Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thực trạng, phương hướng và giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã long sơn, huyện sơn động giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.78 KB, 22 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới đất nước thực chất là một quá trình
nhận thức đúng đắn hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa, là thực
hiện mong muốn “Đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Thực hiện lời di huấn của người: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.
Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Do vậy, chính sách xã hội giữ vai trò rất
quan trọng không thể thiếu trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “Chính
sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm
năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng các chính sách xã hội vì mục
tiêu làm cho “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”, bản thân là
một cán bộ đảng viên, một công dân đang sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa, được
hưởng thụ những chính sách của Đảng và Nhà nước. Tôi rất vinh dự và tự hào vì Đảng
ta đã đề ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện xã hội qua các
thời kỳ.
Đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi Đảng phải đề ra các chính
sách xã hội đúng và phù hợp với thực tế. Bởi vì, thực tiễn cho thấy trong quá trình triển
khai thực hiện một số chính sách xã hội như chính sách người có công, xóa đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm... còn gặp nhiều khó khăn và bất cập là thực trạng chung đòi
hỏi Đảng và Nhà nước cũng như mỗi cán bộ đảng viên cần quan tâm nhiều hơn nữa
đến chính sách xã hội.
Xã Long Sơn là một đơn vị xa trung tâm huyện. Việc thực hiện các chính sách
xã hội ở xã Long Sơn trong những năm gần đây, tuy có nhiều tiến bộ và kết quả đáng
kể song vẫn gặp không ít khó khăn, một số chính sách xã hội trở thành vấn đề bức xúc
của địa phương cần phải có những giải pháp thiết thực để giải quyết có hiệu quả cho
nhân dân.
Vì vậy, việc nghiên cứu lý giải một cách có hệ thống, đánh giá chung thực trạng
việc thực hiện chính sách xã hội, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt


chính sách xã hội ở xã Long Sơn vừa có ý nghĩa lý luận và là vấn đề cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng, phương hướng và
giải pháp trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động giai
đoạn hiện nay” với mong muốn được ứng dụng những kiến thức đã học góp phần xây
dựng quê hương ngày càng giàu đẹp và văn minh.
1


2. Mục đích, nhiệm vụ đề tài
2.1. Mục đích: Nghiên cứu thực trạng vệc chấp hành và thực hiện chính sách xã
hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cơ bản thực
hiện tốt các chính sách xã hội ở địa phương.
2.2. Nhiệm vụ: Tìm hiểu tư tưởng chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về chính trị xã hội.
- Nghiên cứu thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã
Long Sơn trong giai đoạn hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm làm tốt việc tuyên truyền cho cán bộ,
nhân dân chấp hành và thực hiện tốt chính sách xã hội ở địa phương.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã
Long Sơn qua các năm 2009; 2010; 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu, tổng hợp, thống kê, phân tích phỏng vấn.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm 3 phần lớn sau:
I. Cơ sở lý luận về chính sách xã hội
II. Thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn,
huyện Sơn Động trong giai đoạn hiện nay.
III. Phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần thực hiện tốt chính

sách xã hội ở xã Long Sơn, huyện Sơn Động trong giai đoạn tới.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là một bộ phận hữu cơ và giữ vị trí
vai trò đặc biệt trong hệ thống cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh là nhà chính trị lỗi
lạc của dân tộc Việt Nam, nhà lý luận thiên tài của cách mạng nước ta. Trong tư tưởng
của Người, chính sách xã hội là xây dựng nước Việt Nam thống nhất, độc lập và hòa
bình.
Ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, mặc dù chính quyền cách mạng
đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợ tóc” Người đã chủ trương đặt những vấn đề
chính sách xã hội gắn liền với chính sách kinh tế lên hàng đầu thậm chí còn đặt cao
hơn cả nhiệm vụ chống ngoại xâm.
2


Sau này Bác lại nhấn mạnh: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết
sức chăm nom đến đới sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi,
nếu dân ốm Đảng và chính phủ có lỗi, nếu dân dốt Đảng và Chính phủ có lỗi”. Rõ ràng
ở đây chính sách xã hội không còn là một sự ban ơn, càng không phải là thủ đoạn
chính trị mị dân, mà là trách nhiệm hàng đầu của Đảng cầm quyền và Nhà nước trong
chế độ mới.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong những thập niên qua, Đảng và Nhà
nước ta đã thực hiện nhiều chính sách xã hội quan trọng hướng tới quần chúng nhân
dân lao động. Những chính sách xã hội đó đã có tác dụng khơi dậy và phát huy những
nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân, làm nên nhiều kỳ tích anh hùng
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về chính sách xã hội:
Trong bước chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế mở cửa, đa dạng hóa các loại
hình kinh tế, đất nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức, để khắc phục nguy cơ

tụt hậu, khỏi tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển với những hậu quả nặng nề của hai
cuộc chiến tranh lâu dài trước đây, đồng thời tạo ra những nguồn xung lực mới cho sự
phát triển, cải thiện từng bươc cuộc sống của nhân dân, sớm đưa nước ta trở thành một
quốc gia phát triển của khu vực và thế giới. Chính sách xã hội cần đưa ra những định
hướng toàn diện và đúng đắn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đã chỉ rõ: Phương hướng lớn của chính sách xã hội là phát huy nhân
tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cho
mọi công dân, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời
sống vật chất với đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi
ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.
Từ phương hướng chung trên Đảng ta đã đề ra một số quan điểm cơ bản trong
trong quá trình triển khai thực hiện chính sách xã hội:
Một là; Có chính sách xã hội là hệ thống công cụ tác động một cách toàn diện,
bao trùm lên tất cả cac mặt đời sống xã hội. Trong thực tại xã hội, không một lĩnh vực
nào mà chính sách xã hội lại không bao quát tới. Từ quan điểm này đòi hỏi việc đề ra
chính sách xã hội cũng như thực hiện chính sách xã hội phải gắn bó, thống nhất với các
hệ thống chính sách khác như chính sách kinh tế, chính sách văn hóa, chính sách ngoại
giao, chính sách dân tộc, tôn giáo, dân số...
Kinh tế và văn hóa là hai lĩnh vực khác nhau, song không tách rời nhau mà gắn
bó mật thiết với nhau, đan xen vào nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau, tác động lẫn
nhau. Trong mối quan hệ này, những mục tiêu xã hội trở thành mục tiêu động lực của
các hoạt động kinh tế. Ngược lại, sự phát triển kinh tế là tiền đề và điều kiện vật chất
cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quôc lần thứ VI đã
khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
3


trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”. Trên một tinh thần như thế chính
sách xã hộ cần phải được đặt vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt động chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước ta. Điều đáng chú ý là chính sách xã hội không được lạc hậu hơn so

