Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NA

BẢO ĐẢM TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NA

BẢO ĐẢM TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số:

838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


GS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN

Hà Nội – năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Thị Na


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO
ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ ..................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự .................... 7
1.2. Quy định pháp luật về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự ...................... 19
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN
TÒA HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..... 27
2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo
đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng . 27
2.2. Nguyên nhân những hạn chế về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng .................................................................. 47
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ ............................................................. 55
3.1. Yêu cầu tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự trong giai
đoạn hiện nay ....................................................................................................... 55

3.2. Các giải pháp bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự ............................... 57
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thực tiễn xét xử, quy định tranh tụng tại phiên tòa hình sự là một
trong những nội dung quan trong trong hoạt động tố tụng hình sự của nươc ta.
Thực hiện tốt vấn đề về bảo đảm tranh tụng nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo dân chủ, sự công bằng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, đảm

bảo tốt tranh tụng còn là cơ sở để HĐXX đưa ra quyết định, bản án đúng người,
đúng tội, khách quan và đúng pháp luật.
Xuất phát từ lý luận cũng như thực tiễn trong quá trình xét xử, đánh giá
tầm quan trọng hoạt động bảo đảm tranh tụng tại phiên toa hình sự đã được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm, cụ thể các Nghị quyết về cải cách tư pháp kể đến
như: Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết 49/NQ-TW ngày
02/6/2005. Theo đó, Nghị quyết 49/NQ-TW nêu “Nâng cao chất lượng hoạt
động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp...” [7]; Nghị quyết 08/NQTW nêu một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, như
“Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm
sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những
người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp
luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định” [6].. Vấn đề tranh tụng
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong thời gian gần đây. Hiến pháp năm
2013, tại khoản 5 Điều 103 quy định“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm” [23]; nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung, ghi nhận [22]. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử
được ghi nhận trong Bộ luật tô tụng hình sự là nguyên tắc, điều đó thể hiện áp
dụng tinh thần, bước tiến tiến bộ, trong quá trình xây dựng pháp luật của Nhà
nước ta, phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp trong các nghị quyết đã đề ra.
1


Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự trong thời gian qua cho thấy hoạt động
tranh tụng tại các phiên toà hình sự trên phạm vi cả nước nói chung và địa bàn
thành phố Đà Nẵng nói riêng, đã có tiến bộ nhưng đánh giá chung vẫn còn nhiều
tồn tại, thiếu sót tạo, chưa đảm bảo đúng yêu cầu của cải cách tư pháp về bảo
đảm tranh tụng tại phiên tòa. Nhiều trường hợp Tòa án chưa giải quyết thỏa đáng
yêu cầu triệu tập người làm chứng, hoãn phiên Tòa. Có phiên tòa việc tranh luận

chỉ mang tính hình thức. Quyết định của bản án ở nhiêu tòa án còn thiếu sót chưa
căn cứ và diễn biến và kết quả tranh tụng tại phiên tòa mặc dù đã có tranh luận.
Vì vậy, nâng cao chất lượng đảm bảo tranh tụng là một đòi hỏi mà Đảng, nhà
nước và xã hội đặt ra cho các cơ quan tư pháp. Đối với Tòa án bảo đảm tranh
tụng tại phiên toà là vấn đề rất quan trọng, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp,
khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã đưa lên hàng đầu vai trò và nhiệm vụ
Toàn án là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân sau đó mới
quy định tiếp bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức cá nhân” [23]. Đây là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp
uy tín, vai trò của ngành Tòa án nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm
thực hiện vai trò, nhiệm vụ của mình.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm tranh tụng
tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng” làm
luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Với những chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra trên cơ sở Nghị
quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp, Quốc hội đã có kế hoạch và ban hành
nhiều văn bản, quy định pháp luật ở văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến
phóa, Bộ luật, Luật… liên quan đến vấn đề bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
hình sự, đây là những quy định tiến bộ đảm bảo tranh tụng được thực hiện tốt
trong quá trình xét xử hiện nay. Trong lĩnh vực khoa học pháp lý có nhiều tác
giả nghiên cứu về vấn đề đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở nhiều gốc
độ khác nhau: “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và
2


thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thái Phúc năm 2007; “Nguyên tắc tranh tụng
trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS” của GS.TSKH. Lê Cảm,
Đặc san Luật học số 6/2004; “Về nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa
hình sự” của ThS. Ngô Hồng Phúc, Tạp chí Tòa án nhân dân năm 2003;

“Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả
Phạm Hồng Hải năm 2009; “Vấn đề tranh tụng hình sự” của ThS. Nguyễn Đức
Mai, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ năm 1995; Chuyên đề “Tiến tới xây dựng
TTHS ở Việt Nam theo kiểu tranh tụng hình sự” của PGS.TS. Phạm Hồng Hải,
Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 2003; Luận án tiến sĩ “Mô hình tố tụng
hình sự Việt Nam và những vấn đề áp dụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn Thị
Thủy năm 2014; “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm”, Dương Thanh Biểu, Nxb
Tư pháp, Hà Nội; “Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên qua các
phiên tòa rút kinh nghiệm ở Phú Thọ”, Đoàn Minh Hương, Tạp chí kiểm sát
năm 2014; “Kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa hình sự” Nguyễn Đức Hạnh, Tạp chí kiểm sát, 2013; “Thực trạng và
giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong phiên tòa hình sự”, Nguyễn Kim
Chi, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 191, năm 2011; “Bảo đảm quyền của bị
can, bị cáo trong phiên tòa mở rộng tranh tụng”, Thanh Nghị, Cần nâng cao
năng lực và kỹ năng luận tội, tranh luận của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm;
Nguyễn Văn Thuận (2014), Hiến pháp 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người và định hướng sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự, Kỷ
yếu hội thảo “Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới TTHS ở Việt Nam”, PGS.TS
Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí dân chủ và Pháp luật, số 08/2003; Phan Văn Sơn,
“Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành nhằm nâng cao chất lượng
tranh tụng của KSV tại các phiên tòa hình sự”, Tạp chí kiểm sát, số 12
(06/2014); Lê Hữu Thể (2005), “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao …
Những công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được một số vấn đề về
3


tranh tụng như: Nguyên tắc tranh tụng, mô hình tranh tụng, tranh tụng tại phiên
tòa…Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về bảo đảm

tranh tụng tại phiên tòa ở một địa phương như Thành phố Đà Nẵng. Những
công trình nghiên cứu trên có giá trị để học viên tham khảo nghiên cứu để hoàn
thành luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự góp phần
làm sáng tỏ lý luận, thực tiễn về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Bên
cạnh đó, đưa ra những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về
bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về tranh tụng, bảo đảm
tranh tụng, mô hình tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
- Nghiên cứu bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Thành
phố Đà Nẵng.
- Yêu cầu và các giải pháp tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
hình sự theo tinh thần cải các tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của Luận văn là những vấn đề lý luận, các quy định của pháp
luật TTHS hiện hành liên quan đến tranh tụng và thực tiễn bảo đảm tranh tụng
tại phiên tòa ở Thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu về vấn đề bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa theo Pháp
luật TTHS Việt Nam.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn bảo đảm tranh tụng tại phiên
tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng.
- Số liệu thể hiện thực trạng công tác xét xử tại Tòa án nhân dân Thành
4



phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác –
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật để giải quyết vấn đề.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, diễn giải, bình luận, so
sánh đối chiếu, khảo sát thực tế. Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp
này được vận dụng đan xen để tạo ra kết quả nghiên cứu của đề tài, cho phép rút
ra những kết luận khoa học, kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về
bảo đảm tranh tụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống về bảo đảm tranh tụng tại phiên
tòa hình sự. Việc nghiên cứu để tài có ý nghĩa tham khảo cho cán bộ, những
những người quan tâm đến lĩnh vực này.
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn sẽ góp phần nghiên cứu sâu thêm những quy định pháp luật, cơ
sở khoa học, pháp lý về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, là cơ sở để sửa đổi bổ
sung những quy định còn bất cập, hạn chế.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần mở rộng dân chủ trong TTHS, đảm bảo quyền con người của
bị can, bị cáo, phù hợp với xu thế dân chủ hóa của thời đại.
- Ngoài ra, đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên
cứu vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu luận văn như sau, nội dung đề tài được bố cục thành 3 Chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm tranh tụng tại
phiên tòa hình sự.
Chương 2.Thực tiễn bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Toà án
5



