Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tài liệu bồi dưỡng HSG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.34 KB, 2 trang )

Chuyên đề CỦNG CỐ, GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN, XÂY DỰNG NỀN MÓNG CHO CHẾ ĐỘ
MỚI (2/9/1945 – 19/12/1946)
I. Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám
Sau cách mạng tháng Tám, nước ta có nhiều thuận lợi và cũng có nhiều khó khăn.
1.Những thuận lợi:
Thế giới: Cuối năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, thắng lợi thuộc về Hồng
quân Liên Xô và các lực lượng về hòa bình dân chủ. Bọn phát xít Đức – Italia- Nhật Bản bị tiêu diệt,
lực lượng đế quốc Anh – Pháp – Mỹ bị suy yếu nhiều. Tình hình đó làm cho hàng loạt các nước dân
chủ nhân dân và XHCN châu Á, châu Âu ra đời, hợp cùng với Liên Xô thành một hệ thống các nước
XHCN trên thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc lên cao, nhất là ở châu Á, châu Phi và Mĩ-la-tinh.
Phong trào đấu tranh vì hòa bình và quyền sống, vì tự do dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân
lao độngcác nước TBCN phát triển mạnh, tất cả tạo thành ba dòng thác cách mạng cùng tiến công vào
chủ nghĩa đế quốc thuận lợi cho cách mạng Việt Nam.
Ở trong nước, cách mạng Việt Nam có Đảng lãnh đạo đã dày dạn kinh nghiệm qua 15 năm, có
đường lối đúng đã làm nên cách mạng tháng Tám, có lãnh tụ thiên tài là Chủ tịch Hồ Chí Minh – một
lãnh tụ được nhân dân yêu mến và tin tưởng.
Ta có chính quyền – một công cụ bạo lực để trấn áp bọn phản cách mạng, để đấu tranh chống
thù trong giặc ngoài, để tổ chức và xây dựng chế độ mới – chế độ dân chủ nhân dân.Nhân dân ta phấn
khởi vì sau hơn 80 năm phải làm nô lệ, giờ đây mới được hưởng không khí độc lập tự do, vì thế nhân
dân ta sẵn sàng hy sinh để giữ vững nền độc lập tự do cho Tổ quốc.
Dân tộc ta có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm kiên cường bất khuất, cần cù sáng tạo
trong lao động xây dựng đất nước.
Đó là tất cả những thuận lợi cơ bản của ta.
2.Những khó khăn:
Thế giới: Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Việt Nam là mảnh đất thuộc địa đầu tiên
trên thế giới giành được độc lập, làm cho bọn đế quốc căm tức điên cuồng. Chúng sợ từ một đốm lửa
nhỏ của cách mạng Việt Nam sẽ làm bùng cháy lây lan tới cả ngôi nhà thuộc địa của chúng. Vì thế
chúng tập trung để chống phá cách mạng Việt Nam một cách quyết liệt và dai dẳng, gây khó khăn rất
lớn cho ta.
Trong nước, ta gặp muôn vàn khó khăn:
Về kinh tế và tài chính: chúng ta phải tiếp tục thu một gia tài mục nát do hậu quả hơn 80 năm