với sự phát triển kinh tế. Mặt khác phải khắc phục xu hướng phát triển kinh tế đơn
thuần, chỉ thuần túy vì mục tiêu lợi nhuận, bất chấp những nhu cầu đòi hỏi và những
mục tiêu xã hội khác.
Văn hóa, khoa học, giáo dục đào tạo là những lĩnh vực cần có chính sách cụ thể
riêng, nhưng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với lĩnh vực kinh tế. Trong thời đại khoa
học công nghệ và giao lưu văn hóa- xã hội rộng rãi như hiện nay, muốn có nhịp điệu
phát triển kinh tế cao cần phải có sự phát triển tương xứng về trình độ văn hóa, giáo
dục, đào tạo, khoa học, công nghệ. Phát triển khoa học giáo dục và đào tạo chính là
phát triển nguồn lực của mọi nguồn lực. Đầu tư vào lĩnh vực này chính là đầu tư cho sự
phát triển kinh tế. Đó là đầu tư cơ bản tất yếu “có lãi” một cách lâu bền nhất. Tất nhiên
trong khi cần thiết phải phổ cập tiểu học, trung học co sở, trẻ mầm non 5 tuổi cho toàn
xã hội, tạo ra mặt bằng dân trí tương đối đồng đều giữa các vùng miền trong nhân dân.
Chính trị xã hội về văn hóa- khoa học- giáo dục đào tạo gắn bó chặt chẽ với tất
cả các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Tuy nhiên trong khi đưa ra hệ thống chính sách xã hội
nhằm tranh thủ thời cơ, đi tắt đón đầu sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại của
thế giới, thì điều quan trọng cũng phải tính đến những đặc trưng, đặc điểm của dân tộc.
Cần tranh thủ vận dụng chớp mọi cơ may, mở rộng hợp tác, mạnh dạn trong hội nhập,
hòa nhập thích nghi một cách nhạy cảm với thời cuộc song phải quan tâm đến việc giữ
gìn bản sắc dân tộc. Trong việc giải quyết các vấn đề giai cấp dân tộc, tôn giáo... đều
có những nội dung kinh tế, văn hóa- xã hội, nên mỗi vấn đề trên cần có chính sách cụ
thể riêng. Tuy nhiên, chính sách xã hội sẽ tác động chung vào những lĩnh vực này
nhằm góp phần tạo ra sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ cho mọi công
dân, tạo ra sự thống nhất, đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo ở các
vùng miền; xây dựng và hoàn thiện cơ cấu xã hội mới, tạo ra sự ổn định xã hội cũng
như phát huy tối đa tính tích cực và năng động xã hội cho mọi thành viên trong xa hội.
Hai là; Coi việc xây dựng chính sách xã hội và thực hiện chính sách xã hội là
nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể và của toàn dân. Văn kiện Đại hội
X đã khẳng định: “Xây dựng hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công
cộng thiết yếu, tạo điều kiện cho mọi người dân, kể cả người nghèo được đáp ứng nhu
cầu về giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, văn hóa- thông tin, thể dục thể thao,

tạo việc làm... Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh mẽ hệ thống
bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo
hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe...”. Chính sách xã hội bao quát toàn bộ những hoạt
động rộng lớn, phong phú, đa dạng của con người nhằm phục vụ cho con người. Vì
vậy, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện cũng như thực hiện chính sách cần thiết phải
thu hút sự đóng góp, tham gia thực hiện của tất cả các thành viên trong xã hội. Nhà
4


nước cần đề ra chính sách cụ thể phù hợp với từng thời kỳ, từng lĩnh vực, từng nhóm
xã hội củ thể. Chính quyền các cấp và các tổ chức xã hội cần tổ chức thực hiện nghiêm
chỉnh chính sách xã hội. Mọi cá nhân tích cực tham gia thực thi, chấp hành chính sách,
đồng thời đóng góp, đề xuất, kiến nghị lên cơ quan cấp trên nhằm bổ sung, điều chỉnh,
hoàn thiện chính sách.
Ba là; Cần phải tiến hành một cách đồng bộ chính sách xã hội, song không dàn
trải mà phải tập trung ưu tiên vào một số những vấn đề xã hội có tính chiến lược cũng
như những vấn đề xã hội cấp bách nổi trội lên trong mỗi giai đoạn.
Việc nghiên cứu, khảo sát, xác định và lựa chọn cho trúng các chính sách xã hội
cấp bách hàng đầu thích ứng với từng thời kỳ, từng lĩnh vực, từng nhóm xã hội trong
sự thống nhất biện chứng với các chính sách cơ bản khác là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược cho cả một thời kỳ lâu dài, là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi
Đảng, Nhà nước ta phải đầu tư và tập trung xây dựng một cách đúng đắn.
Bốn là; Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các
nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã
hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm giàu hợp pháp, đồng thời quan
tâm một cách thích đáng tới người nghèo, rủi ro, người gặp khó khăn. Làm tốt công tác
đền ơn đáp nghĩa với người có công với cách mạng cũng như phát huy truyền thống

uống nước nhơ nguồn, thủy chung, nhân nghĩa của dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội
trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách
xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ,
tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho cho phát triển kinh tế- xã hội. Tập trung
giải quyết những vấn đề xã hội bưc xúc...”.
3. Bản chất, nụi dung của chính sách xã hội
3.1. Bản chất của chính sách xã hội
Chính sách xã hội được hình thành từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời và đã được
phát triển, biến đổi qua nhiều thời kỳ khác nhau trong lịch sử.
Ở mỗi quốc gia khác nhau, trong mỗi giai đoạn khác nhau, có những hình thức
và loại chính xã hội khác nhau, cũng như có những quan niệm và định nghĩa khác nhau
về chính sách xã hội. Ở nước ta, chính sách xã hội được hiểu là hệ thống công cụ tác
động vào con người, vào các tổ chức đoàn thể xã hội nhằm điều hòa các hành vi, lợi
ích của các nhóm xã hội, góp phần thực hiện công bằng, bình đằng, tiến bộ xã hội, phát
triển toàn diện con người, đảm bảo sự phát triển bền vững.

5


Xuất phát từ quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là
trung tâm của mọi sự quan tâm xã hội, vừa là chủ thể sang tạo mọi giá trị vật chất và
tinh thần cho xã hội, chính sách xã hội cần phải tác động một cách toàn diện vào tất cả
các mặt của đời sống con người, nhằm phát huy mạnh mẽ nhân tố con người. Theo
Mác: “Trong tính hiện thực của mình, bản chất con người là tổng hòa những mối quan
hệ xã hội”. Do đó, chính sách xã hội cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, giáo dục nhằm phát triển cân đối, toàn diện
cho mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội. Dù biểu hiện dưới nhiều hình thức văn bản, nội
dung khác nhau, song về bản chất, chính sách xã hội luôn hướng vào những hoạt động

nhằm điều hòa các mâu thuẫn, xung đột, giảm bớt các bất công, căng thẳng xã hội, góp
phần cân đối thu nhập, giải quyết việc làm, phân phối lại lợi ích, tạo ra sự công bằng
hợp lý giữa cống hiến và hưởng thụ, khuyến khích người có nhiệt tình, tài năng, giúp
đỡ người nghèo khó, rủi ro không may trong cuộc sống, đảm bảo an ninh, an toàn xã
hội cũng như quyền tự do công dân và sức khỏe, hạnh phúc cho con người.
3.2. Nội dung của chính sách xã hội
Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của chính sách xã hội, song cho đến
nay đa số các nhà khoa học đều nhất trí cho rằng, chính sách xã hội không chỉ giới hạn
trong một số vấn đề như bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội mà phải có
nội dung hết sức rộng lớn. Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX
và X đều chỉ rõ: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều
kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp,
quan hệ dân tộc...”.
Có rất nhiều loại chính sách xã hội, song có thể khái quát lại một số nhóm chính
sách sau đây:
Thứ nhất; Hệ thống chính sách xã hội nhằm tác động điều chỉnh cơ bản xã hội
Theo quan điểm tiếp cận khoa học mới hiện nay, chính sách xã hội cần phải tác
động một cách đồng bộ, hài hòa và thích hợp vào tổng thể các phân hệ cơ cấu xã hội
bao gồm: cơ cấu xã hội- giai cấp, cơ cấu xã hội- nghề nghiệp, cơ cấu xã hội- dân số, cơ
cấu xã hội lãnh thổ, cơ cấu xã hội- dân tộc...
Trong khi tác động vào các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản, hệ thống chính sách xã
hội cần tạo ra sự thống nhất giữa tính ổn định và tính năng động xã hội, vừa góp phần
giảm bớt những xung đột và sai lệch xã hội, vừa tạo ra tính tích cực xá hội và những
yếu tố cần thiết cho sự cân bằng, ổn định và phát triển bền vững trong xã hội. Vạch ra
một hệ thống các chính sách xã hội nhằm tác động một cách tích cực, hiệu quả vào các
quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc để từ đó góp phần phát huy mạnh mẽ hơn nữa nhân
tố con người, đó là một trong các mục tiêu chiến lược của chính sách xã hội hiện nay ở
nước ta.
Thứ hai; Hệ thống chính sách xã hội tác động vào quá trình sản xuất
6



