Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Cơ hội và thách thức xuất nhập khẩu của Việt Nam từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 13 trang )

Cơ hội và thách thức xuất nhập khẩu của Việt Nam từ
cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc
Ngô Dương Minh

Hàn Phương Thảo

Khoa Kinh doanh Quốc tế, Học viện Ngân hàng

Khoa Kinh doanh Quốc tế, Học viện Ngân hàng

Nửa cuối năm 2017, thế giới chứng kiến một cuộc xung đột hiện nay vẫn
chưa đi đến hồi kết thúc giữa hai nền kinh tế hàng đầu- Mỹ và Trung Quốc.
Căng thẳng giữa hai nền kinh tế lớn nhất này đã gây ra ảnh hưởng trên
phạm vi toàn thế giới. Tùy từng quốc gia, chiến tranh thương mại mang đến
cơ hội cũng như thách thức khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu quốc tế. Việt Nam- một quốc gia đã và đang tham gia sâu vào chuỗi
sản xuất toàn cầu- cũng chịu ảnh hưởng nhiều từ cuộc chiến tranh thương
mại trên. Bài viết này tập trung đánh giá tác động của cuộc chiến thương
mại Mỹ- Trung Quốc lên hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, từ đó đề
xuất những biện pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực và tận dụng các tác
động tích cực của mối quan hệ này.
Từ khóa: Chiến tranh thương mại, quan hệ thương mại, xuất nhập khẩu
1. Đặt vấn đề

Trong nền kinh tế thị trường và cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, vấn đề cạnh tranh

Opportunities and challenges of export and import of Vietnam from the US- China trade war

In the second half of 2017, the world witnessed a current conflict that has not come to an end between the
two leading economies- the United States and China. The confrontation between these two most developed


countries have caused worldwide influence. For each country, this trade war leads to different opportunities
and challenges, especially in the field of international import and export. Vietnam- a country that has been
deeply involved in the global production chain is also strongly affected by the trade war. This article focuses on
assessing the impact of the trade relationship between these two economies on Vietnam’s import and export
activities, thereby suggests some strategies to limit negative impacts and take advantage of the positive effects
of this relationship.
Keywords: trade war, trade relationship, export and import
Minh Duong Ngo
Email:

Thao Phuong Han
Email:

Organisation of all: Banking Academy of Vietnam
Ngày nhận: 10/08/2019

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số Xuân 212+213- Tháng 1&2. 2020

Ngày nhận bản sửa: 03/09/2019

30

Ngày duyệt đăng: 22/07/2019

© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X


NGÔ DƯƠNG MINH - HÀN PHƯƠNG THẢO


giữa các quốc gia ngày càng trở nên gay
gắt. Khi giao thương, tất cả các quốc gia
đều mong muốn đem lại lợi ích tối đa cho
đất nước mình, do vậy, xung đột là không
thể tránh khỏi khi các quốc gia tham gia
giao thương không đạt được thỏa thuận
với nhau.
Năm 2018, thế giới chứng kiến một cuộc
xung đột hiện nay vẫn chưa đi đến hồi kết
thúc giữa hai nền kinh tế hàng đầu- Mỹ và
Trung Quốc. Căng thẳng giữa hai quốc gia
này đã gây ra ảnh hưởng trên phạm vi toàn
thế giới. Đối với từng quốc gia, chiến tranh
thương mại mang đến cơ hội cũng như
thách thức khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh
vực xuất nhập khẩu quốc tế. Việt Nam- một
quốc gia đã và đang tham gia sâu vào chuỗi
sản xuất toàn cầu- cũng chịu ảnh hưởng
nhiều từ cuộc chiến tranh thương mại trên.
Hiện tại, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 30,2
tỷ USD (tính đến hết năm 2018) và là nước
có sản lượng xuất khẩu vào Mỹ đứng thứ
12 trên toàn thế giới. Ở chiều ngược lại,
Trung Quốc vẫn giữ vị trí là thị trường
nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim
ngạch đạt 41,4 tỷ USD (tính đến hết năm
2018) (Bộ Công thương, 2019). Như vậy,
về lâu về dài, với tình hình chiến tranh

thương mại tiếp tục leo thang, nền kinh tế
Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rủi ro,
thách thức khó lường.
Hiện nay, đã có một số bài nghiên cứu

phân tích về những thuận lợi và bất lợi mà
nền kinh tế Việt Nam gặp phải do chiến
tranh thương mại. Tuy nhiên, chưa có
nhiều công trình đánh giá cụ thể những
ảnh hưởng mà mối quan hệ giữa hai cường
quốc trên mang lại đối với hoạt động xuất
nhập khẩu của Việt Nam. Bởi thế, với bài
viết này, tác giả muốn làm rõ ảnh hưởng
của cuộc chiến Mỹ- Trung tới lĩnh vực
xuất nhập khẩu thông qua việc trả lời hai
câu hỏi: (1) Cuộc chiến thương mại MỹTrung mang đến cho xuất nhập khẩu Việt
Nam những cơ hội và thách thức gì; và
(2) Cần làm gì nhằm hạn chế tác động tiêu
cực và tận dụng các tác động tích cực từ
cuộc chiến này?
2. Cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung
Quốc
Chiến tranh thương mại Mỹ- Trung diễn
ra trong bối cảnh kinh tế Trung Quốc đang
ngày càng trỗi dậy, có khả năng thách
thức ngôi vị cường quốc số 1 thế giới của
Mỹ. Tương quan sức mạnh quốc gia của
Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực kinh
tế, đã rút ngắn đáng kể so với Mỹ, nhất là
từ sau cuộc khủng hoảng tài chính, kinh

tế toàn cầu nổ ra tại Mỹ năm 2008. Nếu
năm 2010, tổng GDP của Trung Quốc mới
là 5,9 nghìn tỷ USD, kém xa so với GDP
của Mỹ là 14,5 nghìn tỷ USD, thì đến năm
2017, trước khi chiến tranh thương mại
Mỹ- Trung nổ ra, khoảng cách này đã rút
ngắn đáng kể, khi tổng GDP của Trung

Bảng 1. Quy mô kinh tế, xuất nhập khẩu của Mỹ và Trung Quốc năm 2018
Quy mô kinh tế
GDP danh
nghĩa (tỷ
USD)