nhân dân thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Các giải phảp tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
hình sự.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự
1.1.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Đến nay, vẫn chưa có văn bản nào nêu rõ khái niệm hay định nghĩa thế
nào là “tranh tụng”. Thuật ngữ “tranh tụng” chỉ mới được đề cập trong các văn
bản của Đảng như Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp đề cập "nâng cao chất lượng
tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với
luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác", trong các tài
liệu hội thảo nên hiện còn nhiều cách hiểu, nhận thức về “tranh tụng”, ngay cả
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quy định tại
khoản 5 Điều 103: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” và Bộ
luật tố tụng hình sự 2015 cũng chỉ có quy định về tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm được xem là nguyên tắc nhưng chưa có quy định hay giải thích thế nào
là “tranh tụng” [16, tr.32-38].
Theo Đại từ tiếng Việt năm 1998 thì tranh tụng có nghĩa là “Kiện tụng”
dùng để “kiện cáo nhau”.
Trong khoa học Pháp lý khái niệm tranh tụng hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: Tranh tụng là những hoạt động tố tụng được bắt đầu từ

khi các đương sự thực hiện quyền khởi kiện và kết thúc khi có bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quá trình tranh tụng bao gồm toàn bộ các giai
đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả
giai đoạn giám đốc thẩm, tại thẩm.
Theo nghĩa hẹp: Tranh tụng là sự đối đáp, đấu tranh giữa các bên trong
vụ án với nhau về chứng cứ, yêu cầu, phản đối yêu cầu của mỗi bên để từ đó
nhằm chứng minh cho đối phương và Tòa án rằng yêu cầu và phản đối của mình
có căn cứ và hợp pháp.
7


Theo từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, nhà xuất bản tư pháp
năm 2005 thì: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên
tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) có quyền bình đẳng với nhau trong
việc đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại
quan điểm và lợi ích của phía đối lập” [42].
Vậy tranh tụng trong tố tụng hình sự được bắt đầu từ giai đoạn nào của
hoạt động tố tụng? Trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản là buộc tội,
bào chữa và xét xử. Ba chức năng này đan quyện qua lại với nhau và trong sự
thống nhất của mình, chúng bảo đảm cho việc giải quyết vụ án. Khi một nguời bị
bắt, bị áp dựng biện pháp tạm giữ hoặc khi một người bị khởi tố với tư cách là bị
can thì trong TTHS đồng thời xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng bào
chữa. Chính từ thời điểm này mới xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc tội và
bên bào chữa [9, tr.34-37]. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã khẳng định quá
trình tranh tụng được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng, bắt đầu từ giai đoạn
khởi tố và xuyên suốt đến giai đoạn xét xử. Đây là quan điểm hợp lý, đã khái
quát đầy đủ quá trình tranh tụng.
So với chức năng xét xử, thì chức năng buộc tội và chức năng bào chữa
xuất hiện sớm hơn, song song tồn tại và đối trọng với nhau trong suốt quá trình
tố tụng. Chức năng buộc tội và chức năng bào chữa luôn đối lập nhau và các chủ

thể tham gia thực hiện hai chức năng này tạo thành hai bên đối tụng: Bên buộc
tội và bên bào chữa. Còn chức năng xét xử do chủ thể duy nhất là Toà án thực
hiện. Bên có thế mạnh là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được nhân
danh quyền lực nhà nước và được sử dụng quyền lực nhà nước để tiến hành các
hoạt động tố tụng đối với “bên yếu thế” là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
“bên yếu thế” buộc phải chấp hành các biện pháp tố tụng mà những người tiến
hành tố tụng áp dụng [47, tr.214].
Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến
hành khi có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự điều
khiển của Tòa án… Chính vì vậy bản chất tranh tụng được thể hiện đầy đủ nhất
8


từ khi bắt đầu từ giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử tại phiên tòa. Tại phiên tòa
xét xử, với sự có mặt đầy đủ các chủ thể đó là bị cáo và người bào chữa; kiểm
sát viên – đại diện cho VKS và người bị hại , quá trình tranh tụng được tiến hành
thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Hội
đồng xét xử với ba chức năng tương ứng xem xét việc buộc tội, bào chữa và xét
xử Hội đồng xét xử chỉ có thể ra Bản án, quyết định sau khi đã căn cứ vào kết
quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Tranh tụng - xét dưới góc độ là một “nguyên tắc cơ bản” của tố tụng hình
sự: Theo quan niệm chung, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ
đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động
nhất định “ là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế
định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố tụng hình sự”; hoặc đó là
“những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và
được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận.
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm”, đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi
nhận là một nguyên tắc. Vấn đề là cụ thể hoá nguyên tắc tranh tụng trong