Trong hệ thống chính sách này, trước hết phải kể đến nhóm chính sách nhằm tạo
ra nhiều việc làm cũng như những điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất cho con người lao
động. Chính sách xã hội về việc làm hướng tới khẳng định quyền có việc làm và những
hình thức làm việc phù hợp với trình độ, sức khỏe, năng lực và đặc điểm của từng
người lao động. Chính sách xã hội về việc làm không chủ trương cào bằng xóa nhòa
mọi sự khác biệt giữa các thành viên lao động mà hướng vào việc củng cố và hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tạo ra động lực nhằm khuyến khích tính tích cực của người
lao động, sắp xếp, phân bố, hỗ trợ hợp lý người lao động.
Nhóm chính sách này cùng hướng vào những mục tiêu như an toàn, an ninh, sức
khỏe cho người lao động, giảm bớt những rủi ro, tai nạn trong lao động hay những thiệt
hại do những đổ vỡ không tránh khỏi của một số doanh nghiệp do nền kinh tế thị
trường gây ra.
Thứ ba; Nhóm chính sách tác động vào quá trình tái sản xuất ra con người
(chính sách dân số).
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức một cách
sâu sắc hơn và chú trọng nhiều hơn vào chính sách dân số. Phấn đấu để có một quy mô
dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân số hợp lý cũng như mức tăng dân số phù hợp với
trình độ và nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội nước ta trong những năm tới đây là mục
tiêu chiến lược mà nhóm chính sách xã hội về dân số cần thiết phải có những đóng góp
thiết thực vào quá trình này. Trong thời kỳ chuyển đổi chiến lược từ giai đoạn dân số kế hoạch hóa gia đình sang thời kỳ dân số - phát triển; dân số - sức khỏe, sinh sản, từ
việc chủ yếu chú trọng vào công tác thông tin – giáo dục – truyền thống sang chiến
lược truyền thông thay đổi hành vi và với sự ra đời của một loạt các chiến lược truyền
thông thay đổi hành vi và với sự ra đời của một loạt các chiến lược quan trọng như
chiến lược dân số Việt Nam (2002-2010); chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản
(2005-2010); Pháp lệnh dân số; mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc đòi hỏi Đảng
và nhà nước kịp thời sửa đổi, hoàn thiện sớm các chính sách về dân số. Điều đó nhằm
tạo những bước chuyển mới về chất, giải quyết một cách căn bản sức ép dân số, đi
trước, đón đầu được những biến động tiếp theo của dân số, góp phần nâng cao hơn nữa

chất lượng cuộc sống, khai thác hơn nữa tiềm năng con người, trên cơ sở đó thúc đẩy
hơn nữa nhịp độ phát triển của đất nước.
Thứ tư; Nhóm chính sách xã hội tác động vào quá trình phân phối và phân phối
lại thu nhập.
Nhóm chính sách này bao gồm một tập hợp các chính sách về tiền lương, về tiền
thưởng, phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm tạo ra
động lực tích cực cho mọi người lao động, tạo ra sự công bằng tương đối, thực hiện
chủ nghĩa nhân đạo cho toàn xã hội. Là một đất nước phải trải qua hai cuộc chiến tranh
lâu dài, gian khổ, phải chịu những tổn thất lớn về người, về của, do đó, Đảng và Nhà
nước ta rất chú trọng đến chính sách đền ơn, đáp nghĩa cho những người đã hy sinh,
đóng góp nhiều cho đất nước. Cần củng cố, hoàn thiện chế độ, chính sách ưu đãi đối
7


với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng. Mặt khác,
cũng cần có một hệ thống chính sách khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận kợi
cho những người có tài năng, các nhà khoa học, các nhà quản lý, kinh doanh giỏi để họ
có thể phát huy tối đa năng lực sáng tạo và khả năng cống hiến của mình cho đất nước.
Sau cùng là những chính sách hướng vào các lĩnh vực bảo hiểm lao động, bảo hiểm
nghề nghiệp, bảo hiểm kinh doanh, bảo hiểm tài sản, phương tiện vật chất...
Trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là trong thời kỳ mở cửa, hội nhập khu vực và
quốc tế, rất nhiều vấn đề nảy sinh như bảo hiểm tự nguyện, bảo hiểm cho người Việt
Nam lao động ở nước ngoài, bảo hiểm trong quân đội, mở rộng bảo hiểm sang học
sinh, tuổi trẻ học đường... Đó là vấn đề bức xúc mà Đảng, Nhà nước Việt Nam cần sớm
nghiên cứu, tổng kết và ban hành các chính sách mới nhằm đáp ứng những yêu cầu mà
cuộc sống đang đặt ra.
Thứ năm; Nhóm chính sách xã hội về cư trú và nhà ở.
Thực hiện tốt vấn đề tự do cư trú và nhà ở cho nhân dân là một trong những
nhiệm vụ quan trọng, phản ánh một phần bộ mặt nhân đạo của xã hội ta. Là một quốc
gia còn nghèo, đất đai hạn hẹp, lại đang trong thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ - thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nhu cầu tự do cư trú và nhà ở (kể cả ở đô
thị và nông thôn) đang là một nhu cầu bức xúc của đông đảo quần chúng nhân dân.
Chính trong bối cảnh này, Đảng và Nhà nước ta cần hết sức thận trọng, chu đáo và cần
có cái nhìn chiến lược, tổng thể, lâu dài trong quy hoạch xây dựng và phân phối quĩ đất
đai, nhà ở. Xây dựng một cách đồng bộ nhóm chính sách xã hội nhằm giải quyết hợp lý
và khoa học vấn đề cư trú, nhà ở là một trong những nhiệm vụ bức xúc trước mắt cũng
như lâu dài ở nước ta.
Thứ sáu; Nhóm chính sách xã hội tác động đến lĩnh vực văn hóa tinh thần của xã
hội.
Con người không chỉ cần được bảo đảm về những điều kiện vật chất, việc làm...
mà còn bảo đảm về những nhu cầu văn hóa tinh thần... Nhóm chính sách xã hội bao
gồm những chính sách về giáo dục, đào tạo, đào tạo lại; các chính sách nhằm tạo ra
những điều kiện thuận lợi về hoạt động văn hóa, văn nghệ, tự do trao đổi và tiếp nhận,
hưởng thụ thông tin, những nhu cầu về sinh hoạt, nghi ngơi, vui chơi, giải trí...
Nhóm chính sách này có vị trí và vai trò hết sức quan trong, góp phần tạo ra một
xã hội hoàn chỉnh, cân bằng, vận hành một cách hài hòa đồng bộ và ăn nhịp với nền
văn minh nhân loại.
Hiện tại cần chú ý đặc biệt đến chính sách giáo dục. Trong đó chính sách cho
giáo viên, học sinh, nhất là học sinh nghèo, học sinh khó khăn. Đồng thời chú ý đầu tư
cho việc phát triển triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho nhà trường, điều kiện giảng dạy
cho giáo viên. Đây là nhiệm vụ hết sức cấp thiết hiện nay mà Đảng và Nhà nước cần
quan tâm.

8


II. THỰC TRẠNG VIỆC CHẤP HÀNH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ
HỘI Ở XÃ LONG SƠN HUYỆN SƠN ĐỘNG TỈNH BẮC GIANG
1. Vài nét khái quát về địa lí, tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở xã Long Sơn
huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang.

