Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

ĐIA DANH HARAPPA sông Ấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.88 KB, 18 trang )

Bố cục
1. Vị trí địa lý và tên gọi
2. Phát hiện và khám phá nền văn minh sông Ấn – Harappa
3. Sự suy tàn của nền văn minh Harppa
4. Harappa hiện nay

1


1. Vị trí địa lý và tên gọi

Vị trí địa lý
Một trong những nền văn minh cổ đại trên khảo cổ học bằng chứng ngày 30005000 BC 15 dặm (24 km) về phía tây nam từ trung tâm thành phố ở ngoại
ô Harapa đó là thành phố phía bắc của Văn minh lưu vực sông Ấn . Harrapa bây
giờ là một ngôi làng lớn ở giải hạng Sahiwal Punjab, 15 dặm (24 km) về phía tây
nam huyện lỵ. Các nhà khảo cổ học nghĩ rằng vào thời cổ đại, Harappa là trung
tâm đô thị ở vùng thượng lưu, giống như Mohenjo-daro thống trị thung lũng Indus
phía dưới và Ganweriwala có thể là trung tâm đô thị cho ngày nay
là Rajasthan . Địa điểm tại Harappa được khai quật đầu tiên bởi Sir Alexander
Cickyhamvào năm 1872-73, hai thập kỷ sau khi Brick Robbers thực hiện phần còn
lại của thành phố. Ông tìm thấy một con dấu Indus không rõ nguồn gốc.

Ngôi làng Harappa hiện nay có cự ly là 6 km từ địa điểm khảo cổ cổ đại. Mặc dù
Harappa hiện đại có một ga đường sắt di sản từ thời kỳ của Raj thuộc Anh, ngày
nay nó chỉ là một thị trấn nhỏ ngã tư dân số 15.000 người. Địa điểm của thành phố
cổ chứa những tàn tích của một thành phố được gia cố thời kỳ đồ đồng, mà là một
phần của nền văn hóa Nghĩa trang H và Văn minh thung lũng Indus, tập trung ở
2


Sindh và Punjab. Thành phố này được tin là đã có đến 23.500 cư dân và có diện


tích khoảng 150 ha vào thời điểm lớn nhất của nó trong giai đoạn trưởng thành
Harappan (2600-1900 trước Công nguyên), được coi là lớn cho vào thời đó.
Tên gọi

Thành phố cổ Harappa
Địa điểm này lấy tên từ một ngôi làng hiện đại nằm gần dòng chảy cũ của sông
Ravi.
Một tên gọi khác của nền văn hóa này, nền văn minh Sindhu-Sarasvati, dựa trên
thuyết cho rằng nền văn minh này là nền văn minh đã được nhắc đến trong văn học
Veda.
Còn theo quy ước khảo cổ về việc đặt tên một nền văn minh chưa từng được biết
đến trước đây bởi địa điểm khai quật đầu tiên, Văn minh Indus Valley còn được gọi
là Văn minh Harappan.
3


2.

Phát hiện và khám phá nền văn minh sông Ấn – Harappa
Việc phát hiện ra nền văn minh Thung lũng Indus lần đầu tiên vào năm 1800 bởi
người Anh. Việc ghi chép lại đầu tiên là do một đào ngũ quân đội Anh, James
Lewis, người đã được xem như một kỹ sư người Mỹ vào năm 1826. Ông nhận thấy
sự hiện diện của những đống di tích tại một thị trấn nhỏ ở Punjab gọi là Harappa.
Vì Harappa là thành phố đầu tiên được tìm thấy, và những phái hiện sau đó đều
được gọi là nền văn minh Harappan.
Thành phố Harappa đổ nát đã được biết đến từ lâu và được Charles Masson
miêu tả lần đầu tiên vào năm 1844 trong quyển Narrative of Various Journeys in
Balochistan, Afghanistan and The Panja của ông như là “một pháo đài xây bằng
gạch nung từ đất sét đã bị phá hủy”, tầm quan trọng của nó chỉ được nhận biết rất
lâu sau đó.


2.1.