BLTTHS như thế nào? Nguyên tắc này có những nội dung gì? Phạm vi điều
chỉnh của nguyên tắc này?...là những vấn đề đang được nghiên cứu, xây dựng
BLTTHS sửa đổi, bổ sung.
Như vậy, Tranh tụng được hiểu là các hoạt động được thực hiện bởi các
bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với
nhau trong việc thu nhập và đưa ra chứng cứ, trình bày ý kiến để bảo vệ các quan
điểm và lợi ích của mình và phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối
lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên
toà xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi
bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định
của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài [24].

9


1.1.2. Khái niệm bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được đảm bảo” và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định tại Điều
26 Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Để hiểu thế nào là bảo đảm tranh tụng
tại phiên tòa, trước hết cần tìm hiểu thế nào là bảo đảm. Bảo đảm có thể được
hiểu là: “Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ
những gì cần thiết” [42]. Đặt trong ngữ cảnh để hiểu rõ nội hàm khái niệm bảo
đảm, Từ điển luật học diễn giải: Nhà nước các trách nhiệm “bảo đảm cho các
quyền công dân đã được ghi trong các đạo luật phải được thực thi, phải tạo điều
kiện cho công dân hưởng các quyền đó” [42].
Trong tố tụng hình sự, việc xác định sự thật khách quan của vụ án được
trải qua các giai đoạn khác nhau, ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
và nghĩa vụ của mình theo luật định; mỗi giai đoạn tố tụng đều có vai trò, ý
nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.

Theo đó, để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng có hiệu quả, các
bên cần phải có thời gian và điều kiện cần thiết để thu thập các chứng cứ, tài liệu
và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa. Trong
các vụ án hình sự, các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trên cơ sở chức năng
nhiệm vụ được giao thực hiện chức năng chứng minh tội phạm, vì vậy họ thường
chỉ thu thập những chứng cứ, bằng chứng mang tính chất buộc tội, việc thu thập
chứng cứ gỡ tội thường ít chú trọng, trong khi đó bị cáo và người bào chữa thì
hạn chế trong việc thu thập các chứng cứ gỡ tội. Thế cho nên, pháp luật tố tụng
hình sự cần có những quy định bảo đảm các bên tham gia tố tụng có thể chủ
động sử dụng các phương tiện được pháp luật cho phép để thu thập và xuất trình
chứng cứ nhằm lập luận cho quan điểm của mình. Theo quy định của pháp luật,
các bên tham gia vào hoạt động tố tụng có nghĩa vụ pháp lý như nhau, trong quá
trình thu thập, đánh giá kiểm tra chứng cứ và được đánh giá trong trường hợp cụ

10


thể. Việc quyết định bản án, xác định sự thật của vụ án phải được căn cứ trên cơ
các kết quả, tranh tụng công khai tại phiên tòa giữa các bên.
Bảo đảm tranh tụng nhằm bảo vệ quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể
tham gia trong quá trình tố tụng được thực hiện đầy đủ các biện pháp, các
phương tiện được pháp luật cho phép để thu thập và xuất trình chứng cứ chứng
minh cho quan điểm của mình; tranh tụng mở ra cơ hội và tạo điều kiện ngang
nhau cho các bên trình bày quan điểm, lý lẽ, cung cấp chứng cứ và phần tranh
luận của mình tại phiên tòa. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự phải thực hiện nhiệm
vụ, xác định sự thật vụ án, đảm bảo công bằng, để công lý được thực [20].
Từ những phân tích có thể đưa ra khái niệm bảo đảm tranh tụng tại phiên
tòa hình sự là đảm bảo các điều kiện cần và đủ về chủ thể, các quy định pháp
luật, cơ chế thực hiện nhằm đảm bảo để các chủ tham gia tố tụng được đưa ra
quan điểm, chứng cứ, luận điểm để tranh luận nhằm sáng tỏ sự thật của vụ án,