Xã Long Sơn huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang trước và trong kháng chiến chống
thực dân pháp thuộc huyện Hải Chi đặc khu Hồng Quảng (Quảng Ninh), sau hòa bình
lập lại được sát nhập về huyện Sơn Đông tỉnh Bắc Giang. Long Sơn là vùng quê có
truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới Đảng bộ và nhân dân xã Long Sơn quyết tâm
phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xã Long Sơn là một xã vùng sâu, vùng xa của huyện Sơn Động, phía đông giáp
với xã Dương Hưu, phía nam giáp với huyện Hoành Bồ - Quảng Ninh, Phía tây giáp
với xã Thanh Luận, Bồng Am, phía bắc giáp với xã An Lạc.
Long Sơn là một xã vùng cao có đồi núi đan xen với những cánh đồng và các khu
dân cư; có diện tích đất 6489,14 ha; Trong đó đất ở 52,48 ha, đất nông nghiệp 438,33
ha, đất lâm nghiệp 5771,43 ha còn lại là hồ ao, song suối và núi cao; hệ thống giao
thông duy nhất có đường quốc lộ 279 chạy từ trung tâm huyện qua Long Sơn đến
Quảng Ninh, Hải Phòng. Năm 1983 chợ Long Sơn được thành lập, chợ họp theo phiên
hàng hóa phong phú đa dạng, các mặt hàng chủ yếu vận chuyển từ nơi khác đến. Long
Sơn là trung tâm kinh tế văn hóa chính trị lớn thứ ba sau hai thị trấn của huyện; đồng
thời Long Sơn là vùng đất anh hùng giàu truyền thống cách mạng.
Hiện nay xã Long Sơn có 1176 hộ, 5344 nhân khẩu, mật độ dân cư thưa thớt sống
rải rác thành 7 thôn bản và 1 khu phố chủ yếu ven dọc theo hai bên đường quốc lộ 279,
cáo 8 dan tộc anh em. dân tộc kinh là chủ yếu. Nhân dân địa phương làm nghề nông
nghiệp là chính, kết hợp với chăn nuôi gia xúc gia cầm và phát triển vườn rừng, có một
bộ phận vừa làm ruộng kết hợp với buôn bán nhỏ chiếm 10%, là đơn vị không có nghề
truyền thống. Một bộ phận thanh niên trong độ tuổi 18 đến 30 vào làm công nhân khai
thác than cho công ty than Đông Bắc. Tổng thu nhập hằng năm 17,2 tỉ đồng bình quân
3,2 triệu đồng/ người/ năm; đời sống của nhân dân tương đối ổn định, kinh tế từng
bước có sự gia tăng.
Những yếu tố tự nhiên, tình tình chính trị xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho xã Long
Sơn phát triển kinh tế mạnh mẽ. Giá tri sản xuất nông nghiệp chăn nuôi được tiếp tục
duy trì ổn định, diện tích lúa đạt năng xuất cao,đàn gia cần phát triển, công tác khuyến

nông đầu tư ngân sách cho phát triển sản xuất hằng năm luôn vượt kế hoạch, giá trị thu
nhập bình quân trên 1 ha đất gieo trồng đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch.

9


Khu vực phát triển công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ trên địa
bàn từng bước được phát triển, tạo việc làm cho lao động tại chỗ, thu nhập của người
dân tăng lên. phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sốn văn hóa luôn được cấp ủy
chính quyền, MTTQ quan tâm chỉ đạo, ngày hội đoàn kiết toàn dân 18 tháng 11 hằng
năm đi vào nền nếp được đông đảo nhân dân tham gia, tăng thêm đoàn kết, tình cảm
gắn bó trong cộng đồng dân cư.
Công tác xã hội hòa giáo dục luôn được duy trì tốt, chương trình phát triển giáo dục
được triển khai thường xuyên và kịp thời, chất lượng giáo dục ở cả ba cấp học được
nâng lên (năm sau cao hơn năm trước) tỉ lệ giáo viên giỏi, học sinh giỏi, học sinh tốt
nghiệp THCS, thi đỗ vào trường THPT đạt tỉ lệ cao nhất nhì trong huyện, năm học
2010 – 2011 trường THCS xã đạt danh hiệu tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh, trường Tiểu học
và Mầm non đạt tiên tiến xuất sắc cấp huyện, cơ sở vật chất luôn được đầu tư tu bổ,
trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia năm 2007, dự kiến trường THCS đạt chuẩn quốc
gia năm 2011, trường mầm non vào năm học tiếp theo.
Công tác an ninh và trật tự an toàn xã hội luôn được duy trì tốt, điều kiện kinh tế,
chính trị xã hội ổn định đã góp phần vào việc chấp hành và thực hiện tốt chính sách xã
hội ở địa phương Long Sơn.
2. Thực trạng việc chấp hành và thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn
huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
2.1Những kết quả đạt được trên các lĩnh vực
Thứ nhất: Lĩnh vực dân số và việc làm:
Thực hiện chính sách dân số gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định dân số là
mục tiêu phấn đấu, là biện pháp nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân được các
cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương đặc biệt quan

tâm.
Trong những năm qua, xã Long Sơn đã chấp hành nghiêm túc và triển khai thực
hiện có hiệu quả chính sách dân số và coi đây là nội dung trọng tâm trong chiến lược
phát triển kinh tế văn hoá xã hội của địa phương. Từ trước năm 2000 với sự bùng nổ
dân số nói chung và ở Long Sơn nói riêng đã ảnh hưởng không nhỏ đến lĩnh vực phát
triển kinh tế xã hội, dẫn đến tình trạng dư thừa lao động và gia tăng các tệ nạn xã hội
nhưng trong những năm gần đây tỉ lệ tăng dân số giảm đi rõ rệt; năm 2008 là 1,5%,
năm 2009 là 1,46%, năm 2010 là 1,38%.
Để có được kết quả trên Đảng ủy, chính quyền, MTTQ, các ngành đoàn thể đã cùng
với cán bộ làm công tác dân số tuyên truyền vận động thực hiện chính sách dân số
bằng nhiều hình thức như: Thông tin trên hệ thống truyền thanh của xã và các thôn bản
về dân số và kế hoạch hóa gia đình, vận động chị em trong độ tuổi sinh đẻ không vi
phạm sinh con thứ ba, thực hiện nuôi con khỏe dạy con ngoan.

10


Tổ chức thành lập được 8/8 thôn bản và khu phố có câu lạc bộ không sinh con thứ
ba, hằng tháng tổ chức sinh hoạt tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, sức khỏe vị thành
niên và tác hại của việc dẻ dày, đẻ nhiều; chính sách dân số luôn được thông tin kịp
thời đến người dân để triển khai thực hiện, do vậy trong ba năm gần đây trên địa bàn xã
không có người vi phạm chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình.
Vấn đề lao động và việc làm hiện nay là yêu cầu bức xúc của nhân dân địa phương.
Hằng năm sau khi nhận được kế hoạch về công tác lao động và việc làm của UBND
huyện xây dưng, UBND xã Long Sơn tổ chức triển khai kế hoạch công tác lao động,
việc làm tới toàn thể nhân dân trong xã. Năm 2008 tổ chức được hai hội nghị tư vấn
xuất khẩu lao động, dạy nghề có 240 người tham gia; giải quyết việc làm cho 150
người làm công nhân khai thác than, 50 lao động tại chỗ, 15 người đi xuất khẩu lao
động. Năm 2009 giải quyết được 80 lao động vào làm tại xí nghiệp than Đông Bắc, 20
lao động vào làm việc tại xí nghiệp may Sơn Động và hơn 50 lao động tại chỗ. Năm

