình.
Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ
của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, là “công bộc”
của dân; phải làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải đứng trên nhân dân, coi
khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”.
Nhà nước do dân:
- Nhà nước phải do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình:
Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động, vận
hành bộ máy để phục vụ nhân dân.


Nhà nước đó do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ.
Nhà nước do dân tạo ra và tham gia quản lý, thể hiện ở chỗ:
+ Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ
quan duy nhất có quyền lập pháp.
+ Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ
(nay gọi là Chính phủ).
+ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, thực hiện các nghị
quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.
+ Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của
dân (Thông qua Quốc hội do dân bầu ra).
- Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ
chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Người nói:
“Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”, nghĩa là khi cơ quan nhà
nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn
nó. Hồ Chí Minh khẳng định: mỗi người có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần” vì
quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Nhà nước vì dân:
- Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có
đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ

chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân
- Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân
và lấy con người làm mục tiêu phấn đấu lâu dài. Trách nhiệm của Nhà nước là nhằm thoả
mãn những nhu cầu thiết yếu của nhân dân, mà trước hết là:
“Làm cho dân có ăn
Làm cho dân có mặc
Làm cho dân có chỗ ở
Làm cho dân có học hành”
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,


Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”
-

Nhà nước vì dân là nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm trước dân, HCM nói
“Nếu dân đói Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân rét đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân dốt
đảng và chính phủ có lỗi”. Nhà ước vì dân là nhà nước sống trong lòng dân, luôn luôn đặt
lợi ích của nhân dân lên trên hết.

Câu 12: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất và chức năng của văn
hóa.
 Theo tư tưởng Hồ Chí Minh văn hóa luôn bao hàm ba tính chất: tính dân tộc, tính khoa
học và tính đại chúng:
− Tính dân tộc (hay còn gọi là đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc) : nhằm nhấn mạnh đến
chiều sâu bản chất rất đặc trưng của văn hóa dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm lẫn với
văn hóa của dân tộc khác. Người cho rằng, "nếu dân tộc hóa mà phát triển đến cực điểm
thì tức là đến chỗ thế giới hóa nó vì lúc bấy giờ văn hóa thế giới sẽ phải chú ý đến văn hóa
của mình và văn hóa của minh sẽ chiếm được địa vị ngang với các nền văn hóa thế giới".
Tính dân tộc của nền văn hóa không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp

ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước.
− Tính khoa học: thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hóa của thời đại.
những người làm văn hóa phải có trí tuệ hiểu biết khoa học tiên tiến, phải có chiến lược
xây dựng văn hóa mang tầm thời đại.Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh
chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ, phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít
đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm, thần bí, mê tín dị đoan, phải biết gạn đục khơi
trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
− Tính đại chúng thể hiện ở chỗ nền văn hóa ấy phải phục vụ nhân dân và do nhân dân xây
dựng nên, Hồ Chí Minh nói, "văn hóa phục vụ ai? cố nhiên, chúng ta phải nói là phục vụ
công nông binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân"; "Quần chúng là những người sáng
tạo, còn nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không chỉ sáng tạo ra những
của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa...".
 Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có ba chức năng cơ bản:
− Một là, bòi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ những sai
lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người.


Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng những tư tưởng và tình cảm lớn có ý
nghĩa chi phối đời sống tinh thân của mỗi người và của cả dân tộc. Tưtưởng lớn nhất mà
Người yêu cầu Đảng và nhân dân ta phải xây dựng là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Những tình cảm lớn mà Hồ chí Minh chủ trương xây dựng cho mỗi
người là lòng yêu nước, tình yêu thương con người; yêu cái chân, cái thiện và cái mỹ; yêu
tính trungthực, thuỷ chung, chân thành, ghét những thói hư, tật xấu, sa đoạ, biến chất,v.v...
− Hai là, nâng cao dân trí. Đó là nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức của người
dân. Trình độ đó phải từ chỗ không biết chữ đến chỗ biết chữ, từ chỗ biết chữ đến chỗ hiểu
biết các lĩnh vực khác cần thiết cho hoạt động cuả mỗi người như kinh tế, chính trị, vắn
hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, thực tiễn Việt Nam và thế giới,v.v...
− Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh luôn hướng con
người vươn tới chân, thiện, mỹ.
Muốn tham gia vào việc tạo ra những giá trị văn hoá, đồng thời biết hưởngthụ một cách