Xuất khẩu

Nhập khẩu

GDP tính
Xếp hạng
Xếp hạng Tỷ Xếp hạng Tỷ Xếp hạng
theo PPP
thế giới
thế giới USD thế giới USD thế giới
(tỷ USD)

Mỹ

20.494


1

20.494

2

1.674

2

2.562

1

Trung Quốc

13.407

2

25.270

1

2.417

1

2.022


2

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ dữ liệu của data.imf.org
Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

31


Cơ hội và thách thức của xuất nhập khẩu của Việt Nam từ cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung
Quốc

Quốc là 12,7 nghìn tỷ USD và của Mỹ
là 19,7 nghìn tỷ USD (World economic
outlook, 2018).
Hiện tại, Mỹ giữ vị trí là nước nhập khẩu
lớn nhất và xuất khẩu thứ nhì thế giới, trong
khi Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất
và nhập khẩu thứ nhì thế giới. Theo các
dự báo, GDP danh nghĩa của Trung Quốc
sẽ vượt Mỹ vào năm 2030. Tuy nhiên, nếu
tính theo ngang giá sức mua (PPP), GDP
của Trung Quốc hiện đã vượt qua Mỹ
(World economic outlook, 2018).
Sự cạnh tranh giữa hai cường quốc ngày
càng trở nên gay gắt trong những năm gần
đây do Trung Quốc đang dần thay thế Mỹ
ở vị trí số 1 trên bản đồ địa chính trị thế
giới, trong khi đó nền kinh tế Mỹ đang
có dấu hiệu suy giảm. Bên cạnh đó, các
vấn đề sau đây có thể được coi là những

nguyên nhân cụ thể gây căng thẳng liên
tục trong nhiều tháng giữa Trung Quốc và
Mỹ, dẫn đến chiến tranh thương mại:
Thứ nhất, chính sách bảo hộ của chính
quyền Mỹ: Dưới thời Tổng thống Donald
Trump, nước Mỹ đã theo đuổi chính sách
bảo hộ mậu dịch với phương châm “nước
Mỹ là trên hết” và “làm nước Mỹ vĩ đại
trở lại”. Vì vậy, ông Trump đã rút khỏi
các yêu cầu đàm phán lại các Hiệp định
thương mại tự do (FTA) mà Mỹ đang kí
kết hoặc thực thi, không tham gia vào
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Những hành động cứng rắn này của
chính quyền Tổng thống Donald Trump
không chỉ dẫn đến xung đột thương mại
với những nước đồng minh của Mỹ như
EU, Nhật Bản, Hàn Quốc; những nước
láng giềng như Canada, Mexico mà sâu
xa hơn là dẫn đến căng thẳng thương mại
giữa Mỹ và Trung Quốc.

32

Thứ hai, sự gia tăng trong thâm hụt
thương mại của Mỹ với Trung Quốc: Đây
được xem là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến tình hình căng thẳng giữa 2 nền kinh
tế lớn nhất thế giới. Thâm hụt thương mại
của Mỹ với Trung Quốc tăng liên tục từ

khi Trung Quốc gia nhập WTO vào năm
2001, từ 100 tỷ USD lên đến 375 tỷ USD
vào năm 2017, chỉ riêng nửa năm đầu năm
2018, con số này đã lên tới 185,7 tỷ USD
(World economic outlook, 2018). Do đó,
để cân bằng thương mại với Trung Quốc,
Mỹ bắt đầu tiến hành áp thuế nhập khẩu
lên các mặt hàng từ Trung Quốc, khiến
Trung Quốc phải tăng mua hàng của Mỹ,
nhằm giảm thâm hụt thương mại. Việc
đánh thuế còn giúp hỗ trợ việc giảm tình
trạng thất nghiệp ở Mỹ và khuyến khích
sản xuất nội địa do thuế sẽ làm giảm khả
năng cạnh tranh về giá của hàng hóa sản
xuất ở Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ.
Bên cạnh đó, các tập đoàn lớn của Mỹ
đang kinh doanh tại thị trường Trung
Quốc sẽ có xu hướng tập trung hơn vào
tình hình sản xuất tại Mỹ và rút dần hoạt
động tại Trung Quốc, do những chênh lệch
lớn về thuế.
Thứ ba, tham vọng của Trung Quốc về
việc trở thành quốc gia công nghệ hàng
đầu thế giới: Bản kế hoạch phát triển khoa
học và công nghệ trong trung và dài hạn
giai đoạn 2006- 2020 do Ủy ban Nhà nước
Trung Quốc cho ra đời đã thể hiện rất rõ
tham vọng lớn của Trung Quốc trong việc
hiện đại hóa cấu trúc kinh tế bằng cách đưa
Trung Quốc từ trung tâm sản xuất với kỹ

thuật lắp ráp thấp lên thành trung tâm đổi
mới chính của thế giới vào năm 2020 và
trở thành nước dẫn đầu đổi mới của toàn
cầu vào năm 2050 (Cục thông tin và công
nghệ quốc gia, 2010). Nếu bản kế hoạch
này được áp dụng thành công, nhiều doanh
nghiệp Trung Quốc sẽ trở thành đối thủ

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020


NGÔ DƯƠNG MINH - HÀN PHƯƠNG THẢO

Bảng 2. Tóm tắt diễn biến chiến tranh thương mại Mỹ- Trung
Thời
gian

Động thái của các bên
Mỹ

Trung Quốc

3/2018 Tổng thống Mỹ, Donald Trump ký một bản
ghi nhớ, bao gồm:
- Đệ đơn kiện Trung Quốc lên WTO về việc
vi phạm quyền sở hữu trí tuệ;
- Hạn chế đầu tư vào Trung Quốc ở những
lĩnh vực công nghệ chính; và
- Áp thuế lên các sản phẩm từ Trung Quốc
(máy móc và công nghệ ngành viễn thông,

vũ trụ).
Tiếp đó, Mỹ áp thuế nhập khẩu lên mặt hàng
thép và nhôm từ phần lớn các quốc gia trên
thế giới, trong đó có Trung Quốc.
4/2018 Mỹ công bố danh sách các mặt hàng sẽ bị
Trung Quốc áp thuế nhập khẩu (15áp thuế nhập khẩu từ Trung Quốc (trị giá 50 25%) lên 128 hàng hóa (trị giá 3 tỷ
tỷ USD), chủ yếu là hàng công nghệ cao.
USD) từ Mỹ.
5/2018 Trung Quốc và Mỹ đối thoại tại Bắc Kinh không có kết quả.
6/2018 Mỹ công bố danh sách áp thuế cuối cùng.
Danh sách 1 sẽ áp mức thuế 25% lên 818
sản phẩm trị giá 34 tỷ USD và chính thức
có hiệu lực vào 6/7/2018. Danh sách 2 bao
gồm 284 sản phẩm (trị giá 16 tỷ USD), vẫn
đang trong tiến trình cân nhắc.