2010 mở 2 lớp dạy nghề chăn nuôi thú y có 100 người tham gia đã giả quyết việc làm
tại chỗ cho số lao động này.
Thứ hai: Vấn đề xóa đói giảm nghèo.
Tỷ lệ hộ đói nghèo trên địa bàn xã Long Sơn còn cao chiếm đến 46,9 % số hộ trong
toàn xã so với chuẩn nghèo của chính phủ tại quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày
8/72005. Đây là vấn đề thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của xã Long Sơn. Vì
vậy địa phương đã xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm cần quan tâm thực hiện.
Hằng năm Xã Long Sơn xây dựng kế hoách chỉ đạo rà soát thống kê hộ nghèo đúng
qui trình, đúng mức thu nhập nhà nước qui định, để triển khai các chính sách hỗ trợ tới
người nghèo; đồng thời giao chỉ tiêu giảm nghèo tới 8 thôn bản của địa phương.
Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo của xã triển khai kế hoạch điều tra, rà soát, thống
kê hộ nghèo theo đúng qui trình, giải quyết đầy đủ chế độ chính sách cho người nghèo
đảm bảo đúng nguyên tắccông khai dân chủ. Hằng năm xây dựng phương án giao cho
các đoàn thể, thôn bản phụ trách theo dõi định hướng cho các gia đình triển khai thực
hiện các phương án khả thi để phát triển kinh tế gia đình nhằm vươn lên thoát nghèo.
Thực hiện tốt việc quản lí các đối tượng của chương trình và các dự án, chính sách
giảm nghèo từ năm 2008 đến nay tổng số hộ được vay vốn là 930 hộ trong đó hộ nghèo
là 493 hộ, số học sinh, sinh viên được vay vốn là 290 em, tổng dư nợ ngân hàng đến
tháng 6 năm 2011 là 21,4 tỉ đồng. Số người nghèo được cấp thẻ BHYT là 493 hộ với
tổng số thẻ 2465 thẻ; số hộ cận nghèo được hỗ trợ 50% tổng số tiền mua thẻ BHYT là
135 hộ.
100 % học sinh Phổ thông và học sinh Mầm non được miễn học phí, 560 học sinh
các cấp con người nghèo được hỗ trợ kinh phí học tập với tổng số tiền 682 200 000
đồng / năm học. toàn bộ là vốn là nguồn vốn từ trung ương cấp.
11


Thứ ba; Vấn đề bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Có thể nói bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là một loại chế độ chính sách của
Đảng và Nhà nước mang tính nhân đạo, tính cộng đồng cao cả. Trong những năm qua,

cán bộ và nhân dân địa phương đã quan tâm, tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế;
triển khai cho 100% các chức danh cán bộ địa phương mua bảo hiểm xã hội; tích cực
tham gia các loại hình bảo hiểm như bảo hiểm an sinh giáo dục có 1050 lượt tham gia,
bảo hiểm xã hội có 19 lượt. Nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động tham gia bảo
hiểm, cán bộ làm công tác lao động thương binh ở địa phương đã thường xuyên tuyên
truyền về chính sách bảo hiểm hiện hành và giúp đỡ hướng dẫn các đối tượng tham gia
bảo hiểm khi đến thời hạn thanh toán hưởng chế độ nghỉ hưu hoặc tai nạn rủi ro được
chi trả thuận lợi và nhanh gọn.
Thứ tư; Vấn đề ưu đãi xã hội (các đối tượng chính sách)
Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” Đảng bộ và nhân dân xã Long Sơn có trách
nhiệm to lớn trong việc thực hiện mục tiêu về công tác LĐTB&XH mà nghị quyết Đại
hội IX của Đảng đã xác định: “Chăm lo tốt hơn đối với cá gia đình chính sách và
những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các gia đình chính sách có cuộc
sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình của người dân địa phương trên cơ sở ba
nguồn lực: nhà nước, cộng đồng và bản thân đối tượng chính sách tự vươn lên”.
Việc tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ đối với người có công với cách
mạng, vừa là trách triệm, vừa là thể hiện tinh thần đền ơn đáp nghĩa, do đó các văn bản
hướng dẫn về chính sách người có công đều được tổ chức triển khai đến đúng đối
tượng. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng tới toàn thể nhân dân; giải thích cho mọi người dân hiểu rõ nội dung chính sách
như: Điều kiện xác nhận người có công, các khoản phụ cấp, trợ cấp được hưởng đảm
bảo nhu cầu về đời sống, phương tiện chuyên dùng đảm bảo y tế, giáo dục và đào tạo
nghề, tạo việc làm. Quy trình tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ, niêm yết hồ sơ giải quyết chế
độ cho các đối tượng theo đúng quy định không bỏ sót đối tượng, chi trả trợ cấp cho
các loại đối tượng luôn kịp thời.
Năm 2008, địa phương chi trả 151 đối tượng là thương binh, bệnh binh, nhiễm
chất độc hóa học, với tổng số tiền là 1.123.026.000 đồng; chi trả trợ cấp tết cho 104 hộ
nghèo với tổng số tiền là 65.400.000 đồng.
Năm 2009, thực hiện chi trả 137 đối tượng là thương binh, bệnh binh, nhiễm
chất độc hóa học, với tổng số tiền là 870.195.000 đồng; trợ cấp tết cho hộ nghèo số tiền

là 65.400.000 đồng. Ngoài ra, địa phương còn giải quyết tốt chế độ chính sách cho các
gia đình và người có công với cách mạng.
Thực hiện giải quyết chế độ cho các đối tượng tham gia kháng chiến chống Mỹ
cứu nước dưới 20 năm công tác trong quân đội chưa được hưởng chế độ chính sách
theo quyết định 142/2008/QĐ-TT ngày 27/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ với tổng
12


số 98 đối tượng. Khảo sát các đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở biên
giới phía bắc, biên giới tây nam giúp bạn Lào và Campuchia với tổng số 198 đối tượng.
Xác nhận và đề nghị giám định thương binh cho 11 đối tượng theo quy định hiện hành.
Đã tổ chức tốt việc đón nhận 1 bộ hài cốt liệt sỹ an táng về địa phương đảm bảo trang
trọng đúng nghi thức; thăm hỏi tặng quà cho các đối tượng thương, bệnh binh, gia đình
chính sách trong 3 năm là 524 lượt với tổng số tiền 16.267.000 đồng; đã huy động nhân
dân đóng góp được 67.000.000 đồng xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”; đóng góp 55
số tình nghĩa trị giá mỗi sổ 200.000 đồng tặng cho các gia đình liệt sỹ. Tuyên truyền,
vận động các đoàn thể như Hội phụ nữ, Thanh niên, học sinh, Công đoàn các trường
lao động giúp đõ 1534 ngày công cho các gia đình thương binh liệt sỹ, gia đình có
công với cách mạng...
Những kết quả nêu trên có ý nghĩa thiết thực trong việc thực hiện và giải quyết
tốt chế độ chính sách hậu phương quân đội, đem lại lòng tin của nhân dân đối với Đảng
và Nhà nước.
Thứ năm; Vấn đề cứu trợ xã hội.
Căn cứ Quyết định số 96/QĐ-UBND ngày 17/12/2007 của UBND tỉnh Bắc
Giang về việc quy định mức trợ cấp, trợ giúp các đối tượng bảo hiểm xã hội trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang, ủy ban nhân dân xã Long Sơn xây dựng kế hoạch tổ chức hội nghị
triển khai hướng dẫn và thông báo đến các đối tượng làm hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp
hàng tháng, nộp hồ sơ về ủy ban nhân dân.
Quy trình tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ, niêm yết công khai hồ sơ giải quyết chế độ
cho các đối tượng theo đúng quy định không bỏ sót đối tượng. Công tác chi trả trợ cấp

luôn kịp thời và đúng đối tượng; kết quả chi trả cho các đối tượng trong 3 năm qua như
sau:

Năm

Ngân sách
chi trả

2008
2009
2010

98.550.000
124.368.000
118.642.000

Tổng
số
người
được
hưởng
ưu đãi

Trẻ
mồ
côi

Người
tàn tật


Người
tâm
thần

Người
cao
tuổi

7
9
8

16
16
16

9
9
9

25
27
26

Người
đơn
thân
nuôi
con
nhỏ

13
13
14

Người
già cô
đơn
5
6
6

Thứ sáu; Vấn đề tệ nạn xã hội
Trên thực tế hiện nay những tệ nạn xã hội như: mại dâm, ma túy, trộm cắp, rượu
chè, cờ bạc, thoái hóa đạo đức... đang gia tăng đến mức đáng lo ngại. Được sự quan
tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể địa phương luôn thực
hiện duy trì chế độ giao ban, tăng cường tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho

13


quần chúng nhân dân nhằm hiểu rõ hơn những ảnh hưởng của tệ nạn xã hội đang lấn át
nếp sống, thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa địa phương.
Đẩy mạnh phong trào quần chúng Bảo vệ an ninh tổ quốc từ xã xuống thôn bản
đảm bảo số lượng, chất lượng, nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong năm qua, địa
phương đã phối hợp với Công an huyện bắt 05 tụ điểm cờ bạc trên địa bàn, lập hồ sơ
đối tượng cờ bạc; phối hợp mở đợt cao điểm về đấu tranh với các loại tội phạm trên địa
bàn, tiếp tục xây dựng mô hình xã không có tệ nạn xã hội; tham mưu kiện toàn ban chỉ
đạo phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm.
Thứ bảy; Vấn đề y tế, văn hóa, giáo dục
Từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới, cả nước chuyển sang cơ chế thị trường, kinh

phí đầu tư cho giáo dục của Nhà nước có phần giảm. Để duy trì và củng cố chất lượng
hệ thống giáo dục, Đảng bộ, chính quyền xã Long Sơn luôn chăm lo đến công tác xây
dựng hệ thống trường, lớp, đầu tư cơ sở vật chất đảm bảo cho việc dạy và học, tạo
dựng chế độ phúc lợi xã hội thích hợp, chăm lo đến việc ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí cho
đội ngũ giáo viên để họ có đủ điều kiện chăm lo đến sự nghiệp “trồng người” chú trọng
đào tạo đội ngũ giáo viên sơ tại. Đối với học sinh địa phương thực hiện chính sách hỗ
trợ học tập cho các em thuộc đối tượng chính sách, các em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn và đối tượng là học sinh nghèo.
Thực hiện chương trình xã hội hóa giáo dục, xã đã thành lập Họi đồng giáo dục
nhằm tăng cường quản lý công tác giáo dục, động viên toàn dân chăm lo đến sự nghiệp
giáo dục, thành lập hội khuyến học đi vào hoạt động có hiệu quả khuyến khích các tổ
chức xã hội, cá nhân giúp đỡ những tài năng trẻ, những học sinh xuất sắc để các cháu
yên tâm học tập. Thực hiện phổ cập trẻ 5 tuổi, 100% trẻ 6 tuổi được vào lớp 1, tiếp tục
phổ cập giáo dục tiểu học 100% học sinh tốt nghiệp lớp 5 chuyển lên trung cơ sở, ổn
định phổ cập trung học cơ sơ, 98 trở lên học sinh lớp 9 thi đỗ vào trường phổ thông
trung học. Các em thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp
năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ học sinh giỏi các cấp luôn xếp thứ nhất nhì huyện;
xếp thứ thứ hạng cao trong tỉnh. Trong 3 năm địa phương đã đầu tư ngân sách để xây
dựng và tu sửa cho 3 cấp học trên 10 tỷ đồng. Hiện nay, cả 3 trường đều có cơ sở vật
chất khang trang, xanh – sạch – đẹp thực sự là trường học thân thiện, trường chuẩn, cận
chuẩn quốc gia đáp ứng với yêu cầu giáo dục trong tình hình mới. Xã Long Sơn luôn
xứng đáng là dơn vị lá cờ đầu huyện Sơn Động về giáo dục.
Đối với hệ thống y tế củng cố và nâng cao khả năng chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân, thực hiện tốt chế độ bảo hiểm y tế, có chính sách chăm lo đời sống cho cán
bộ y, bác sỹ, những người phục vụ trong ngành y tế các chương trình y tế quốc gia
được quan tâm chỉ đạo thực hiện, đã ngăn được bệnh dịch góp phần bảo vệ và chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân.

14



Các thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng, 5/8 thôn bản có nhà văn hóa và sân
thể thao quy mô nhỏ đáp ứng được nhu cầu tập luyện thể thao của nhân dân. Công tác
quản lý Nhà nước được tăng cường. Các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa trên địa
bàn luôn diễn ra lành mạnh, không xẩy ra tình trạng vi phạm pháp luật trên lĩnh vực
văn hóa. Phong trào văn hóa văn nghệ hội thi, hội diễn đã trở thành phong trào mạnh
mẽ. Duy trì và bảo tồn khu di tích lịch sử đền bà Chúa Liễu, hàng năm, tổ chức lễ hội
nghiêm trang về phần lễ kết hợp với phần hội với nhiều hình thức vui chơi lành mạnh
và phù hợp với phong tục tập quán của địa phương, tham gia và hoàn thành tốt một số
hoạt động tại lễ Hội Đình Hạ. Đầu tư 250 triệu đồng xây dựng hệ thống đài truyền
thanh của xã, mua sắm tăng âm, loa đài trang bị cho 8 thôn bản phục vụ cho công tác
tuyên truyền góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi của nhiệm vụ chính trị
địa phương.
*. Nguyên nhân đạt được nhưng kết quả trên:
- Nguyên nhân chủ quan
+. Đảng bộ chính quyền và các đoàn thể nhân dân địa phương luôn có sự quan tâm sát
sao tới công tác xã hội. Triển khai nghiêm túc, kịp thời các chế độ chính sách của nhà
nước đến các đối tượng được hưởng.
+. Chính quyền dịa phương vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và tình hình thực tiến của địa phương, tranh thủ sự ủng hộ của
các ngành, các cấp, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, để tổ chức thực hiện
các hoạt động chính sách xã hội. Các hoạt động này đã mạng lại hiệu quả thiết thực đến
từng tổ chức cá nhân góp phần vào việc ổn định xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, thu
hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.
+. Đội ngũ làm công tác chính sách xã hội được tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ
nên đã phát huy được vai trò trách nhiệm trong việc triển khai các chính sách xã hội đề
xuất tham mưu kịp thời với các cấp ủy đảng, chính quyền triển khai, thực hiện chính
sách xã hội.
- Nguyên nhân khách quan:
+. Được sự quan tâm sâu sát chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước, các cơ quan

chuyên môn cấp trên đối với địa phương, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện chính sách xã hội của cơ sở đạt kết quả cao.
+. Do điều kiện kinh tế ngày càng tăng trưởng và điều kiện quan trọng cho việc thực
hiện chính sách xã hội.
+. Một số chính sách xã hội của nhà nước trong những năm qua đã được thực hiện có
hiệu quả tại Địa phương như: Giáo dục, y tế, xóa đói, giảm nghèo.... tạo điều kiện nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, là điều kiện thuận lợi đề thực hiện
chính sách xã hội ngày càng tốt hơn.
15


2.2. Những hạn chế tồn tại trong việc thực hiện chính sách xã hội ở xã Long Sơn huyện
Sơn Động.
+ Nhân dân sống rải rác cách xa trung tâm, xa trạm y tế nên còn nhiều bất cập cho việc
khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ.
+ Việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu, kinh tế đa dạng hóa ngành nghề còn chậm, số
người chưa có việc làm còn ở mức cao, tiềm năng thế mạnh đất đai, lao động khai thác
sử dụng chưa hợp lý. Thời gian lao động ở nông thôn mới được sử dụng ở mức thấp,
chưa có nhiều mô hình sản suất nông nghiệp hiệu quả, một bộ phận nhân dân còn trông
trờ, ỷ lại các chính sách của Nhà nước. Trình độ dân trí ở mức hưởng thụ văn hóa nhân
dân chưa cao.
+ Mức độ ô nhiễm và hủy hoại môi trường sinh thái đáng lo ngại, hiện tượng quan
liêu, cửa quyền trong một số bộ phận cán bộ thực hiện chính sách xã hội vẫn chưa
dược giải quyết triệt để, ảnh hưởng phàn nào đến niềm tin của nhân dân đối với chính
quyền.
+. Trình độ năng lực của một số cán bộ nhất là trong lĩnh vực quản lý nhà nước còn
hạn chế, do vậy triển khai thực hiện nhiệm vụ có lúc không đồng bộ, thống nhất hiệu
quả công việc chưa cao.
+. Việc thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở có lúc, có nơi vi phạm không phát huy
quyền làm chủ cua nhân dân.