Dân cư và đô thị
Cho đến nay, thành phố lớn nhất được tìm thấy trong thung lũng sông Ấn là
Mohenjo Daro, đồi của người chết – The mound of death, nằm trong tỉnh Sindh
của Pakistan ngày nay, ngay cạnh sông Ấn. Cùng với những di chỉ khảo cổ quan
trọng khác như Kot Diji, Lothal và Harappa, đặc điểm của Mohenjo Daro là kiến
trúc đồng nhất trong xây dựng thành phố, đặc biệt là trong hệ thống cung cấp nước
và hệ thống nước thải. Các thành phố được xây dựng tương tự như một bàn cờ,
chứng minh cho những hiểu biết tiến bộ trong khoa vệ sinh và quy hoạch đô thị.
Mặc dù, cũng có thể nền văn minh Harappa tồn tại trước đó nhưng thời kỳ phát
triển rực rỡ nhất là vào khoảng từ 2600-1900 TCN, đánh dấu đỉnh cao của phát
triển kinh tế và phát triển văn minh đô thị. Việc tính niên đại bằng phương pháp sử
dụng radio carbon, cùng với việc so sánh các hiện vật, đồ gốm phát hiện được đã
xác định được niên đại hình thành thành phố Harappa và các thành phố khác ở
vùng sông Indus.

4


Đây có thể coi là thời kỳ hoàng kim của nền văn minh Harappa. Thời kỳ này đã
chứng kiến việc phát triển công nghệ thủ công, thương mại, và mở rộng đô thị. Lần
đầu tiên trong lịch, có bằng chứng cho thấy nhiều người dân thuộc các tầng lớp
khác nhau với nhiều loại hình nghề chung sống với nhau. Giai đoạn 2800 - 2600
TCN còn được gọi là thời kỳ Kot Diji, Harappa đã phát triển thành một trung tâm
kinh tế phát triển mạnh với nhiều thị trấn và các trung tâm buôn bán lớn. Cùng
với Harappa, các thành phố khác thung lũng Indus đã được xây dựng và kiến thiết
theo quy hoạch kiến trúc theo hinh ô. Thành phố được xây dựng theo mô hình lưới
giống với định hướng của đường phố và các tòa nhà được thiết kế theo quy hoạch

cụ thể. Để tạo thuận lợi cho việc tiếp cận các khu phố khác và để phân biệt khu vực
tư nhân và công cộng, thành phố và đường phố được tổ chức đặc biệt. Các thành
phố có nhiều giếng nước, và một hệ thống thoát nước rất tinh vi. Tất cả các nhà của
người dân Harappan được trang bị nhà vệ sinh, nhà tắm, và nước thải cống rãnh
mà đổ vào hệ thống thoát nước lớn hơn và cuối cùng lắng đọng bùn màu mỡ được
sử dụng vào mục đích làm nông nghiệp. Nhà dân trong các khu phố tại khu vực
phía dưới được xây dựng rất hợp lý và được kết cấu từ gạch đất sét nung. Khoảng
50% nhà có diện tích từ 50 m² đến 100 m², cũng khoảng từng ấy nhà có diện tích
5


giữa 100 m² và 150 m² và một số ít có diện tích lớn từ 210 m² đến 270 m². Thông
thường chúng bao gồm một sân trước nối liền ra đường bằng một phòng ở phía
trước, từ đấy có thể đi đến các căn phòng chính, được sắp xếp chung quanh sân.
Sân này chính là nơi sinh hoạt hằng ngày. Trên các căn phòng thường có sân
thượng, có cầu thang đi lên. Một căn nhà thông thường có nhà vệ sinh riêng, nằm
nhìn ra đường phố và được kết nối với hệ thống thoát nước công cộng. Nhà có
giếng riêng cung cấp nước. Mức độ cung cấp và thải nước rất cao, vài vùng của
Pakistan và Ấn Độ ngày nay vẫn chưa đạt lại được mức độ này. Điều đáng ngạc
nhiên đối với các nhà khảo cổ khi phát hiện ra cách bố trí trang và phong cách tạo
tác trên toàn khu vực sông Ấn có những nét tương đồng. Điều này chứng tỏ rằng
rằng có sự thống nhất cơ cấu kinh tế và xã hội ở thành phố này.
Mohenjo-Daro là thành phố được khảo sát tốt nhất của văn hóa sông Ấn. Trong
các thập niên 1920 và 1930, Cơ quan khảo cổ Anh đã tổ chức khai quật rộng khắp
tại đây và đào lộ thiên nhiều phần lớn của thành phố đã hoàn toàn bị chôn vùi trong
bùn lầy của sông Ấn 4.500 năm trước đó. Thành phố được xây dựng trên một nền
nhân tạo làm bằng gạch đất sét và bằng đất được xem như là để bảo vệ chống lụt.
Cạnh một vùng nằm cao hơn, rộng 200 m và dài 400 m, được xem là thành lũy, là
một vùng được coi như là khu dân cư, nơi có nhiều nhà dân. Giữa 2 khu vực này là
một khoảng trống rộng 200 m. Các con đường chính có nhiều ngang 10 m chạy