Trung Quốc cũng thay đổi danh sách
áp thuế (25% cho 106 sản phẩm). Danh
sách 1 sẽ áp thuế 25% lên 545 sản
phẩm (trị giá 34 tỷ USD), chính thức có
hiệu lực vào 6/7/2018. Danh sách 2 bao
gồm 114 sản phẩm (trị giá 16 tỷ USD),
vẫn đang trong tiến trình cân nhắc theo
dõi động thái từ Mỹ.

8/2018 Mỹ công bố bản Danh sách 2 cuối cùng, áp
thuế 25% lên 279 mặt hàng từ Trung Quốc,
trị giá khoảng 16 tỷ USD, chính thức có hiệu
lực vào ngày 23/8/2018.


Đáp lại, Trung Quốc cũng công bố Danh
sách 2 cuối cùng áp thuế 25% lên 16 tỷ
USD hàng từ Mỹ, chính thức có hiệu lực
vào 23/8/2018.

9/2018 Mỹ công bố bản chính thức Danh sách 3 các
sản phẩm của Trung Quốc trị giá nhập khẩu
200 tỷ USD sẽ bị áp mức thuế 10% bắt đầu
từ 24/9/2018; sau đó tăng mức thuế lên 25%
kể từ 01/01/2019.

Trung Quốc tuyên bố sẽ tiến hành gói
áp thuế trả đũa trị giá 60 tỷ USD lên
hàng nhập khẩu từ Mỹ, sẽ có hiệu lực
đồng thời với gói áp thuế 200 tỷ USD
của Mỹ lên hàng Trung Quốc, vào
24/9/2018.

12/2018 Mỹ và Trung Quốc đạt được “thỏa thuận đình chiến thương mại”, nhất trí không áp đặt
các biện pháp thuế quan mới trong vòng 90 ngày, cho tới ngày 01/3/2019; và hai bên
sẽ đàm phán để đạt được thỏa thuận thương mại chung.
4/2019 Sau nhiều cuộc hội đàm, Mỹ và Trung Quốc đồng ý thành lập một “văn phòng thực thi”
để quản lý việc tuân thủ thỏa thuận thương mại giữa hai nước, dự kiến sẽ sớm hoàn
tất trong năm 2019.
5/2019 Mỹ đưa tập đoàn viễn thông Huawei và 70
Trung Quốc lập danh sách “thực thể
chi nhánh vào “Danh sách thực thể”, cấm
nước ngoài không đáng tin cậy”, nhằm
các công ty Mỹ bán các sản phẩm công
trả đũa “danh sách thực thể” của Mỹ.

nghệ cho các công ty viễn thông Trung Quốc
mà không có sự đồng ý của chính phủ Mỹ.

Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

33


Cơ hội và thách thức của xuất nhập khẩu của Việt Nam từ cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung
Quốc

Thời
gian

Động thái của các bên
Mỹ

Trung Quốc

6/2019 Mỹ bổ sung thêm 5 công ty công nghệ Trung Trung Quốc áp thuế quan bổ sung lên
Quốc vào “Danh sách thực thể”, cấm các
60 tỷ hàng hóa của Mỹ, với các mức
doanh nghiệp này mua linh kiện và phụ tùng 25%, 20% và 10%.
của Mỹ nếu chưa được sự chấp thuận của
chính phủ Mỹ.
8/2019 Mỹ coi Trung Quốc là nước thao túng tiền tệ. Lần đầu tiên trong hơn 10 năm qua, giá
nhân dân tệ phá mốc 7 CNY/ 1 USD.
Bên cạnh đó, Trung Quốc vừa thông
báo tạm thời ngừng mua các sản phẩm
nông nghiệp từ Mỹ.

Nguồn: Trung tâm WTO và hội nhập, 2019

Hình 1. Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam- Mỹ giai đoạn 2010- 2018

Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2019

cạnh tranh trực tiếp, đe dọa vị trí số 1 của
các doanh nghiệp Mỹ. Ngoài ra, các công
ty của Trung Quốc còn bị nghi ngờ sử dụng
các công nghệ sáng chế của Mỹ. Vì vậy,
để theo đuổi mục tiêu “làm nước Mỹ vĩ đại
trở lại”, tổng thống Trump thông qua chiến
tranh thương mại, muốn cầm chân Trung
Quốc trong cuộc đua công nghệ, đồng thời
gia tăng sức ép, tạo ra sự công bằng trong
việc đối xử giữa doanh nghiệp hai nước,
bảo vệ bằng sáng chế.
Những diễn biến chính của cuộc chiến tranh
thương mại này được tóm tắt ở Bảng 2.

34

3. Thực trạng mối quan hệ thương mại
của Việt Nam với Mỹ và Trung Quốc
3.1. Quan hệ thương mại Việt Nam- Mỹ
Trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2018,
thương mại hàng hóa Việt Nam- Mỹ đã
tăng gấp 3 lần, từ mức tổng trị giá xuất
nhập khẩu đạt 18,01 tỷ USD ghi nhận
trong năm 2010 lên mức 60,28 tỷ USD

trong năm 2018. Tính toán của Tổng cục
Hải quan cho thấy tốc độ tăng xuất nhập
khẩu giữa hai nước bình quân trong giai
đoạn này đạt 16,3%/năm, với tốc độ tăng