cai trị của Pháp, 5 năm của phát xít Nhật và hàng nghìn năm của chế độ phong kiến để lại. Mọi ngành
sản xuất bị đình đốn, phần lớn ruộng đất bị bỏ hoang, nhà máy đóng cửa, công nghiệp hầu như không
có gì. Nạn đói từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945 đã cướp đi hơn 2 triệu người giờ đây vẫn còn đang
tiếp diễn. Gạo ở Nam Bộ không chở ra được vì Pháp đã gây chiến tranh xâm lược Nam Bộ từ ngày
23/9/1945 làm cho giao thông tắc nghẽn. Quân Trung Hoa Dân Quốc kéo vào miền Bắc, bắt ta nộp 4
vạn cân gạo mỗi ngày. Vụ mùa năm 1945 miền Bắc lại ngập lụt lớn, 9 tỉnh đồng bằng vựa lúa bị thất
thu. Nạn thất nghiệp lan tràn.
Nguồn tài chính của đất nước hầu như cạn kiệt. Ngân quỹ nhà nước chỉ còn 1,2 triệu đồng tiền
rách. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay Nhật, ta không phát hành được giấy bạc. Quân Trung
Hoa Dân Quốc tung tiền Quan kim mất giá của chúng bắt ta tiêu làm rối loạn thị trường.
Về văn hóa xã hội: hơn 90% dân ta bị mù chữ, các tục lệ cũ còn đầy rẫy, nạn mê tín dị đoan
hoành hành, bệnh dịch lan tràn, thuốc men thiếu thốn. Nạn phân biệt chủng tộc, trọng nam khinh nữ,
nạn tảo hôn còn phổ biến khắp mọi nơi.
Chính quyền: sau cách mạng tháng Tám đã có chính quyền nhưng chỉ là lâm thời, chưa có cơ sỏ
pháp lí để tồn tại. Quân đội vừa mới xây dựng trang bị kém cỏi, vũ khí thô sơ, thiếu kinh nghiệm tác
chiến.
Về đối ngoại: cùng một lúc trên đất nước ta có hàng loạt kẻ thù: từ vĩ tuyến 16 trở ra, 20 vạn
quân Trung Hoa Dân Quốc kéo vào, sau lưng bọn quân Trung Hoa Dân Quốc là bọn quan thầy Mĩ. Từ
vĩ tuyến 16 trở vào Nam hơn một vạn quân Anh. Núp sau quân Anh là thực dân Pháp kẻ đang có ý đồ
trở lại Đông Dương. Đó là chưa kể 6 vạn quân Nhật vẫn còn nguyên vũ khí. Sau lưng bọn đế quốc là
hàng loạt lũ tay sai đủ các loại hình, tiêu biểu nhất là bọn Việt Nam quốc Dân Đảng (gọi tắt là Việt
Quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội(gọi tắt là Việt Cách ). Tất cả tình hình trên đã đặt nước
Việt Nam đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhìn chung ta thấy khó khăn tuy nhiều và lớn
song chỉ là trước mắt và tạm thời , thuận lợi vẫn là cơ bản và lâu dài. Nếu có những chính sách đúng
đắn về đối nội cũng như về đối ngoại thì ta có thể khắc phục được khó khăn, phát huy được thuận lợi,
củng cố giữ vững được chính quyền cách mạng, xây dựng được nền móng cho chế độ mới và thúc đẩy
cách mạng tiến lên.
II. Những chủ trương và biện pháp của ta nhằm khắc phục khó khăn, phát huy thuận lợi
để củng cố, giữ vững chính quyền, xây dựng nền móng cho chế độ mới:
Giải quyết khó khăn về đối nội:

Về kinh tế và tái chính: Như Hồ Chủ tịch đã nói trước mắt chúng ta có 3 kẻ thù là giặc đói, giặc
dối và giặc ngoại xâm. Nhưng trước hết phải chống giặc đói, vì giặc đói và giặc dốt là bạn đồng minh
của giặc ngoại xâm.
Chủ trương: để giải quyết nạn đói, trước mắt ta chủ trương dựa vào dân bằng cách vận động
đồng bào tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, tổ chức phong trào “hũ gạo tiết kiệm” , “ngày đồng tâm”.Hồ Chủ
tịch ra lời kêu gọi toàn dân cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa để lấy gạo giúp người đói. Bản thân người
cũng gương mẫu thực hiện, cả nước làm theo. Còn về lâu dài ta vân động đồng bào đẩy mạnh tăng gia
sản xuất thực hành tiết kiệm. ta trồng cây ngắn ngày xen kẻ cây dài ngày. Vụ chiêm 1946 miền Bắc bội
thu. Chính quyền cách mạng ra lệng bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lí khác của chế độ cũ, giảm tô
25%, giảm thuế ruộng đất 20%, tịch thu ruộng đất của đế quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia
lại ruộng đất công một cách công bằng, dân chủ. Nhờ vậy, chỉ một thời gian ngắn nạn đói được đẩy lùi.
Về tài chính: Chính phủ chủ trương dựa vào dân bằng cách vận động đồng bào ủng hộ cách
mạng. ta tổ chức quyên góp, vận động đồng bào mua tín phiếu. Hưởng ứng cuộc vận động xây dựng
“Quỹ độc lập”, phong trào tuần lễ vàng do chính phủ phát động nhân dân hăng hai đóng góp xây dựng
Tổ quốc. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân đã tự nguyện đóng góp 370 kg vàng, 20 triệu đồng
vào Quỹ độc lập, 40 triều đồng vào quỹ đảm phụ quốc phòng. Ngày 23/11/1946, Quốc hội quyết định
cho phát hành tiền Việt Nam trong cả nước thay cho tiền Đông Dương trước đây.
Về văn hóa – giáo dục: Trước mắt phải xóa nạn mù chữ, ngày 8/9/1945, Chủ tịnh Hồ Chí Minh
ký sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ, là cơ quan chuyên lo việc chống “giặc dốt”, và kêu gọi
nhân dân trong cả nước tham gia phong trào xóa nạn mù chữ. Trong vòng một năm, từ 8/9/1945 đến
8/9/1946, trên toàn quốc đã tổ chức gần 76.000 lớp học xóa, mù chữ cho hơn 2,5 triệu người. Trường
học các cấp phổ thông và đại học sớm được khai giảng nhằm đạo tạo những công dân và những cán bộ
trung thành, năng lực phụng sự Tổ quốc. Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu đổi mới theo
tinh thần dân tộc – dân chủ.
Chính quyền: Trước hết phải xây dựng cơ sở pháp lí cho chính quyền. Ngày 6/1/1946 ta tổ
chức một cuộc tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc để bầu Quốc hội chính thức. Kết quả hơn 98% tổng
số cử tri cả nước đã đi bầu. chúng ta đã bầu được Quốc hội chính thức, Quốc hội lại bầu ra Chính phủ
chính thức vẫn do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Quốc hội cũng cử ra một ban dự thảo Hiến pháp do Hồ
Chủ tịch làm trưởng ban. Tới tháng 11/1946 ta đã thông qua được bản hiến Pháp của ta. Đây là bản
Hiến pháp Đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và cũng là bản hiến pháp dân chủ nhất ở

Đông Nam Á lúc bấy giờ. Đến đây ta đã tạo được cơ sở pháp lí cho chính quyền, một chính quyền của
dân, do dân bầu ra, bọn đế quốc không dễ gì xóa bỏ được. Để tạo chỗ dựa cho chính quyền, một mặt ta
ra sức củng cố mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc, mặt khác ta cho thành lập thêm một mặt
trận mới lấy tên là “Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam” gọi tắt là mặt trận Liên Việt để thu hút thêm một
số tri thức và một số người thuộc tầng lớp trên chưa vào mặt trận Việt Minh, làm cho khối đoàn kết dân
tộc thêm mở rộng. Ta ra sức phát triển lực lượng vũ trang để làm công cụ bảo vệ chính quyền.
Đến đây, ta đã xây dựng được cơ sở vật chất, cơ sở xã hội và cơ sở pháp lí cho chính quyền, tức
xây dựng nền móng cho chế độ mới, tạo được thực lực cho ta để đấu tranh chống giặc ngoại xâm có kết
quả, vì “ ta có thực lực họ mới đếm xỉa đến, còn nếu ta không có thực lực thì ta chỉ là một khí cụ trong
tay của kẻ khác dầu kẻ đó là người bạn đồng minh của ta vậy.
Huỳnh Tấn Châu – Trường THPT Lý Tự Trọng – Bình Định

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×