xuyên qua thành phố theo hướng Bắc-Nam và đường nhỏ thẳng góc với đường lớn
theo hướng Đông-Tây, từ đó hình thành các khu nhà cho người dân thành phố.
Trong khu thành lũy mà mục đích vẫn chưa rõ có một bể nước được làm bằng một
loại gạch đặc biệt nung từ đất sét, được khám phá trong năm 1925, có độ lớn vào
khoảng 7 m x 12 m và có thể đi lên qua 2 cầu thang. Bể nước được bao bọc bởi
một lối đi, có một giếng nước cung cấp riêng trong một phòng cạnh đó. Người ta
vẫn chưa rõ đây là một bể nước để tắm rửa trong nghi lễ hay là một bể bơi công
cộng. Cũng trên nền này là một căn nhà lớn làm từ gạch nung được xem như là kho
trữ ngũ cốc mặc dầu chức năng này chưa được chứng minh
Trong việc quy hoach đô thị, việc thống nhất về chỉ số của những viên gạch
dùng để xây dựng tại các thành phố Indus là tất cả thống nhất về kích thước.
6


Dường như như kích thước gạch tiêu chuẩn đã được quy định và được sử dụng
trong việc xây dựng các thành phố. Bên cạnh việc sự dụng đồng nhất kích thước
gạch, việc cân đo lường cũng được thống nhất và sử dung chung cho các vùng
thuộc văn minh Harappa. Các quả cân ghi trọng lượng đo lường đã được tìm thấy
cho thấy độ chính xác đáng kể. Họ theo một hệ thống nhị phân thập phân: 1, 2, 4,
8, 16, 32, lên đến 12.800 đơn vị, nơi một đơn vị trọng lượng khoảng 0,85 gram.
Một số trọng lượng quá nhỏ mà họ có thể đã được sử dụng bởi các nhà kim hoàn
để đo lường kim loại quý
2.2.

Kinh tế
Kinh tế giao thương: nền kinh tế Harappa lúc bấy giờ khá đa dạng và đặc biệt là
dựa trên cơ sở một nền thương mại được ưu đãi bởi nhiều tiến bộ trong kỹ thuật
vận tải. Các tiến bộ này không những bao gồm xe do bò kéo rất giống những loại
xe này ngày nay tại Nam Á mà còn cả các loại tàu lớn nhỏ. Phần lớn những con tàu
này được phỏng đoán là tàu buồm có đáy bằng như vẫn còn nhìn thấy trên sông Ấn

ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã khám phá ra phần còn lại của một con kênh đào
lớn và bến cảng gần Lothal tại bờ biển Ả Rập. Đường thủy chính là trụ cột của hạ
tầng cơ sở vận tải thời đấy. Dựa và các đồ tạo tác còn sót lại của nền văn minh
sông Ấn và sự phân bổ của nó, mạng lưới thương mại bao phủ một diện tích rộng
lớn, bao gồm nhiều phần đất của Afghanistan, vùng bờ biển của Iran ngày nay, Bắc
và Trung Ấn Độ và vùng Lưỡng Hà. Đặc biệt là đã có trao đổi hàng hóa thường
xuyên với người Sumer, không những bằng đường bộ (qua Iran ngày nay) mà còn
bằng đường biển (qua Dilmun, ngày nay là Bahrain), đã được chứng minh bằng
nhiều di chỉ và tài liệu tại Sumer. Thí dụ như trong ngôi mộ của nữ hoàng Puabi
sống khoảng 2.500 năm trước Công Nguyên tại khu vực Lưỡng Hà đã có trang sức
làm bằng carnelian từ lưu vực sông Ấn. Thêm vào đó, chữ khắc người Sumer, được
phỏng đoán là nói về nền văn hóa sông Ấn, sử dụng tên Meluha, là manh mối duy
nhất cho việc người tại lưu vực sông Ấn đã có thể tự gọi mình như thế nào. Dường
như Mohenjo Daro là trung tâm của thương mại, nơi đã có thể nhận dạng một cấu
trúc hành chính và thương mại.
7