Công tác tuyên truyền chính sách xã hội cuả chính quyền các ban, ngành đoàn thể ở địa
phương đôi lúc chưa kịp thời; có những chính sách của nhà nước được phổ biến nhưng
nhân dân không được tiếp cận hoặc tiếp cận chậm dẫn đến những chế độ chính sách đối
tượng không được hưởng kịp thời.
*. Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại.
- Nguyên nhân chủ quan:
Do nhận thức của một số cán bộ, đảng viên còn hạn chế nên chính sách xã hội
chậm được tuyên truyền đến nhân dân.
Cán bộ làm công tác chính sách xã hội trình độ chuyên môn còn hạn chế, chế độ
đãi ngộ thấp nên không phát huy hết khả năng, năng lực trong chỉ đạo công tác; đôi khi
còn buông lỏng quản lý, chưa giải quyết được triệt để việc làm đối với lao động dư
thừa hoặc thời điểm nông nhàn, nhiều lao động phải đi làm ăn xa cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến việc thực hiện và chấp hành chính sách xã hội mà đảng và nhà nước đã
đề ra.
- Nguyên nhân khách quan
+ Trong công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhu cầu đòi
hỏi của dân ngày càng cao về đời sống xã hội. Các chính sách xã hội tác động rất lớn
đến toàn bộ đời sống xã hội.
16


+ Một số vấn đề tiêu cực xã hội hiện nay như tham nhũng, lãng phí của công chưa
được ngăn chặn; vấn đề thiếu việc làm , phân hóa giầu nghèo, điều kiện học tập, tệ nạn
xã hội, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện
chính sách xã hội địa phương trong những năm vừa qua.
III. PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM GÓP
PHẦN THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở XÃ LONG SƠN HUYỆN
SƠN ĐỘNG TỈNH BẮC GIANG
1. Phương hướng chung
Tiếp tục quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các nghị quyết, quan điểm, chủ trương

đường lối chính sách của đảng và nhà nước về vấn đề chính sách xã hội. Văn kiện Đại
hội X của đảng khẳng định: “ kết hợp chặt chẽ và hợp lý các mục tiêu kinh tế và mục
tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương. Thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; thực hiện chính
sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến với
hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội”.
Quán triệt sâu sắc nghị quyết đại hội đảng toàn quốc lần thứ X, nghị quyết đại hội
xã nhiệm kỳ 2011- 2016 khẳng định: thực hiện chính sách xã hội là nhiệm vụ quan
trọng cần được quan tâm, đẩy mạnh. Đây là trách nhiệm của đảng bộ, chính quyền, mặt
trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong toàn xã. Thực hiện tốt chính sách xã hội
đối với lĩnh vực dân số, việc làm, lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo, lĩnh vực ưu đãi xã hội,
lĩnh vưch văn hóa giáo dục và y tế... Tất cả các lĩnh vực trên phải được triển khai
thường xuyên và có chính sách thích hợp để tạo công bằng về cơ hội và bình đẳng
trước phap luật cho từng công dân.
2. Mục tiêu cụ thể
Đảng ủy, hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể
địa phương tiếp tục quán tiệt và thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội mà đảng
và nhà nước đã đề ra, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của toàn xã hội, của mọi ngành,
mọi người. Vì vậy, để triền khai và thực hiện tốt các chính sách xã hội , địa phương cần
tập trung vào một số lĩnh vực và đề ra mục tiêu phấn đâu cụ thể đến năm 2015.
- Thực hiện tốt chính sách xã hội về lĩnh vực dân số và việc làm, xác định công tác dân
số và giải quyết việc làm là mục tiêu quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế của
địa phương, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người,
từng gia đình và của toàn xã hội. Bằng cách vận động, tuyên truyền và giáo dục gắn
liền với dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến mọi người dân. Thực hiện gia đình ít con để
nuôi con khỏe dậy con ngoan, xây dựng cuộc sống gia đình ấm lo, hạnh phúc, bình
đẳng và tiến bộ. Ban dân số kết hợp với hội phụ nữ các ban ngành đoàn thể tổ chức
hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chính sách, luật pháp nhà nước, tổ chức và quản lý
hoạt động của các cộng tác viên để cung cấp và thu thập thông tin về dân số kế hoạch
17



hóa gia đình cho tất cả các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ. Đến năm 2015 không còn
trường hợp nào sinh con thứ 3.
- Chú trọng việc thực hiện giải quyết việc làm tại chỗ bằng các biện pháp thiết thực
như: Khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phẩn ưu tiên cho phát triển các
doanh nghiệp và các dịch vụ kinh doanh, trồng các loaị rau quả xuất khẩu cho thu nhập
cao. Phấn đấu giải quyết việc làm tại chỗ cho 80 - 100 lao động / năm.
- Thường xuyên tuyên truyền các chủ trương , đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước, các chính sách xã hội đến từng người dân. Hằng năm có từ 7/8 thôn
bản trở lên đạt thôn bản văn hóa: 85% gia đình đạt gia đình văn hóa. Quản lý tốt khu
di tích lịch sử đền Lục Liều và Đình Làng Hạ.
- Phấn đấu tỷ lệ trẻ mẫu giáo 3-6 tuổi ra lớp đạt 100%; học sinh lớp 5 vào lớp 6 đạt
100%; học sinhnlớp 9 thi đỗ vào phổ thông trung học đạt 98%; 3 trường học giữ vững
danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh, cấp huyện là đơn vị dẫn đầu huyện về chất
lượng giáo dục; tiếp tục giữ vững an ninh chính trị.
- Phấn đấu năm 2013 giảm còn 20% hộ nghèo, quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe,
đơì sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Phấn đấu hàng năm 100% trẻ dưới 6 tuổi
được cấp thẻ khám chữa bệnh; thực hiện đầy đủ chế độ bảo hiểm cho người nghèo,
Tuyên truyền tốt để nhân dân tham gia đóng bảo hiểm dưới mọi hình thức....giảm tỷ lệ
trẻ suy dinh dưỡng đến năm 2013 còn dưới 10%. Xây dựng trạm y tế đảm bảo các
tiêu chuẩn để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân địa phương.
- Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các hộ gia đình chính sách, đẩy mạnh phong trào
đền ơn đáp nghiã.
3. các giải pháp cơ bản góp phần làm tốt việc châp hành và thực hiện tốt chính
sách xã hội ở xã Long Sơn
Giải pháp và thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm lo đời sông đối với nhân
dân các gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng và các đối tượng
chính sách xã hội khác. Tạo điều kiện để nhân dân học tập, tiếp tục liên hệ với các
trung tâm dạy nghề, trường dạy nghề đào tạo nghề ngắn hạn cho nhân dân tạo công ăn

việc làm cho người lao động.
Một là: Tăng cường lãnh, chỉ đạo các tổ chức chính trị, xã hội và các ban ngành
đoàn thể trong xã tích cực tham gia tuyên truyền chính sách của Nhà nước tới người
dân, chuyển nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Hai là: cần phát huy sức mạnh tổng hợp, tính chủ động sáng tạo và quyền làm chủ
của nhân dân. Trong việc thực hiện chính sách xã hội, các cấp ủy Đảng các ban nghành
đoàn thể đi sâu đi sát cơ sở. lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân để kịp thời đề
18