làm cho kết quả tranh tụng đạt hiệu quả cao; là căn cứ để tòa án đưa ra phán
quyết có tính thuyết phục, đảm bảo pháp chế, đảm bảo công lý được thực hiện
đún với các quy định của pháp luật.
1.1.3. Đặc điểm đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Tranh tụng là quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, đây là nhiệm
vụ mà hoạt động tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng hướng tới. Trong quá trình
thực hiện tốt các phương thức tranh tụng với nhiệm vụ xác định sự thật khách
quan vụ án và cũng là công cụ hữu hiệu bảo đảm quyền con người, quyền công
dân, tranh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Có thể hiểu: “Tranh tụng là
việc các bên trong tham gia tố tụng được đưa ra các quan điểm, ý kiến, yêu cầu
của mình của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm
của phía bên kia”. Với ý nghĩa là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự,
nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ thể
trong việc thực hiện quá trình tranh luận bình đẳng dựa trên chứng cứ.
Quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể
của bên buộc tội, bên bào chữa và Hội đồng xét xử với ba chức năng tương ứng,
11


xem xét việc buộc tội, bào chữa và Hội đồng xét xử chỉ có thể ra Bản án, quyết
định sau khi đã căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh
tụng tại phiên tòa. Từ đó, có thể khẳng định rằng tranh tụng tại phiên tòa là giai
đoạn mà ở đó có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bào chữa và dưới sự điều
khiển của chủ tọa phiên tòa thể hiện đầy đủ nhất bản chất tranh tụng. Do vậy, đặc
điểm bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự thể hiện ở những nội dung sau
đây:
Thứ nhất, có thể thấy rằng Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của hoạt động
tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng bắt buộc phải tuân theo các qui định
của Bộ luật TTHS. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các thành viên Hội đồng xét
xử, có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các qui định của pháp luật

theo qui định của BLTTHS để các bên thực hiện tranh tụng.
Thứ hai, chủ thể của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên (chủ thể buộc tội)
và người tham gia tố tụng khác như Luật sư, bị cáo, người bị hại, người đại diện
hợp pháp của bị cáo, người bị hại… (cũng có thể là chủ thể buộc tội hoặc gỡ tội).
Các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng được phân định rõ ràng, tuy xuất phát
từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự thì họ bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan
điểm về giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, Tòa án là cơ quan xét xử điều khiển
phiên tòa, Kiểm sát viên có trách nhiệm tranh tụng với người bào chữa, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Người bào chữa, bị cáo, bị hại, được bình đẳng với Kiểm sát viên trong việc đưa
ra chứng cứ và tranh luận đối đáp tại phiên tòa. Pháp luật quy định rất rõ Kiểm
sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa
ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Thứ ba, hoạt động tranh tụng tại phiên toà thực hiện dưới sự điều khiển
của chủ toạ phiên tòa. Để làm tốt vấn đề này, phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng
điều hành phần tranh tụng của Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử. Chủ tọa
12


phiên tòa có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh tụng để trả lời những ý kiến
của phía bên kia đặt ra. Chủ tọa phiên tòa cũng có quyền cắt bỏ ý kiến của các
bên tranh tụng nếu ý kiến đó trùng lặp hoặc không liên quan đến vụ án. Chủ tọa
phiên tòa phải tạo điều kiện để các bên tranh tụng bình đằng, dân chủ và không
được hạn chế thời gian tranh tụng.
Thứ tư, để hoạt động tố tụng đạt hiệu quả, HĐXX có trách nhiệm bảo đảm
điều kiện cần thiết cho tranh tụng. Đó là bảo đảm sự có mặt của những người
tham gia tố tụng, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, bảo đảm
các tài liệu chứng cứ mới đều được xem xét tại phiên tòa.