Kinh tế nông nghiệp: khó có thể nhận định được kỹ thuật nông nghiệp của
người dân Harappan thời bấy giờ do những phát hiện về khảo cổ học còn quá
mỏng. Điều đáng nói là nền nông nghiệp của văn minh Harappa phải có sản lượng
rất cao để nuôi sống hằng ngàn người dân trong thành phố không trực tiếp tham gia
vào hoạt động nông nghiệp. Việc trồng lúa, loại cây trồng vẫn còn chưa được biết
đến, mà phần lớn là trồng lúa mì. Người Harappa đã biết sử dụng sức kéo của trâu
cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của mình. Tận dụng phù sa bồi đắp, mầu mỡ
của con sông Ấn, cư dân Harappa đã phát triển trồng trọt và kết hợp với việc đánh
bắt cá, tương tự như những cư dân nông nghiệp tại nền văn minh Ai Cập cho đến
khi xây đập Nasser, thế nhưng phương pháp đơn giản này không đủ để nuôi sống
thành phố lớn.
Dấu tích về đập nước hay kênh tưới không được tìm thấy cho đến nay; nếu như

chúng đã tồn tại trong thời gian đó thì có lẽ là đã bị phá hủy trong lũ lụt thường hay
xảy ra tại vùng này. Từ một thành phố vừa được khám phá tại Ấn Độ người ta biết
rằng thời đấy nước mưa đã được thu thập lại trong các bể nước lớn được đục từ các
tảng đá, cung cấp nước cho thành phố trong mùa khô.
Lúa mì, lúa mạch, đậu lăng, đậu tròn và cây lanh được trồng trong nền văn hóa
Harappa. Gujarat thuộc vào khu vực chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Harappa
nhưng vì không có sông lớn nên chỉ trồng trọt theo mùa mưa và vì thế có nhiều
điểm khác nhau lớn trong kinh tế. Tại các di chỉ có niên đại muộn hơn của văn hóa
Harappa như tại Rojdi và Kutasi, cây kê chiếm đa số. Lúa mì và lúa mạch chỉ có
rất ít. Vì tìm được nhiều xương còn lại nên người ta cho rằng gà đã được nuôi như
gia cầm từ thời gian cuối của nền văn hóa Harappa.
Việc phân chia lao động đã được tiến hành triệt để vào thời đấy. Khai quật dọc
theo Ghaggra, một con sông ngày nay đã khô cạn nằm về phía Đông của sông Ấn,
cho thấy mỗi một nơi định cư đã chuyên môn về một hay nhiều kỹ thuật sản xuất.
Thí dụ như kim loại được chế biến trong một vài thành phố trong khi nhiều thành
phố khác sản xuất bông vải.

8


2.3.

Nghệ thuật
Kể từ khi phát hiện ra Harappa, các nhà khảo cổ đã cố gắng để xác định những
thuộc tầng lớp cai trị của thành phố này. Những gì đã được tìm thấy là rất đáng
ngạc nhiên bởi vì nó không giống như các mô hình chung sau các xã hội đô thị trẻ
khác. Có vẻ là những người cai trị thành phố Harappan và Indus thông qua sự kiểm
soát của thương mại và tôn giáo, thay vì bằng sức mạnh quân sự. Đây là một khía
cạnh thú vị của nền văn minh Harappa cũng như các thành phố khác thuộc nền văn
minh Indus về lĩnh vực nghệ thuật và điêu khắc, không có tượng đài được dựng lên

để tôn vinh, và không những bức họa lại chiến tranh hay chinh phục .
Cũng có thể suy luận rằng các nhà cai trị có thể là các thương gia giàu có, chủ
đất quyền lực hay các nhà lãnh đạo tinh thần. Dù là ai cai trị điều này đã được xác
định rằng họ đã cho thấy sức mạnh và địa vị của mình thông qua việc sử dụng con
dấu và đồ trang sức.
So với các nền văn hóa tại Ai Cập và Lưỡng Hà, có rất ít tượng đá được tìm thấy
tại lưu vực sông Ấn. Ngoài những vật khác, đầu cũng như tượng cừu đực ngự trên
đế được tìm thấy, chứng tỏ mang ý nghĩa về tế lễ. Ngược lại, người dân của nền
văn hóa sông Ấn sản xuất nhiều loại nữ trang khác nhau. Vật liệu ban đầu bao gồm
không những đá quý như carnelian, mã não, ngọc thạch anh và lapis lazuli cũng
như là vàng (ít hơn) và các loại đá khác. Vòng đeo tay, dây chuyền và đồ trang sức
đeo trên đầu được sản xuất với kỷ năng thủ công cao độ, bao gồm mài, đánh bóng
và những kỹ năng khác.
Bên cạnh đó nhiều tượng nhỏ làm từ đất sét được tìm thấy, thường là hình tượng
phụ nữ mảnh khảnh, có lẽ là biểu tượng cho khả năng sinh sản và tượng thú vật
được chế tạo rất chi tiết. Hội họa và âm nhạc cũng được coi trọng, như nhiều hình
tượng bằng đồng thau và đất sét biễu diễn các hoạt cảnh tương ứng chứng minh.
Trên một con ấn, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy miêu tả của một dụng cụ giống
như đàn thụ cầm và trên 2 vật được tìm thấy từ Lothal đã có thể xác định được là
các miêu tả nhạc cụ giây.
9


2.4.