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020


NGÔ DƯƠNG MINH - HÀN PHƯƠNG THẢO

Hình 2. Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ trong năm 2018

Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2019

xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường
Mỹ đạt 16,3%/năm (14,24 tỷ USD trong
năm 2010 lên 47,53 tỷ USD năm 2018);
tốc độ tăng của hàng hóa nhập khẩu có
xuất xứ từ Mỹ vào Việt Nam cũng có mức
tăng bình quân 16,5%/năm (3,77 tỷ USD
năm 2010 lên mức 12,75 tỷ USD năm
2018). Cũng trong năm 2018, trong nhóm
10 đối tác thương mại lớn nhất của Việt
Nam, Mỹ xếp thứ 3, sau Trung Quốc và
Hàn Quốc (Tổng cục Hải quan, 2019).
Theo số liệu thống kê trong Cơ sở Thống
kê dữ liệu Thương mại của Cơ quan Thống
kê Liên Hợp quốc (UNCOMTRADE), tổng
trị giá xuất khẩu hàng hóa của Mỹ trong
năm 2017 đạt 1.784 tỷ USD ra thị trường

thế giới, trong đó Việt Nam là nước nhập
khẩu hàng hóa lớn thứ 31 của Mỹ, chỉ
chiếm 0,5% trong tổng trị giá xuất khẩu
hàng hóa của Mỹ. Cũng theo nguồn số liệu
này, trong năm 2017, Mỹ nhập khẩu hàng
hóa trị giá lên đến 2.407 tỷ USD từ tất cả
đối tác thương mại, trong đó hàng hóa từ
Việt Nam xếp vị trí thứ 12, chiếm tỷ trọng
2% trong tổng trị giá nhập khẩu của Mỹ.
Hàng dệt may là nhóm mặt hàng có trị giá

xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang thị
trường Mỹ với trị giá trong năm 2018 đạt
13,7 tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2017.
Các nhóm mặt hàng lớn tiếp theo: giày
dép các loại đạt 5,82 tỷ USD, tăng 13,9%;
điện thoại các loại và linh kiện đạt 5,41 tỷ
USD, tăng 46,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt
3,9 tỷ USD, tăng 19,3%; máy móc thiết bị
dụng cụ & phụ tùng đạt 3,4 tỷ USD, tăng
40,3%... (Tổng cục Hải quan, 2019).
Trong năm 2018, tổng trị giá nhập khẩu
của 10 nhóm mặt hàng lớn nhất có xuất
xứ từ Hoa Kỳ năm 2018 đạt hơn 8,97 tỷ
USD, chiếm 70,4% trong tổng trị giá nhập
khẩu hàng hóa có xuất xứ Hoa Kỳ.
Trong năm 2018, các doanh nghiệp Việt
Nam đã nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện có xuất xứ từ Hoa Kỳ
trị giá lên đến 3,1 tỷ USD, tăng 9,6% so với

năm 2017; nhập khẩu bông các loại đạt 1,47
tỷ USD, tăng 24,6%; nhập khẩu máy móc
thiết bị dụng cụ & phụ tùng đạt 1,05 tỷ USD,
tăng 3,9% (Tổng cục Hải quan, 2019).
3.2. Quan hệ thương mại của Việt Nam
với Trung Quốc

Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

35


Cơ hội và thách thức của xuất nhập khẩu của Việt Nam từ cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung
Quốc
Hình 3. Cơ cấu nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ trong năm 2018

Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2019

Tính đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc
hiện là đối tác thương mại lớn nhất của
Việt Nam, là thị trường nhập khẩu lớn
nhất và đồng thời là thị trường xuất khẩu
lớn thứ 2 của Việt Nam, sau Mỹ. Ở chiều
ngược lại, Việt Nam là đối tác thương mại
lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN
và là đối tác lớn thứ 8 của Trung Quốc
trên phạm vi toàn cầu, trong đó, Việt Nam
đóng vai trò là thị trường xuất khẩu lớn
thứ 5 và là thị trường cung cấp hàng hóa
lớn thứ 9 của Trung Quốc. Năm 2018,

tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt
Nam và Trung Quốc đạt 106,7 tỷ USD,
tăng 13,5% so với năm 2017. Việt Nam
nhập siêu từ Trung Quốc 24,2 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc
năm 2018 đạt 41,3 tỷ USD, tăng 16,6%
so với năm 2017. Các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam sang Trung Quốc
tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá,
trong đó điện thoại các loại và linh kiện
đạt 9,4 tỷ USD (tăng 31,1%); máy vi tính,
sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 8,4 tỷ
USD (tăng 21,9%); máy ảnh, máy quay
phim và linh kiện đạt 2,8 tỷ USD (tăng

36

34,1%); hàng rau quả đạt 2,8 tỷ USD (tăng
34,1%); xơ sợi dệt các loại đạt 2,2 tỷ USD
(tăng 8,5%); hàng dệt may đạt 1,5 tỷ USD
(tăng 39,6%).
Nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc
trong năm 2018 đạt 65,4 tỷ USD, tăng
11,7% so với năm 2017. Các mặt hàng
nhập khẩu chính bao gồm máy móc, thiết
bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 12 tỷ USD (tăng
10,2%); điện thoại các loại và linh kiện đạt
8,6 tỷ USD (giảm 1,9%); máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện đạt 7,8 tỷ USD
(tăng 10,6%); vải các loại đạt 7,1 tỷ USD

(tăng 16,8%), sắt thép các loại đạt 4,5 tỷ
USD (tăng 9,6%); nguyên phụ liệu dệt
may, da giày đạt 2,2 tỷ USD (tăng 7,3%);
sản phẩm từ chất dẻo đạt 2,1 tỷ USD (tăng
7,1%) (Bộ công thương, 2019).
4. Tác động của cuộc chiến thương mại
Mỹ- Trung Quốc tới xuất nhập khẩu
Việt Nam
Việt Nam có quan hệ thương mại sâu
rộng với cả Mỹ và Trung Quốc, chính vì
vậy khi chiến tranh thương mại xảy ra,

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020


NGÔ DƯƠNG MINH - HÀN PHƯƠNG THẢO

chắc chắn kinh tế Việt Nam nói chung và
lĩnh vực xuất nhập khẩu nói riêng sẽ chịu
những tác động nhất định, với cả những cơ
hội và thách thức. Những cơ hội và thách
thức này sẽ được đánh giá chi tiết thông
qua mô hình SWOT.
4.1. Thế mạnh (Strengths)
Việt Nam là một trong những nền kinh
tế có độ mở lớn nhất thế giới, với tốc độ
tăng trưởng GDP ở mức ổn định 6,8%/
năm- cao hơn so với mức bình quân của
nền kinh tế mới nổi khu vực Đông Nam Á
và Thái Bình Dương, cho dù phải đối mặt