Phiên tòa hình sự được đánh giá chất lượng tranh tụng cần có các tiêu chí
đánh giá sau đây:
+ Các bên tham gia tố tụng phải thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn của
mình, thực hiện nghiêm các quy định pháp luật, đảm bảo được thực hiện trên
thực tế một cách, công bằng, dân chủ. Các bên tham gia tranh tụng phải đảm bảo
thực hiện có trách nhiệm nhiệm vụ của mình, lập luận có căn cứ pháp luật, cần
tôn trọng ý kiến của nhau, có văn hóa và ứng xử đúng mực trong tranh luận.
+ Các bên tham gia tố tụng có quyền đưa ra quan điểm, cung cấp các chứng
cứ, buộc tội cũng như gỡ tội, việc đưa ra chứng cứ bảo đảm có căn cứ pháp luật,
được hội đồng xét xử chấp nhận những quan điểm của mình, nếu việc đưa ra
luận điểm, chứng cứ không được chấp nhận thì chất lượng tranh tụng chưa tốt.
+ Kết quả đánh giá chất lượng giải quyết các vụ án hình sự thể hiện xét xử
đúng người, đúng tội, không để xảy ra trường hợp oan sai. Hạn chế tình trạng xét
xử oan sai, làm cho các bản án bị cấp trên hủy, sửa.
+ Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư thực hiện
tốt chức năng của mình, chủ động, tích cực, có kế hoạch trong việc nghiên cứu
hồ sơ vụ án, đảm bảo tốt cho phiên tòa. Việc chuẩn bị tốt, có kế hoạch, đảm bảo
vụ án xét xử một cách toàn diện, các bên đưa ra quan điểm, bác bỏ quan điểm có
căn cứ, làm cơ sở Thẩm phán ra quyết định bản án, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, thông qua đó góp phần bảo đảm chất lượng tranh tụng của được tốt.
13


1.1.4. Cơ chế bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Với việc ghi nhận và bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
đảm bảo tại Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Đây là tư
tưởng, quan điểm có tính chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và đã được cụ
thể trong các thủ tục tố tụng nói chung, thủ tục xét xử nói riêng, bởi xét xử được
coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng với các thủ tục xét xử
công khai, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các

quyền và nghĩa vụ của mình bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự,
góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm thực hiện trên thực tế thì cần bảo đảm sau:
Một là, đảm bảo về mặt pháp lý.
Thứ nhất, việc ghi nhận các nguyên tắc và quy định về nguyên tắc tranh
tụng trong xét được bảo đảm ở những văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến
pháp và Bộ luật là bước tiến bộ của lập pháp nước ta. Vì vậy, pháp luật cần có cụ
thể hóa, bằng các quy định đầy đủ, rõ ràng, về địa vị tố tụng của các chủ thể
tham gia tố tụng tại phiên tòa để họ có thể thực hiện được đầy đủ các nội dung
tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của mình, đảm bảo cho các chủ
thể được chủ động thu thập vật chứng, chứng cứ, được yêu cầu cung cấp các tài
liệu phục vụ cho qua trình xác định sự thật vụ án.
Thứ hai, pháp luật quy định rõ mối quan hệ, sự bình đẳng trước Tòa án
của giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong
việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách
quan của vụ án. Đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động
tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên
cơ sở các quy định về bảo đảm sự bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh
giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng tại phiên tòa mới thực chất. Do vậy, cần
mở rộng phạm vi các vụ án hình sự có sự tham gia bắt buộc của luật sư nhằm tạo
điều kiện cho tranh tụng được bảo đảm.

14


Hai là, bảo đảm về mặt tổ chức.
Cần có sự quy định rõ rằng về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến
hành tố tụng đảm bảo đúng chức năng của tố tụng hình sự; quy định nhiệm vụ,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong quá trình hoạt động tố tụng tạo
điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực đảm bảo thực hiện tranh tụng

tại phiên tòa phù hợp với cơ chế tranh tụng. Cần có sự quan tâm cũng như hỗ trợ
của Nhà nước đối với các tổ chức hành nghề luật sư, các trung tâm tư vấn pháp
lý miễn phí, để cho người dân, những đối tượng thuộc diện khó khăn có điều
kiện được hưởng tư vấn pháp luật; mở rộng phạm vi bào chữa bắt buộc, thời
điểm tham gia bào chữa của luật sư trong vụ án để đảm bảo các vụ án hình sự có
người bào chữa được tham gia ngày càng nhiều.
Ba là, bảo đảm cơ sở vật chất cho quá trình tranh tụng.
Hiện nay, việc áp dụng ghi âm, ghi hình có âm thanh trong điều tra vụ án
hình sự được quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BQP hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử do Bộ trưởng Bộ Công
an - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành (có hiệu lực ngày 18/03/2018), đây là
một trong những quy định tiến bộ bảo đảm sự khách quan trong quá trình giải
quyết vụ án, hạn chế tình trạng, bức cung, mớm cung, dùng nhục hình của các cơ
quan tố tụng. Vì vậy, cần có sự đảm bảo trang bị đầy đủ, hệ thống cơ sở vật chất
của các phòng hỏi cung, lấy lời khai trong quá trình điều tra, truy tố. Đối với hội
trường xét xử cần có sự sắp xếp, cấu trúc đảm bảo phù hợp mô hình tranh tụng,
vị trí của các bên tham gia phiên tòa bảo đảm thể hiện sự bình đẳng, công bằng,
khách quan của bên buộc tội và bên bào chữa, gỡ tội. Hệ thống âm thanh, thiết bị
ghi âm, ghi hình rõ ràng, chất lượng để đảm bảo tính nghiêm minh của phiên tòa.