Tôn giáo
Các học giả khó có thể rút ra một kết luận liên quan đến tôn giáo của người
Harappa. Không giống như Mesopotamia hoặc Ai Cập, ở đây không có các tòa nhà
lớn mang dáng dấp tôn giáo để chúng ta có thể kết luận nó có thể là một ngôi đền
hoặc liên quan đến bất kỳ nơi thờ phụng công cộng. Tuy nhiên, một số nhà sử học

lại đưa ra ý kiến cho rằng Harappan chính là tiền nhân của người Hindu và Hindu
giáo sau này.

Tượng ngồi trong tư thế yoga
Các học giả khó có thể rút ra một kết luận liên quan đến tôn giáo của người
Harappa. Không giống như Mesopotamia hoặc Ai Cập, ở đây không có các tòa nhà
lớn mang dáng dấp tôn giáo để chúng ta có thể kết luận nó có thể là một ngôi đền
hoặc liên quan đến bất kỳ nơi thờ phụng công cộng. Tuy nhiên, một số nhà sử học
lại đưa ra ý kiến cho rằng Harappan chính là tiền nhân của người Hindu và Hindu
giáo sau này.
Có thể khẳng định rằng, con người thời kỳ văn minh Harappa vẫn chưa có khái
niệm về tôn giáo mà mới chỉ dừng lại ở góc độ tín ngưỡng. Tín ngưỡng của họ vẫn
còn ở mức độ sơ khai. Các tôn giáo Harappan là đa thần. Họ sử dụng trâu, bò, voi
10


và các động vật khác để đại diện cho vị thần của họ. Các con dấu Harappan được
Amulets gửi đến các vị thần Harappan. Các vị thần của Harappans mô tả về con
dấu của họ đại diện cho các vị thần khác nhau ở Thung lũng Indus. Thiên lân, có
thể là đại diện Ma`, trong khi gia súc có thể đại diện cho Thiên Chúa Kali hoặc
Uma, Amma hoặc Pravarti, vị nữ thần mẹ. Những con dấu là một trong những vật
dụng thường thấy ở các thành phố Harappan. Chúng được trang trí bằng họa tiết
động vật như voi, trâu, hổ, và hầu hết thường là những con lân. Một số các con dấu
được khắc với con số đó là nguyên mẫu về sau đó nhân vật tôn giáo Hindu, một số
trong đó được nhìn thấy ngày hôm nay.
Ví dụ, có con dấu đã được phục hồi với các họa tiêt lặp đi lặp lại về một người
đàn ông ngồi trong tư thế yoga xung quanh là các loài động vật. Điều này là tương
tự như thần Shiva của người Hindu, người được biết là có được những người bạn
của các loài động vật và ngồi theo tư thế yoga. Nhiều con dấu được tìm thấy với
hình ảnh Shiva. Hình ảnh khác của một vị thần nam đã được tìm thấy, do đó cho

thấy sự khởi đầu của việc thờ thần Shiva, mà vẫn được thờ cho đến ngày nay ở Ấn
Độ. Một con dấu nổi tiếng cho thấy một số ngồi trong một tư thế gợi nhớ của các
vị trí hoa sen và bao quanh bởi các động vật được đặt tên theo Pashupati – chúa tể
của gia súc, danh hiệu của Shiva và Rudra.

11


Trong đời sống sinh hoạt của người dân Harappan, nhiều bằng chứng khảo cổ
học đã phát hiện ra những khu vực người dân tụ họp và thực hiện các nghi lễ mang
tính chất tâm linh. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa được khảng định một cách rõ
ràng. Chúng ta chỉ có thể suy luận qua những gì còn lại khi tìm thấy những hồ tắm
lớn – Great Bath, xung quanh có những gian nhà nhỏ và có hệ thống thoát nước,
được xây bằng các bậc tam cấp. Nhiều quan điểm cho rằng nơi đây diễn ra các
nghi lễ tôn giáo, và xuống dưới hồ tắm để làm lễ phóng sinh hay gột rửa sạch con
người về mặt tâm linh.
Người Harappa cũng có khái niệm về linh hồn sau khi con người đã chết.
Nhiều ngôi mộ cổ được phát hiện được đặt theo hướng Nam – Bắc. Đặc biệt là
trong Nghĩa trang H của thời kỳ Harrapan sau này, đã tìm thấy những ngôi mộ hỏa
táng và chôn cất người chết của họ tro trong bình chôn lấp và kèm theo các vật
dụng tùy táng.
2.5.