với các thách thức từ bối cảnh toàn cầu.
Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở
rộng, hàng hóa của Việt Nam đã có mặt tại
hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Bên cạnh đó, các FTA được kí kết đã đem
lại sự tăng trưởng tốt ở nhiều thị trường;
hàng hóa, sản phẩm của Việt Nam ngày
càng khẳng định được vị trí của mình
trong mắt người tiêu dùng quốc tế. Đặc
biệt, xuất siêu của Việt Nam đã 3 năm
liên tiếp đạt mức cao kỉ lục, thặng dư năm
2018 đạt gần 6,8 tỷ USD và cơ cấu hàng
hóa xuất khẩu đã thay đổi theo hướng tích
cực hơn với quy mô không ngừng mở
rộng. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều
thâm nhập được vào các thị trường lớn và
có mức tăng trưởng xuất khẩu tốt.
Những mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch
xuất khẩu năm 2018 là điện thoại và các
loại linh kiện đạt 49,08 tỷ USD, tăng
8,4% so với năm 2017; hàng dệt may đạt
30,49 tỷ USD, tăng 16,7%; máy vi tính,
sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 29,32
tỷ USD, tăng 12,9%; máy móc, thiết bị,
dụng cụ, phụ tùng đạt 16,55 tỷ USD,
tăng 28,2%; giày dép các loại đạt 16,24
tỷ USD, tăng 10,6%; gỗ và sản phẩm
gỗ đạt 8,91 tỷ USD, tăng 15,7%. Ở thời

điểm hiện tại, các mặt hàng xuất khẩu chủ

lực của Việt Nam lại càng được đà tăng
trưởng khi khi những hàng hóa của Trung
Quốc bị Mỹ áp thuế cũng chính là những
ngành hàng Việt Nam xuất khẩu mạnh.
4.2. Điểm yếu (Weaknesses)
Dù các con số thống kê đều thể hiện sự
tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
nói chung và lĩnh vực xuất nhập khẩu nói
riêng, tuy nhiên có thể thấy sức cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam trên thị trường
quốc tế chưa cao. Các ngành hàng xuất đi
chủ yếu như hàng dệt may, da giày tuy là
sản phẩm xuất khẩu thế mạnh nhưng chủ
yếu lại là hàng gia công, nông sản thì lại
được xuất khẩu dưới dạng thô, không thu
về nhiều giá trị gia tăng. Bên cạnh đó, Việt
Nam lại chưa có ngành công nghiệp hỗ trợ
đủ mạnh và đủ lớn để cung cấp linh kiện,
phụ kiện cho nền sản xuất trong nước, dẫn
đến nhiều ngành chịu phụ thuộc lớn vào
nguồn nguyên phụ liệu đầu vào nhập khẩu
từ nước ngoài. Theo Tổng cục Thống kê,
giá trị nhập siêu đã lên đến 800 triệu USD
chỉ trong tháng 01/2019.
4.3. Cơ hội (Opportunities)
Thứ nhất, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu:
Hàng hóa của Trung Quốc trở nên kém
cạnh tranh hơn trong mắt các doanh
nghiệp nhập khẩu Mỹ, dẫn đến xu hướng
dịch chuyển thương mại, chuyển hướng

nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc sang
các thị trường khác, đặc biệt là các thị
trường thuộc khu vực Đông Nam Á, trong
đó có Việt Nam. Các sản phẩm về nông
lâm, thủy sản của Việt Nam xuất khẩu đi
các nước khác có chất lượng tương đồng
với các sản phẩm xuất khẩu của Trung
Quốc. Điều này tạo ra cho Việt Nam cơ
hội thay thế Trung Quốc trở thành nguồn

Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

37


Cơ hội và thách thức của xuất nhập khẩu của Việt Nam từ cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung
Quốc

cung ứng hàng hóa vào Mỹ nếu căng
thẳng giữa hai nền kinh tế này không được
giải tỏa trong thời gian tới.

đẩy tăng trưởng xuất khẩu.

Không chỉ có cơ hội gia tăng xuất khẩu
sang Mỹ, Việt Nam còn đứng trước cơ hội
gia tăng xuất khẩu sang thị trường Trung
Quốc do Trung Quốc cũng áp thuế đáp
trả lên các mặt hàng của Mỹ, trong đó có
hàng nông sản. Hàng nông sản của Việt

Nam vốn được ưa chuộng tại thị trường
Trung Quốc nên có nhiều khả năng Trung
Quốc sẽ xem xét nhập khẩu nhiều hơn
các sản phẩm của ngành hàng này từ Việt
Nam. Tình hình xuất khẩu giữa Việt NamTrung Quốc đang có những chuyển biến
tích cực. Trong đó, trong năm 2018 xuất
khẩu sang Trung Quốc đạt trên 41 tỷ USD,
tăng 16% so với năm 2017 (Bộ Công
thương, 2019).

Thứ nhất, rủi ro thâm hụt cán cân thương
mại: Để đối phó với các khoản thuế của
Mỹ, Trung Quốc có khả năng sẽ đưa ra
các chính sách phá giá, tăng cường xuất
khẩu hàng hóa sang các nước lân cận,
trong đó có Việt Nam để duy trì năng suất.
Do kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam
từ Trung Quốc khá cao, động thái này của
Trung Quốc có thể khiến nhập khẩu của
Việt Nam tăng mạnh, dẫn đến cán cân
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc
ngày càng trở nên chênh lệch, nguy cơ
thâm hụt cán cân thương mại sẽ càng cao
và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh
tế của Việt Nam.

Thứ hai, thu hút FDI do xu hướng chuyển
dịch cơ cấu: Để né tránh ảnh hưởng từ
thuế mà Mỹ áp lên Trung Quốc, các công
ty đa quốc gia đặt tại Trung Quốc đang có

xu hướng chuyển dịch cơ sở sản xuất sang
Việt Nam và các nước lân cận. Với nhiều
đặc điểm tương đồng với Trung Quốc như
lương lao động thấp, môi trường văn hóa,
xã hội và quan trọng hơn cả là điều kiện
đầu tư vào Việt Nam đã trở nên dễ dàng
hơn trước kia, Việt Nam đang trở thành
điểm đến lý tưởng cho các tập đoàn đa
quốc gia có nhà máy ở Trung Quốc. Hơn
nữa, trước tình hình căng thẳng giữa Mỹ
và Trung Quốc, các doanh nghiệp của Mỹ
có hoạt động kinh doanh tại Trung Quốc
gặp khó khăn do sức ép của cuộc chiến có
thể sẽ chuyển hướng hoạt động kinh doanh
của mình sang Việt Nam. Đây chính là
cơ hội lớn để Việt Nam khẳng định vị thế
của mình trên trường quốc tế, tận dụng các
hiệp định thương mại đã ký kết và thu hút
thêm vốn đầu tư FDI, qua đó hỗ trợ thúc