15


Bốn là, nâng cao trình độ, năng lực của các chủ thể thực hiện nguyên
tắc tranh tụng tại phiên tòa.
Đối với những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cần nâng
cao trình độ, năng lực công tác, cũng như những hiểu biết của những người tham
gia tố tụng, để họ thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.

Đối với các Thẩm phán, cán bộ công tác tại Tòa án, cần đảm bảo về số
lượng và chất lượng, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đạo
đức nghề nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình được giao.
Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, đáp ứng các yêu
cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, các Thẩm phán, Hội thẩm cần xác
định trách nhiệm, có nhận thức, đảm bảo thống nhất, xác định tầm quan trọng
tinh thần cải cách tư pháp về bảo đảm tranh tụng. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ của mình, Thẩm phán là người cầm cần nảy mực, nên đòi hỏi phải vô
tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, điều khiển phiên tòa đúng thủ
tục, trình tự đảm bảo công bằng, khách quan. Việc ra quyết định, bản án cần xem
xét một cách toàn diện trên cơ sở kết quả tranh luận tại phiên tòa.
Viện kiểm sát các cấp quan tâm, có kế hoạch về đào tạo cán bộ, bồi dưỡng
nghiệp vụ đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác tranh tụng tại phiên tòa. Thường
xuyên học tập, tranh bị kỹ năng cần thiết, các kỹ năng nghiệp vụ nhằm đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp. Đối với kiểm sát viên tham gia phiên tòa cần có sự
chuẩn bị kế hoạch chu đáo, dự lường những trường hợp phát sinh tại phiên tòa,
nhất là trong những vụ án có nhiều bị cáo, nhiều luật sư tham gia, đảm bảo tranh
tụng đúng mực, có căn cứ, tranh luận cần đi vào những nội dung trọng tâm của
vụ án.
Đối với tổ chức Luật sư tham gia tranh tụng cần tổ chức đào tạo bài bản,
đảm chất lượng hoạt động của đội ngũ Luật sư nhằm đáp ứng sự phát triển của xã
hội cần phát triển đội ngũ Luật sư cả về số lượng và chất lượng, giỏi về chuyên
môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp.

16


1.1.5. Ý nghĩa bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự mang nhiều ý nghĩa:
Thứ nhất, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa có ý nghĩa chính trị

sâu sắc, thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.Từ
trước tới nay vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được quan
tâm và đề cập tới nhiều. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về vấn đề
này, cụ thể: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Tiếp đó, Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 [7]. Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 yêu cầu:
“…Đặc biệt các chủ trương trên đã được thể chế hóa tại Khoản 5 Điều 103 của
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Bộ luật
TTHS năm 2015 khẳng định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm” Điều 26.
Thứ hai, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả
về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử.
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng được quy định cụ thể trong các văn bản
luật, tạo chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, nhận thức của các cán bộ, những người
tham gia tố tụng khi tham gia vào hoạt động tranh tụng. Với những quy định của
pháp luật được ghi nhận, trong hoạt động xét xử của Tòa án sẽ thay đổi cách
thwucs thực hiện, đổi mới đảm bảo tranh tụng để có một phiên tòa công bằng,
dân chủ.
Thứ ba, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa là bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, một bên cơ quan tiến hành tố tụng với
đầy đủ trang thiết bị, chức năng nhiệm vụ, một bên là người bị buộc tội yếu thế
nên đây được xem là hoạt động nhạy cảm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực
hiện quyền con người. Việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa được Quy định
trong Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự bằng các quy định đúng đắn, hợp lý,
17