Nghệ thuật viết chữ
Chữ viết người người Harappan gồm các chuỗi ngắn của các biểu tượng, ký tự
được tìm thấy nền văn minh lưu vực sông Ấn. Các nhà khảo cổ học cho rằng,
những biểu tượng/ký tự này được sử dụng trong thời kỳ phát triển Harappan từ
khoảng 2600 – 2000 TCN. Tuy nhiên, vẫn chưa giải mã được những biểu tượng/ký
tự này do đó việc giải thích các văn bản vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
Năm 1873, Alexander Cunningham lần đầu tiên xuất bản những con dấu

Harappan dưới hình thức một bản vẽ. Kể từ đó, hơn 4000 biểu tượng/ký tự đã được
phát hiện. Năm 1970, Iravatham Mahadevan xuất bản một tập sao lục và sách dẫn
về danh sách chữ viết văn minh sông Ấn với 3700 con dấu và khoảng 417 dấu hiệu
khác biệt bằng mô hình cụ thể. Trung bình mỗi ký tự có năm dấu hiệu, và các dòng
chữ dài nhất gồm có 17 dấu hiệu. Ông cũng sắp xếp theo hướng viết là phải sang
trái.

12


Kí tượng trên một mảnh đồ gốm tại Harappa, khoảng 5.500 năm
Năm 1873, Alexander Cunningham lần đầu tiên xuất bản những con dấu
Harappan dưới hình thức một bản vẽ. Kể từ đó, hơn 4000 biểu tượng/ký tự đã được
phát hiện. Năm 1970, Iravatham Mahadevan xuất bản một tập sao lục và sách dẫn
về danh sách chữ viết văn minh sông Ấn với 3700 con dấu và khoảng 417 dấu hiệu
khác biệt bằng mô hình cụ thể. Trung bình mỗi ký tự có năm dấu hiệu, và các dòng
chữ dài nhất gồm có 17 dấu hiệu. Ông cũng sắp xếp theo hướng viết là phải sang
trái.
Ban đầu, Cunningham vào năm 1877 cho rằng hệ thống chữ viết này là nguyên
mẫu chữ viết Brahmi được sử dụng bởi hoàng đế Ashoka. G.R. Hunter, Mahadevan
cũng đồng quan điểm với Cunningham cũng như một số ít các học giả. Tuy nhiên,
nhiều tranh luận vẫn diễn ra, có người cho rằng chữ viết thời kỳ văn minh sông
Indus như là tiền thân hệ chữ Brahmic. Tuy nhiên hầu hết các học giả không đồng
ý, cho rằng thay vì rằng chữ Brahmi bắt nguồn từ chữ Aramaic.
Văn minh Harappa thời sơ khai: Chữ viết được sử dụng trong giai đoạn
Harappan phát triển bắt nguồn từ hệ chữ viết được tìm thấy vào đầu năm 3500
TCN. Richard Meadow người cũng góp mặt trong việc khai quật nền văn minh này