38

4.4. Thách thức (Threats)

Thứ hai, sức ép cạnh tranh hàng hóa tăng
cao: Với những cơ hội ngắn hạn mà chiến
tranh thương mại tạo ra, không chỉ mình
Việt Nam mà cả các quốc gia khác cũng
sẽ cố gắng chớp lấy thời cơ. Do đó, hàng
hóa Việt Nam sẽ có thêm nhiều đối thủ

cạnh tranh để xuất khẩu vào Mỹ. Ở chiều
ngược lại, hàng hóa của Trung Quốc và
Mỹ do các khoản thuế 2 nước áp lên nhau
sẽ được đẩy sang các thị trường khác, gây
áp lực cạnh tranh lên hàng hóa của Việt
Nam tại các thị trường trên. Ngoài ra, khi
hoạt động xuất khẩu sang Mỹ bị hạn chế
do ảnh hưởng của thuế quan, Trung Quốc
sẽ thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa nội địa, hàng
hóa Việt Nam do đó phải cạnh tranh lớn
với hàng nội địa Trung Quốc.
Thứ ba, rủi ro từ chính sách gia tăng bảo
hộ của Mỹ: Mỹ ngày càng có xu hướng
gia tăng bảo hộ nền kinh tế trong nước, rủi
ro cho các nước có thặng dư thương mại
với Mỹ như Việt Nam là các rào cản về
thuế quan và kĩ thuật. Như vậy, các mặt

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020


NGÔ DƯƠNG MINH - HÀN PHƯƠNG THẢO

hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như
dệt may, điện tử, linh kiện... có khả năng
trở thành đối tượng bị áp thuế và các hàng
rào kĩ thuật trong thời gian tới. Điều này
sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp
xuất khẩu Việt Nam và có nguy cơ làm
giảm giá trị xuất khẩu các ngành hàng chủ

lực sang Mỹ.
Thứ tư, rủi ro từ nguồn gốc xuất xứ hàng
hóa: Do mục đích tránh các khoản thuế
Mỹ áp lên Trung Quốc, các doanh nghiệp
nước này tăng cường hoạt động xuất khẩu
hàng hóa sang Việt Nam khiến Việt Nam
đang phải đối mặt với nguy cơ trở thành
nơi trung chuyển của hàng hóa Trung
Quốc xuất khẩu sang Mỹ để tránh thuế.
Cụ thể, hàng hóa của Trung Quốc sẽ tìm
cách để gian lận xuất xứ, mang nhãn mác
xuất từ Việt Nam thay vì Trung Quốc.
Hải quan Việt Nam đã phát hiện một số
công ty Trung Quốc, bao gồm các ngành
dệt may, hải sản, nông sản, gạch men,
thép, nhôm và gỗ… đã xuất khẩu hàng
sang Việt Nam, xin chứng nhận xuất xứ
tại Việt Nam một cách bất hợp pháp, sau
đó đổi nhãn mác trên bao bì sản phẩm
để xuất sang Mỹ, châu Âu và Nhật Bản.
Hành động này sẽ khiến hàng hóa của Việt
Nam phải hứng chịu các đòn trừng phạt
thuế cao đến từ phía Mỹ. Trước đó, Mỹ
đã áp thuế chống bán phá giá rất cao, lên
đến 199,76% và mức thuế đặc biệt lên tới
256,44% với mặt hàng thép của Việt Nam
sau khi kết luận rằng thép Việt Nam có
xuất xứ từ Trung Quốc (Bộ Công thương,
2019). Một trong những lo ngại lớn nhất
của ngành xuất nhập khẩu hiện nay đó là

Mỹ sẽ tiến hành kiểm tra, rà soát gắt gao
các sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam, gây
khó khăn cho hàng hóa xuất đi Mỹ của
Việt Nam.
Thứ năm, rủi ro từ chính sách tỷ giá của

Trung Quốc: Dưới sức ép gia tăng của
cuộc chiến thương mại với Mỹ, Trung
Quốc đã có động thái phá giá nội tệ, khiến
tỉ giá Nhân dân tệ (CNY) so với đô la Mỹ
(USD) đã rơi xuống mức thấp nhất kể từ
năm 2008, vượt qua mức nhạy cảm USD/
CNY là 7.0. Trung Quốc là thị trường
xuất siêu lớn nhất của Việt Nam, đồng
thời cũng là một trong hai thị trường nhập
khẩu lớn nhất của Việt Nam, cùng với Hàn
Quốc (Cafef.vn, 2019). Vì vậy, trước tình
trạng phá giá CNY của Trung Quốc, giá cả
hàng hóa Việt Nam sẽ trở nên kém cạnh
tranh hơn so với hàng hóa Trung Quốc.
Việc xuất khẩu sang thị trường này sẽ khó
cạnh tranh hơn với hàng nội địa, trong khi
đó, hàng hóa Trung Quốc lại có cơ hội dễ
dàng tiếp cận thị trường Việt hơn do lợi
thế giá rẻ mà việc phá giá mang lại. Điều
này sẽ gây áp lực không nhỏ tới xuất nhập
khẩu của nước ta.
Như vậy, có thể thấy dù Việt Nam được
nhận định là một trong những quốc gia
Đông Nam Á được hưởng lợi nhiều từ

cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung, nhưng
nếu tình hình căng thẳng này vẫn duy trì
trong tương lai thì nền kinh tế của cả thế
giới sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, và Việt
Nam không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng
đó. Cơ hội về mặt ngắn hạn tuy có thể thúc
đẩy ngành xuất nhập khẩu của Việt Nam
tiếp tục tăng trưởng, nhưng những rủi ro
và thách thức Việt Nam phải đối mặt cũng
không nhỏ. Vì vậy, trong ngắn hạn, Việt
Nam nên tận dụng tốt những cơ hội đang
có, đồng thời có những giải pháp và chính
sách thích hợp để đối phó kịp thời trước
những rủi ro tiềm tàng.
5. Một số đề xuất
Trước những căng thẳng, xung đột gia
tăng của hai nền kinh tế lớn nhất thế giới,

Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

39


Cơ hội và thách thức của xuất nhập khẩu của Việt Nam từ cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung
Quốc

Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam cần quan
tâm hơn đến các giải pháp nhằm hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực mà cuộc chiến
mang lại, đồng thời, tìm ra các biện pháp

để phát triển được thế mạnh cũng như tận
dụng tối đa các cơ hội để thúc đẩy tăng
trưởng xuất nhập khẩu, đẩy mạnh phát
triển kinh tế.
Khắc phục điểm yếu để nắm bắt cơ hội,
tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm
của doanh nghiệp: Hàng xuất khẩu Việt
Nam cần được nâng cấp về chất lượng
sản phẩm và cả quy mô xuất khẩu. Xây
dựng các chính sách ưu đãi, thúc đẩy
các doanh nghiệp đổi mới công nghệ lạc
hậu, áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt
động sản xuất, công nghệ chế biến trong
các ngành hàng xuất khẩu có tỉ trọng cao
như dệt may, da giày, gỗ và các sản phẩm
từ gỗ… để đảm bảo sản xuất ra các sản
phẩm có chất lượng đáp ứng được nhu
cầu của thị trường với mức chi phí thấp.
Không những thế, cần tập trung nghiên
cứu những thị trường mới nổi tiềm năng,
có khả năng phát triển các mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam để mở rộng môi
trường kinh doanh.
Để sản phẩm của Việt Nam được biết đến
rộng rãi hơn, Bộ Công thương cần hỗ trợ,
đào tạo công tác xây dựng thương hiệu
của doanh nghiệp và sản phẩm với môi
trường trong nước và quốc tế, đồng thời
đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm
kiểm tra chuyên ngành để góp phần hỗ trợ

các doanh nghiệp phát huy tiềm năng, tận
dụng các cơ hội xuất khẩu. Thông qua giải
pháp này, hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng về kim
ngạch xuất khẩu. Hình ảnh của Việt Nam
cũng từ đó mà được biết đến rộng rãi hơn
trên thị trường quốc tế, đề phòng trường
hợp thuế quan từ phía Mỹ ảnh hưởng đến

40

hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thì
nước ta có thể mở rộng xuất khẩu sang các
thị trường khác.
Các doanh nghiệp cũng như đưa ra các
mức giá hợp lý để tăng giá trị gia tăng
hàng xuất và cạnh tranh được trên thị
trường nước ngoài. Bên cạnh đó, cũng
xây dựng và đề ra chiến lược với từng
mặt hàng và các thị trường để phát triển
mặt hàng đó, nghiên cứu môi trường kinh
doanh quốc tế để thực hiện các chiến lược
marketing xuất khẩu hiệu quả để đưa sản
phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp đến với
người tiêu dùng nước ngoài, cũng như các
cách thâm nhập phù hợp đối với từng thị
trường khác nhau. Ngoài ra, doanh nghiệp
cần không ngừng trau dồi và áp dụng các
công nghệ tiên tiến vào trong lĩnh vực sản
xuất cũng như kinh doanh để nâng cao

chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực
cạnh tranh.
Tận dụng thế mạnh nhằm hạn chế thách
thức, nắm bắt các cơ hội từ các FTA đã
và đang kí kết: Việt Nam cần tận dụng tối
đa các cơ hội từ Hiệp định thương mại tự
do mà Việt Nam đã ký kết để giảm thiểu
những ảnh hưởng tiêu cực, những rào cản
kỹ thuật ngăn cản việc thâm nhập các thị
trường nước ngoài. Các FTA này đã và
đang mở rộng cánh cửa thị trường cho
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, là cơ
hội để Việt Nam kết nối và tham gia sâu
hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản
xuất toàn cầu. Đồng thời, thông qua các
FTA, xuất khẩu Việt Nam có cơ hội gia
tăng nhanh hơn thông qua việc xóa bỏ
nhiều dòng thuế, mở cửa mạnh các lĩnh
vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm
chính phủ, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh. Qua
đó, giảm thiểu được các tác động tiêu cực
mà chiến tranh thương mại Mỹ- Trung
đem lại.

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020


NGÔ DƯƠNG MINH - HÀN PHƯƠNG THẢO

Khắc phục điểm yếu nhằm ứng phó thách

thức, có những biện pháp chính sách kịp
thời nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước:
Các cơ quan quản lý chuẩn bị cẩn thận các
thông tin liên quan đến phòng vệ thương
mại với hàng hóa Việt Nam từ phía Mỹ,
phổ biến các quy định của WTO về nguồn
gốc xuất xứ hàng hóa, cập nhật và bổ sung
thêm các kiến thức về luật pháp thương
mại quốc tế tới các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu để không bị thiệt về quyền lợi nếu
tranh chấp thương mại xảy ra.
Bộ Công Thương, Bộ Tài Chính và các
Hiệp hội ngành nghề, Phòng Quản lý
Xuất nhập khẩu của các khu vực nên cùng
chung tay xây dựng hàng rào kĩ thuật,
tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam, rà soát kĩ lưỡng
các sản phẩm có xuất xứ từ Trung Quốc
nhập vào Việt Nam để đề phòng Trung
Quốc chuyển hàng hóa sang Việt Nam,
lấy nhãn mác là hàng Việt Nam rồi chuyển
qua Mỹ để tránh thuế.
Ngoài ra, Nhà nước cũng cần tăng cường
Tài liệu tham khảo

đầu tư vào hoạt động nghiên cứu để đưa
ra các cảnh báo sớm về thị trường Trung
Quốc và Mỹ nhằm nắm bắt các động thái
có thể xảy ra như áp thuế quan trừng phạt
lên các mặt hàng của Việt Nam do có xuất

xứ từ Trung Quốc, hay các hàng rào kỹ
thuật Mỹ có thể sẽ thiết lập với hàng hóa
của Việt Nam. Điều này có thể giúp hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực mà chính
sách bảo hộ của những nước này gây đến
cho các ngành sản xuất trong nước.
6. Kết luận
Trong bối cảnh cuộc chiến thương mại
Mỹ- Trung, Việt Nam là một trong những
nước nằm trong phạm vi ảnh hưởng cả
về mặt tích cực và tiêu cực do nền kinh tế
Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu
rộng hơn vào nền kinh tế của thế giới.
Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có
thể thay thế Trung Quốc cung ứng hàng
hóa vào thị trường Mỹ, qua đó thúc đẩy
tăng trưởng của lĩnh vực xuất khẩu. Tuy
nhiên, những cơ hội mà Việt Nam hiện có
mới chỉ là những cơ hội mang tính ngắn
xem tiếp trang 54