khả thi và đảm bảo thực hiện các quy định đó trên thực tế, trở thành mục tiêu

cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở các quốc gia.
Thứ tư, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa thể hiện tính nhân văn, nhân đạo
được trong những trường hợp theo quy định của pháp luật, nếu bị cáo hoặc
người đại diện hợp pháp của họ không có điều kiện để mời Luật sư bào chữa
thì các cơ quan tiến hành tố tụng trong chức năng, nhiệm vụ của mình yêu
cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ (nếu các vụ án thuộc trường hợp chỉ
định). Trong các trường hợp khác cần tạo điều kiện để người bào chữa và bị cáo
thực hiện các quyền đặc biệt là quyền thu thập, đánh giá chứng cứ tranh luận tại
phiên tòa, để đảm bảo quyền cho người được bào chữa.
Thứ năm, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa biểu hiện của việc thực hiện
bình đẳng, dân chủ trong hoạt động tư pháp TTHS. Pháp luật quy định rõ mối
quan hệ, vị trí giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự
thật khách quan của vụ án đảm bảo bình đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các
chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình
khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh
giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất lượng, tính thực thi.
Thứ sáu, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa góp phần xác định sự thật
khách quan của vụ án, bảo đảm xét xử đúng người đúng tội, không để lọt tội
phạm, không để oan sai. Hoạt động tố tụng với các thủ tục xét xử công khai, bảo
đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
của mình. Bản án của Toà án chỉ dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng giữa các bên.”
Với quy định của nguyên tác tranh tụng góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, hạn chế đến mức tối đa tình trạng bị oan, sai trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo Tòa án ra bản án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.

18



1.2. Quy định pháp luật về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự
Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc các quy định pháp
luật về mở rộng quyền dân chủ, đã được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm,
nhằm đảm bảo công bằng xã hội, sự nghiêm minh của pháp luật được thực thi.
Vấn đề đảm bảo quyền con người được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chú trọng,
đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Xác định được tầm quan trọng đó, đảng và
nhà nước ta có nhiều chính sách, chủ trương về công tác cải cách tư pháp, nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, chất lượng giải quyết các vụ án.
Các chính sách, quy định của tố tụng hình sự đảm bảo đầy đủ, công bằng
đảm bảo khách quan, chính xác, không bỏ lọt tội phạm cũng như không được
làm oan người vô tội được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và xem đây là một
trong những nội dung lớn của cải cách tư pháp đã được Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 ghi rõ "nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử,
coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [7]; Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác
tư pháp đề cập "nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên
toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác" [6]. Tuy nhiên, trước đây Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 (BLTTHS 2003) vẫn chưa ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động tố tụng hình sự.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 được ban
hành, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nguyên tắc tranh tụng được thừa nhận
chính thức trong một văn bản pháp lý tối cao của Nhà nước. Hiến pháp 2013, tại
khoản 5 Điều 103 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm”. Đây là định hướng chỉ đạo cho việc tiếp tục quy định nguyên tắc tranh
tụng trong BLTTHS. Ngày 27/12/2015 BLTTHS đã được Quốc hội thông qua,
nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 như sau:

19



“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát
viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác
đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra
yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án….[22].
Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 có nhiều nội dung để cụ thể hóa, bảo đảm nguyên tắc này
được thực hiện trên thực tế:
- Một là: Quy định đầy đủ các quyền và các cơ chế để đảm bảo các quyền
của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa. Theo đó, người buộc tội (người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị
cáo), đã bổ sung một nhóm các quyền mới nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời chứng
cứ buộc tội làm cơ sở cho việc chuẩn bị bào chữa, như: Quyền được các cơ quan
THTT cung cấp đầy đủ các quyết định liên quan đến việc buộc tội; Quyền được
trình bày lời khai, đưa ra ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội; Quyền đọc, ghi chép ban sao hoặc tài liệu đã
được đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao các tài liệu
khác liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra; Quyền đưa ra chứng
cứ thay vì chỉ có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật như hiện nay. Bị can quyền
đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc
tội, gỡ tội (Điều 60).
Để bảo đảm quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa của người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo, tăng cường trách nhiệm của các cơ
quan trong việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội, BLTTHS năm
2015 có rất nhiều sự sửa đổi, bổ sung quan trọng, cụ thể: Mở rộng chủ thể được
đảm bảo quyền bào chữa, theo đó, ngoài 03 chủ thể đã được bảo đảm quyền bào
chữa: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng được đảm bảo quyền
bào chữa (Điều 58);


20


×