13



đã bác bỏ quan điểm này. Việc sử dụng các ký tự bằng gốm và các con dấu Indus
chính là hệ chữ viết của giai đoạn Harappan phát triển.
Văn minh Harappan thời kỳ phát triển: Chuỗi các con dấu Indus được tìm thấy
phổ biến trên nền đất bằng phẳng, có con dấu đóng dấu hình chữ nhật, nhưng các
nhà khảo cổ cũng được tìm thấy trên ít nhất một tá các vật liệu khác bao gồm các
công cụ, các thanh nhỏ, đĩa đồng và đồ gốm.
Văn minh Harappa – hậu kỳ: Sau 1900 TCN, hệ thống biểu tượng/ký tự dường
như đã được hoàn thiện.
Năm 1960, BB Lal thuộc, Viện khảo cổ học Ấn Độ đã viết một bài báo trong tạp
chí Ấn Độ cổ đại. Ông đưa ra một hệ thống các hình ký tự bằng đồ gốm, cự thạch
và so sánh với các chữ viết cổ của nền văn minh Harappa. Những chuỗi biểu
tương/ký tự cổ có những nét tương đồng với chữ viết Harappan đã được tìm thấy ở
Sanur gần Tindivanam tại Tamil Nadu, Musiri ở Kerala và Sulur gần Coimbatore.
Trong một trong những bản giải mã được chấp nhận hơn được SR Rao, nhà khảo
cổ học người Ấn Độ cho rằng giai đoạn cuối của chữ viết là sự khởi đầu của bảng
chữ cái. Ông đưa ra một số điểm tương đồng nổi bật về hình dáng và hình thức
giữa các ký tự Harappan thời kỳ sau này và các chữ Phoenician, và tranh luận rằng
chữ viết Phoenician phát triển từ chữ viết của người Harappan và thách thức lý
thuyết cổ điển rằng bảng chữ cái đầu tiên là Proto-Sinaitic.
Nhiều học giả phương Tây lại cho rằng, chữ viết của người Harappan là tiền
thân của chữ viết người Dravidian. Học giả Nga Yuri Knorozov phỏng đoán rằng
những biểu tượng đại diện cho hệ chữ logosyllabic và cho rằng dựa trên máy tính
phân tích, phương pháp chấp dính và xem như là một giả định của ngôn ngữ tiềnDravidian.
Asko Parpola học giả người Phần Lan đã dẫn đầu một nhóm nghiên cứu trong
thập niên 1960-80 tranh luận với các học giả người Liên Xô Knorozov trong điều
tra chữ viết và sử dụng phân tích máy tính. Dựa trên một giả định tiền-Dravidian,
14



họ đề xuất các bài đọc của nhiều dấu hiệu, một số đồng ý với Heras và Knorozov
(như tương đương là “cá” đăng nhập với từ Dravidian cho “min” cá), nhưng không
đồng ý về một cách đọc khác. Hoàn tất công việc nghiên cứu của mình cho đến
năm 1994 Parpola đã cho xuất bản cuốn sách “Giải mã Chữ viết văn minh sông
Indus”.
Tháng 05 năm 2007, Cục Khảo Cổ Tamil Nadu phát hiện thấy những chiếc chậu
với biểu tượng mũi tên trong một cuộc khai quật tại Melaperumpallam gần
Poompuhar. Những biểu tượng này có nét giống với các con dấu được khai quật tại
Mohenjo daro vào những năm 1920
3.

Sự suy tàn của nền văn minh Harppa
Sự suy tàn của nền văn minh Harappan rất khó để giải thích. Trong giai đoạn
cuối của nó từ năm 2000 – 1700 TCN “Nền văn minh Thung lũng sông Ấn như
một thực thể riêng biệt dần dần không còn tồn tại ‘. Nhiều nhà sử học có ý kiến
khác nhau về nguyên nhân của sự phân rã và biến mất của các nền văn minh
Harappan. Nguyên nhân khác nhau đã chứng minh cho sự suy yếu của nó và sau
đó là diệt vong như: tăng về lượng mưa, động đất, dân số tăng và hạn chế về đất ở,
lũ lụt, xâm lược Aryan, dịch bệnh bệnh
Những trận động đất kinh hoàng có thể là nguyên nhân làm sụp đổ nhiều nền
văn minh trong lịch sử loài người, từ thành Tơroa cổ đại tới nền văn minh Maya ở
Trung Mỹ. Giả thuyết này vừa được các nhà khoa học đưa ra hôm qua, tại cuộc
họp của Hiệp hội Địa Vật lý Mỹ.
Ông Amos Nur, Giáo sư vật lý tại Đại học Stanford, cho biết: “Chúng tôi tin
rằng các thảm họa tự nhiên, đặc biệt là động đất, đã đóng vai trò quan trọng trong
sự mất tích bí ẩn của nhiều nền văn minh”.
Các nhà khoa học khác của Hiệp hội Địa vật lý Mỹ đã đưa giả thuyết này đi xa
hơn. Họ cho rằng những trận động đất lịch sử có thể triệt hạ các nền văn minh
khác, từ Harappan của thung lũng sông Ấn, tới Maya ở Trung Mỹ .
15