1. Bộ Công thương (2019), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2018.
2. Cục Thông tin và Công nghệ quốc gia (2010), Kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ trung và dài hạn của
Trung Quốc 2006- 2020.
3. Ho, T., Nguyen, T.T.N, và Tran, T.N. (2018), How will Vietnam Cope with the Impact of the US-China Trade War,
ISEAS – Yusof Ishak institute, Issue 2018 No. 74.
4. IMF (2018), World economic outlook 2018.
5. Lê Huy Khôi (2018), Những tác động từ Chiến tranh thương mại Mỹ- Trung, Tạp chí Tài chính.
6. Nguyễn Lê Đình Quý (2018), Tác động của Chiến tranh thương mại Mỹ Trung đến kinh tế toàn cầu và Việt Nam,
Trung tâm WTO và hội nhập.

7. Tổng cục Hải quan (2019), Xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hoa Kỳ: Diễn biến giai đoạn 2010-2018 và cập nhật
tháng 1/2019.
8. Trung tâm WTO và hội nhập (2019), Tóm tắt diễn biến căng thẳng thương mại Mỹ - Trung.
9. Website:
10.
11. />12. />13. />14. />
Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng

41


Tác động của cấu trúc sở hữu đến thị giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên sở giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
1iNGI8vteYWscFiXRdEsVHED50IKYvxxcSnEVmW6hmcS7rHPSUi_-IEg>.
16. Anon., 2018, Các yếu tố tác động đến giá cổ phiết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Báo Mới.com,com/cac-yeu-to-tac-dong-den-gia-co-phieu-tren-thi-truong-chung-khoanvietnam/c/26186272.epi?fbclid=IwAR21iNGI8vteY
WscFiXRdEsVHED50IKYvxxcSnEVmW6hmcS7rHPSUi_-IEg>.
17. Anon., 2018, So sánh Cổ phiếu thường và Cổ phiếu ưu đãi, Go Value, < />18. Anon., 2007, Tham khảo các phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu, Tuổi trẻ online, < />19. Đào Thanh Bình & Lai Thị Hiền, 2018, ‘Tác động của quản trị doanh nghiệp lên hiệu suất doanh nghiệp và tính thanh
khoản của cổ phiếu’, Tạp chí Tài chính, < />PwbhDpEBys6bW6fl09KwPjCCX7Cc>.
20. Đặng Tùng Lâm, 2016, ‘Ảnh hưởng của cổ đông lớn đến sự đồng biến động giá cổ phiếu trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh’, Tạp chí Phát triển Kinh tế, Số: 27(5), Trang: 63-77.< />khai-niem-ve-cau-truc-so-huu-trong-doanh-nghiep.html?fbclid=IwAR1j630VakCs612eIretCC_d5QTlu3bMVQh0ZOh6B4Pz1aUHhLY9frCitY>.
21. Đặng Tùng Lâm, 2016, ‘Ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu trong các công ty niêm yết đến sự đồng biến động giá cổ phiếu
của công ty nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam’, Trường Đại học Đà Nẵng.
22. Lê Tấn Phước, 2017, Tác động cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp niêm yết, Tạp chí Tài
chính,< />23. Luân, 2018, Các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp, Luận văn A-Z,< />24. Mạnh Bôn, 2018, Giảm tỷ lệ sở hữu vốn nhà nước xuống mức sàn, Đầu tư online, < />25. Nguyễn H. & Trần T., 2011, Tỉnh táo trong quản trị công ty: Cấu trúc sở hữu và khả năng thao túng, Cafef,vn/quan-tri/tinh-tao-trong-quan-tri-cong-ty-cau-truc-so-huu-va-kha-nang-thao-tung-2011092909302491.chn>
26. Nguyễn Thị Minh Huệ, et al, 2016, ‘Ảnh hưởng của sở hữu nhà nước đến sự đồng biến động giá cổ phiếu của công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam’, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số: 234, Trang: 58-65.
27. Nguyễn Trung Trực, 2017, Các yếu tố tài chính vi mô tác động đến giá cổ phiếu của Vinamilk, Tạp chí Tài chính, tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/cac-yeu-to-tai-chinh-vi-mo-tac-dong-den-gia-co-phieu-cuavinamilk-128835.html>

28. Phạm Hữu Hồng Thái, 2013, Cấu trúc sở hữu và giá trị của các công ty niêm yết tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính,
< />29. Phạm Quốc Việt & Quang Huy, 2017, ‘Mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài và biến động lợi nhuận cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán’, Tạp chí Tài Chính.
30. Phạm Thị Thu Trang, 2017, ‘Tác động của cấu trúc sở hữu đến hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết trên thị
trường Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh’, Luận văn thạc sĩ Tài chính Ngân hàng, Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng.
31. Thân T. và Võ D., 2015, Sự tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến các chỉ số giá cổ phiếu tại HOSE, Phát triển &
Hội nhập, Số 24(34), trang 59-67.
32. Võ D., 2013, ‘Cấu trúc sở hữu, quản trị công ty và già trị doanh nghiệp bằng chứng các công ty niêm yết ở Việt Nam’,
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh.

tiếp theo trang 41

hạn. Còn về dài hạn, Việt Nam đứng trước
rất nhiều khó khăn và thử thách do chiến
tranh thương mại gây ra, như tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm, hàng hóa nội địa gặp
sức ép từ hàng hóa của Trung Quốc hay
các khoản thuế trừng phạt và các hàng rào
kỹ thuật mà Mỹ sẵn sàng dựng lên với
hàng hóa của Việt Nam nhằm chống gian
lận thương mại.

54

Để tận dụng được những cơ hội cũng như
giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực, Chính phủ
và các doanh nghiệp Việt Nam cần bám sát
tình hình quan hệ thương mại giữa hai nước
Mỹ và Trung Quốc để có các chính sách,
chiến lược đối phó kịp thơi và phù hợp. Tận

dụng tối đa các cơ hội mà FTA mang lại, từ
đó tối thiểu hóa các rủi ro ảnh hưởng đến
nền kinh tế và nâng cao khả năng kiểm soát
tình hình xuất nhập khẩu. ■

Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 212+213- Tháng 1 & 2. 2020



×