đúng đắn những giá trị văn hoá của xã hội, mỗi người không chỉ cần có những tư tưởng
đúng đắn, tình cảm cao đẹp, những hiểu biết ngày càng đước nâng cao, mà còn phải trau
dồi cho mình những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, văn hóa phải giúp
cho con người biến những tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp thành phẩm chất và phong
cách của chính mình mới có thể sử dụng được kiến thức để tham gia vào việc tạo ra những
giá trị văn hoá cho xã hội và biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị văn hoá của
xã hội. Mỗi người phải biết phân biệt cái tổt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái
tiến bộ thúc đẩy sự phát triển xã hội với cái lạc hậu cản trở mỗi người và cả dân tộc tiến
lên phía trước. Từ đó, mỗi người phải phấn đấu làm cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng
tăng, cái tiến bộ ngày càng nhiều, cái lỗi thời, lạc hậu ngày càng giảm bớt, cái xấu xa, hư
hỏng ngày càng bị loại bỏ khỏi đời sống con người và xã hội.
Câu 13: Phân tính chất cách mạng của những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức.
 Trung với nước hiếu với dân:

- Trung với nước:
+ Trong mối quan hệ cá nhân với cộng đồng và xã hội, phát triển đặt lợi ích của
Đảng, của Tồ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.
+ Phải quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.


+ Thực hiện tốt mọi chủ trưong, chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Hiếu với dân:
+ Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
+ Tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến dân, gắn bó mật thiết với dân.
+ Tồ chức, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
+ Hết lòng vì dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của dân.
 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:


- Cần: lao động, chuyên cần, siêng năng, sáng tạo, có kết hoạch, năng suất cao,..
- Kiệm: tiết kiệm sức lao động, thời gian, tiền của dân, của nước, của bản thân,...
- Liêm: giừ gìn của công, trong sạch, không tham địa vị, tiền tài, sung sướng,...
- Chính: thẳng thắn, đứng đán,....
+ Đối với mình: không nên tự cao, tự đại, luôn cầu tiến, học hỏi
+ Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem thường người dưới,
khiêm tốn, đoàn kết,...
+ Đối với việc: để việc nước lên trên, lên trước việc tư việc nhà,..

- Chí công vô tư:
+ Không nghĩ đến mình trước, không màng công danh, phú quý, ham làm những
việc ích quốc lợi dân,..
+ Đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân trên hết, trước hết,...
 Yêu thưong con người, sống có tình nghĩa:

- VỊ trí: là một trong những phẩm chất đạo dửc cao đẹp nhất của HCM.
- Phạm vi: gia đình, anh em, họ hàng, bâu bạn, đồng bào cả nước và cả loài
người.


- Đối tượng: những người bị áp bức, bóc lột, người lao động, người nô lệ, người
có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và có gắng sưa chữa.

 Có tinh thần quốc tế trong sáng:

- Đoàn kết quốc tế vô sản, “Bốn phương cộng sản đều là anh em”
- Đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trên thế
giới.


- Đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì
hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội

- Mục tiêu: hòa bình, độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hợp tác và hữu nghị
với tất cả các nước, các dân tộc.
Câu 14: Phân tích những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức.
Những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức là:
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
Nói đi đôi với làm, trước hết là sự nêu gương tốt Sự tiêu gương của thế hệ đi trước với
thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân viên... Đảng viên phải nêu gương trước quần chúng.
Người nói: ‘Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta
được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân,
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Hai là, xây đi đôi với chống.
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết
phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với những yêu cầu
của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.


Xây dựng đạo đức mới trước hết phải đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình đến
nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hóa sát
hợp với từng tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã nêu rất cụ
thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đổi với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội.
Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh trong mỗi
người, để mỗi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong đấu tranh chống lại cái
tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.

Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng
rộng rãi biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “3 xây. 3
chống”, viết sách “người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức lối sống.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành.
Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”[1]. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ
nghĩa cá nhân”
Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người
khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cùng có thiện,
có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối,
huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu. cái ác
để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong
mọi mối quan hệ của mình, trong như trong sinh hoạt cộng đồng. Không thể là chiến sĩ thi
đua ở nơi công tác khi về nhà lại mắng vợ chửi đời, đánh con. Những người như thế không
phải là người có đạo đức cách mạng.



×