Tuy nhiên, Nur và đồng nghiệp Prasad, khi xem xét lịch sử địa chấn, đã nhận
thấy có những trận động đất thảm khốc đổ xuống vùng ven biển gần biên giới giữa
Ấn Độ và Pakistan. Theo giả thuyết của họ, một hoặc nhiều chấn động lớn có thể
đã làm vỏ trái đất di chuyển, kéo theo việc chặn dòng chảy của một con sông lớn
trong vùng. Nền sản xuất nông nghiệp bị phá hủy, các trận lụt nghiêm trọng xảy ra
và cuối cùng vùi lấp các thành phố dưới bùn lầy.
Một điều khá thú vị về những quan niệm cho rằng có sự xâm chiếm của người
Aryan. Giả thiết rằng nếu người Aryan đã xâm chiếm các thành phố Thung lũng
Indus, chinh phục người Harappa, và áp đặt nền văn hóa riêng và tôn giáo của họ
vào nền văn minh này, vì theo lý thuyết, có vẻ không chắc rằng có sự tiếp tục trong
việc thực hành những tín ngưỡng tôn giáo tương tự cho đến ngày nay. Có bằng
chứng trong lịch sử Ấn Độ cho biết thờ Shiva đã tiếp tục cho hàng ngàn năm mà
không có sự gián đoạn.
Mortimer Wheeler cũng cùng quan điểm trên và chỉ ra rằng các nền văn hóa
Harappan đã bị phá hủy bởi người Aryan. Người Aryan đã được nhiều kỹ năng
chiến tranh và đã mạnh mẽ hơn so với Harappans. Trong giai đoạn cuối cùng của
Mohenjodaro, đàn ông và phụ nữ và trẻ em bị thảm sát trên đường phố và nhà ở.
Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng khảo cổ học về quan điểm này.
Sir John Marshal, Lambrick và EJH Mackay cho rằng sự suy giảm của nền văn
minh Harappan chủ yếu là do sự thay đổi bất thường của sông Ấn. Nhưng lý thuyết
này là một phần sự thật. Một số các bằng chứng về sự tàn phá của lũ lụt đã được
tìm thấy tại Mohenjodaro và Lothal nhưng không có bằng chứng như vậy đối với
các nơi khác như Kalibangan.
Một số sử gia cho rằng nền văn minh đô thị đầu tiên đã kết thúc vào khoảng năm
1700 trước công nguyên bởi vì tại nhiều khu định cư nhỏ dân số đã tăng trưởng
vượt quá giới hạn tự nhiên của chúng dẫn đến việc quản lý yếu kém nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Mặc dù trên lý thuyết các yếu tố sinh thái bị suy giảm do nền
văn minh Harappan là mới nhất nhưng nó không cho chúng ta câu trả lời hoàn

16


chỉnh. Các sử gia đều có quan điểm rằng sự suy giảm của nền văn minh sông Ấn
không phải là kết quả của một sự kiện đơn lẻ, nó là một sự suy giảm dân dần và kết
quả của sự kết hợp các yếu tố tạo nên.
4.

Harappa hiện nay
Thành phố cổ Harappa đã bị tàn phá nặng nề dưới sự cai trị của Anh, khi những
viên gạch từ đống đổ nát đã được sử dụng làm chấn lưu theo dõi trong quá trình
xây dựng tuyến đường sắt ở thành phố Lahore. Năm 2005, một kế hoạch công viên
giải trí gây tranh cãi tại địa điểm này đã bị bỏ hoang khi các nhà xây dựng khai
quật được nhiều cổ vật khảo cổ trong giai đoạn đầu của công trình xây dựng. Một
lời cầu xin của nhà khảo cổ học Pakistan Mohit Prem Kumar gửi Bộ Văn hóa đã
dẫn đến sự phục hồi của địa điểm này.
Harappa ngày nay là một địa điểm khảo cổ ở Punjab, Pakistan, khoảng 24 km
(15 dặm) về phía tây Sahiwal. Địa điểm này lấy tên từ một ngôi làng hiện đại nằm
gần dòng chảy cũ của sông Ravi. Ngôi làng Harappa hiện nay có cự ly là 6 km từ
địa điểm khảo cổ cổ đại. Mặc dù Harappa hiện đại có một ga đường sắt di sản từ
thời kỳ của Raj thuộc Anh, ngày nay nó chỉ là một thị trấn nhỏ ngã tư dân số
15.000 người.

17


Tài liệu tham khảo
1. />2.
3.
4.

5.

fbclid=IwAR3SBV4C3YEnbMGsmz7tv2lHgOePyaLfnieAvlAVV_Os_pSrKe9cIphEPVU
/> /> /> />fbclid=IwAR3WraQ5CwPxPvazxeCJ41kCC0-eZss0jHWMLDYYaG691bQL8xWnByKJB3Y

18



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×