ra các chủ trương biện pháp nhằm giải quyết nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân đóng góp ý kiến, xây dựng chính sách xã hội phù
hợp với tình hình đại phương.
Ba là: Cấp ủy Đảng, chính quyền cụ thể hóa một cách nghiêm túc các chính sách
xã hội của đảng Nhà nước ta, cho phù hợp với đặc điểm tình hình của xã Long Sơn.
Trước khi xây dựng các chương trình Kế hoạch cần được khảo sát Đánh giá cụ thể
nhiệm vụ chương trình Kế hoạch gắn liền với chương trình công tác. Phân công rõ
trách nhiệm từng cán bộ ổn định thời gian hoàn thành, quy trách nhiệm, nhiệm vụ trọng
tâm trọng điểm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo rứt điểm đồng thời chú trọng khâu đôn
đốc kiểm tra, sơ kết tổng kết thực hiện chính sách ở địa phương.
Bốn là; Quán triệt sâu sắc quan điểm chủ trương, đường lối chính sách của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước theo tinh thần Nghị định Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, XI và Nghị quyết đại hội đảng bộ xã Long Sơn lần thứ 23. Triển khai các
chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước đến mọi người dân thực hiện nghiêm túc có
hiệu quả.
Trong triển khai thường xuyên đôn đốc kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách xã
hội ở dịa phương.
Năm là: Cán bộ làm công tác xã hội phải nắm vững chuyên môn nghiệp vụ có
khả năng chuyển tải các chính sách xã hội đến mọi người dân , có tính thuyết phục để
mọi người dân hiểu, thực hiện nghiêm túc và chấp hành đầy đủ các chính sách xã hội

của nhà nước đề ra.
Sáu là: Tăng cường nguồn lực, phương tiện hoạt động chính sách xã hội hiệu quả.
Bẩy là: Nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền trong việc
thực hiện các chính sách xã hội ở địa phương.
Tám là: Phải thường xuyên củng cố, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công
tác chính sách có đủ khả năng và trình độ,
4. Đề xuất và kiến nghị
4.1. Đối với cấp cơ sở:
Cần tuyên truyền sâu rộng đến tất cả các cấp các ngành, cán bộ, Đảng viên và mọi
tâng lớp nhân dân về chủ trương đường lối chính sách của Đảng pháp luạt của Nhà
nước.
Cần tranh thủ sự hỗ trợ của các cấp đến giải quyết tốt kịp thời nhưng kiến nghị
của nhân dân về chế độ chính sách chế độ đãi nghộ, ưu đãi đối với người có công với
cách mạng , người già cô đơn trẻ em mồ côi không nơi nương tựa ,Nhất là chính sách
19


tạo công ăn việc làm cho người lao động trên địa bàn quan tâm việc dạy nghề, tạo việc
làm cho những lao động dư thừa.
Nghiên cứu thể chế hóa các chính sách của Đảng và Nhà nước cho phù hợp với
thực tiến của xã Long Sơn.
- Cần nâng cao hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện chính sách xã hội
chặt chẽ hơn.
4.2. Đối với cấp trên;
- Đảng, Nhà nước cần đề ra sửa đổi các chính sách xã hội cho phù hợp và kịp thời với
tiến trình phát triển của đát nước.
- Xử lý nghiêm những cấn bộ tập thể thực hiện sai và vi phạm chính sách xã hội của
Đảng và nhà nước.
- Giải quyết dứt điểm những tồn tại trong việc thực hiện chính sách có kế hoạch cụ thể
trong chính sách ưu đãi người có công với cách mạng và người bị di chứng do chiến

tranh để lại.
- Quan tâm hơn nữa đến việc dạy nghề, tạo công ăn việc làm cho số lao động dư thừa ở
nông thôn.
- Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác
chính sách ở cơ sở. Tạo điều kiện thuận lợi để cơ sở vật chất điều kiện làm việc cho đội
ngũ cán bộ làm công tác chính sách ở địa phương.
C. KẾT LUẬN
Xuất phát từ quan điểm con người vừa là mục tiêu vừa là động lực, vừa là trung
tâm của sự quan tâm xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo ra mọi vật chất tinh thần cho xã
hội, chính sách xã hội cần tác động một cách toàn diện vào tất cả các mặt của đời sống
con người, nhằm phát huy mạnh mẽ nhân tố con người.
Chính sách xã hội hướng vào hoạt động nhằm điều hòa các mâu thuẫn xung đột,
giảm bớt bất công, căng thẳng xã hội, góp phần cân đối thu thập giải quyết việc làm,
phân phối lợi ích tạo ra sự công bằng hợp lý giữa cống hiến và hưởng thụ , khuyến
khích người nhiệt tình năng động, tài năng giúp kẻ nghèo khó rủi ro không may trong
cuộc sống.... đảm bảo an ninh, an tòa xã hội cũng như quyền tự do công dân và sức
khỏe, hạnh phúc cho con người.
Văn kiện đại hội X khẳng định: “Xây dựng hệ thống chính sách đảm bảo cung
ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, tạo điều kiện cho mọi người dân, kể cả người nghèo
được đáp ứng nhu cầu về giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khẻo văn hóa thông tin, thể
dục thể thao, tạo việc làm..... xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển
20


mạnh mẽ đảm bảo y tế tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đổi mới và hòan thiện hệ thống
y tế theo hướng công bằng hiệu quả phát triển, tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe; xây dựng chiến dịch quốc gia về nâng cao sức
khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện giống nòi”
Những chủ trương quan điểm đường lối của Đảng đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết và
được cụ thể hóa trong các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương đã nhanh chóng

tiếp thu và triển khai thực hiện chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và đưa chính sách vào
cuộc sống. Bằng những cố gắng lỗ lực của cán bộ Đảng viên và toàn thể nhân dân, sự
tác động có hiệu quả của các Nghị quyết và các quan điểm đường lối chính sách pháp
luật của Nhà nước nên trong những năm qua đời sống xã hội của nhân dân xã Long
Sơn có nhiều khởi sắc và đạt được nhiều thành tích đáng kể về thực hiện các mục tiêu
kinh tế, văn hóa xã hội. Đó là những kết quả đáng trân trọng vừa là động lực, vừa là
đòn bẩy để cán bộ nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà đai hội Đảng bộ xã
Long Sơn đề ra trong nhiệm kỳ vừa qua.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, khi nền kinh tế thị trường đang diễn ra
sôi động, thì trong lĩnh vực chính sách xã hội không thể tránh khỏi những nàn gió cản
trở đó là khuyết tật của nền kinh tế. Nhiệm vụ của Đảng nhà nước ta trong việc đề ra
các chủ trương chính sách xã hội với lòng dân đặt ra lúc này là hết sức quan trọng vì
chính sách xã hội cần được đề cao tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả. Muốn điều đó
trở thành hiện thực thì mỗi cấp, mỗi ngành mỗi cán bộ Đảng viên cần phải phát huy vai
trò, nêu cao ý thức trách nhiệm tạo nên nguồn sức mạnh mỗi khi tổ chức triển khai
thực hiện chính sách xã hội trong mọi lĩnh vực. Với những nhận thức đúng đắn về
chính sách xã hội, kết hợp với sự đoàn kết cố gắng của cán bộ và nhân dân, trông
những năm tiếp theo của sự đổi mới xã Long Sơn sẽ có thêm nhiều khởi sắc mới góp
phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng phát triển với mục tiêu : “ Dân giàu
nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn minh”
Để hoàn thành đề tài này tôi xin trân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường chính
trị tỉnh Bắc Giang đã trang bị cho tôi những kiến thức bổ ích. Đặc biệt xin cảm ơn Thạc
sĩ Trần Thị Minh Phương đã tận tình hướng dẫn, tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành đề
tài. Cảm ơn Đảng ủy; Hội đồng nhân dân; ủy ban nhân dân UBMT tổ quốc xã Long
Sơn đã cung cấp các tư liệu giúp tôi hoàn thành đề tài.
Với thời gian nguyên cứu không dài, năng lực của bản thân tôi còn hạn chế nên tiểu
luận không tránh khỏi những hạn chế, kính mong các thầy cô giáo cùng bạn đọc đóng
góp đẻ tài liệu được hoàn thiện hơn.
Long Sơn, ngày 2 tháng 8 năm 2011
XÁC NHẬN CỦA ĐỊA PHƯƠNG


NGƯỜI VIẾT TIỂU LUẬN

21


22



×