Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN THANH

GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA
ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
CẤP HUYỆN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - Năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN THANH

GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA
ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
CẤP HUYỆN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH


HÀ NỘI - Năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Được sự tận tình, hướng dẫn truyền đạt kiến thức của quý thầy, cô nên
gần 02 năm học tập, nghiên cứu của bản thân tại Học viện Khoa học Xã hội
thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Đặc biệt là sự hướng dẫn,
định hướng của GS. TS Võ Khánh Vinh đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn
tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, tạo điều kiện của lãnh đạo Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi và các
đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tạo điều kiện về thời gian, tài liệu. Cảm
ơn những người thân, bạn bè, anh chị em học viên cùng khóa, cùng lớp đã hỗ
trợ chia sẻ, động viên tôi những lúc khó khăn để hoàn thành luận văn.
Đến nay tôi đã hoàn thành luận văn thạch sỹ Luật học chuyên ngành:
Luật Hiến pháp và Luật hành chính, với đề tài “Giám sát, phản biện xã hội
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ngãi”.
Xin trân trọng cảm ơn !


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân,
Các số liệu được nêu ra trong Luận văn này là trung thực, khách quan. Những
quan điểm, giải pháp, đề xuất, kiến nghị là xuất phát từ sự nghiên cứu thực tế
của bản thân trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực tiễn công tác của
mình.

Tác giả


Nguyễn Văn Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT, PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ........................ 7
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ
thống chính trị ................................................................................................... 7
1.2. Những vấn đề lý luận về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ............. 10
1.3. Những vấn đề lý luận về phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam ............. 14
1.4. Mối quan hệ giữa giám sát, phản biện của MTTQ Việt Nam ................. 18
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt
Nam ................................................................................................................. 19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC CẤP HUYỆN TẠI TỈNH QUẢNG
NGÃI .............................................................................................................. 25
2.1. Đặc điểm, tình hình của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện tại tỉnh
Quảng Ngãi ..................................................................................................... 25
2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp
huyện của tỉnh Quảng Ngãi ............................................................................. 28
2.3. Thực trạng phản biện xã hội của Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp huyện
tỉnh Quảng Ngãi .............................................................................................. 38
2.4. Đánh giá chung và những ưu điễm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân
của hạn chế trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban MTTQ
Việt Nam cấp huyện của tỉnh Quảng Ngãi ..................................................... 40
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM CẤP HUYỆN CỦA TỈNH QUẢNG NGÃI .............. 47



3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban
MTTQ cấp huyện, tỉnh Quảng Ngãi ............................................................... 47
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban
MTTQ Việt Nam cấp huyện ........................................................................... 52
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC VIẾT TẮT
HĐND

Hội đồng nhân dân

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

MTTQVN

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UBND

Ủy ban nhân dân

UBTWMTTQVN

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam


XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giám sát và phản biện xã hội là nhiệm vụ quan trọng trong công tác
tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội đã tích cực thực hiện hoạt động giám sát, phản biện đối với
các cơ quan Đảng, Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức và Đảng viên, đạt
được những kết quả nhất định. Qua đó, đã phát hiện những biểu hiện, hành vi
vi phạm pháp luật, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm theo
quy định của pháp luật; những bất hợp lý, khó khăn, vướng mắc trong việc thi
hành pháp luật, chế độ, chính sách để từ đó, kiến nghị với cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền khắc phục và hoàn thiện. Thông qua giám sát, phản biện, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã thực hiện tốt hơn
chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
tầng lớp nhân dân; phát huy quyền làm chủ, tăng cường sự giám sát của nhân
dân đối với hoạt động của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, góp phần xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Đối với tỉnh Quảng Ngãi, trong những năm qua, Ủy ban MTTQ Việt
Nam tỉnh đã triển khai thực hiện tốt hoạt động giám sát, phản biện xã hội,
nhất là từ khi Hiến Pháp năm 2013 đã ghi nhận vị trí, vai trò của MTTQ Việt
Nam tại Điều 9 và Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12 tháng 12 năm 2013
của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế giám sát, phản biện xã hội của
MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, Quyết định số 218QĐ/TW ngày 12 tháng 12 năm 2013 của Bộ Chính trị về ban hành Quy định
về MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp


1


ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, góp phần nâng cao hiệu lực pháp
luật đó được ban hành, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, tầng lớp nhân dân.
Đồng thời góp phần đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng – an ninh vào
cuộc sống. Xây dựng cơ chế pháp lý để MTTQ Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội thực hiện hoạt động giám sát và phản biện xã hội có hiệu
quả thiết thực. Nhìn chung, hoạt động giám sát, phản biện xã hội của MTTQ
cấp huyện bước đầu đã đem lại hiệu quả.
Tuy nhiên so với yêu cầu trong tình hình mới, hoạt động giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung, Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi nói riêng vẫn còn những hạn chế nhất
định, nhiều lĩnh vực giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp huyện, tỉnh Quảng Ngãi do chưa được cụ thể hoá thành cơ chế, thể
chế hoá thành văn bản quy phạm pháp luật nên chất lượng, hiệu quả hoạt
động giám sát và phản biện xã hội còn những khó khăn, hạn chế.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh trong thực tế
còn hình thức; hiệu quả, hiệu lực pháp lý chưa cao; giám sát chưa đồng đều ở
các cấp. Nội dung, phạm vi, đối tượng được giám sát trong thực tế còn hẹp,
nhiều lĩnh vực, nội dung quan trọng trong nhiệm vụ giám sát của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam chưa được quy định, chưa có cơ chế cụ thể, đến nay vẫn chưa
có hướng dẫn cách thức phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước liên quan
với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong các khâu của quá trình giám sát.
Về hoạt động phản biện xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ phản
biện khi có sự đề nghị của các cơ quan liên quan. Vì vậy, phản biện xã hội
chưa mang tính bắt buộc đối với cơ quan ban hành dự thảo văn bản; tâm lý, tư
tưởng lo ngại việc phản biện sẽ bị những kẻ xấu lợi dụng để xúi giục những

phần tử bất mãn chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

2


luật của Nhà nước, ảnh hưởng đến sự đồng thuận trong xã hội, dẫn đến việc
chậm ban hành văn bản về thực hiện nhiệm vụ phản biện xã hội.
Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên
nên, học viên chọn chủ đề “Giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài luận văn Thạc
sỹ Luật học, với mong muốn sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam nói chung và MTTQ
Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giám sát, phản biện xã hội là lĩnh vực mới được Đảng, Nhân dân giao
phó cho MTTQ trong việc góp phần công khai, minh bạch trong hoạt động
của chính quyền. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này
dưới nhiều góc độ khác nhau. Khi nghiên cứu về vấn đề này, bước đầu tác giả
đã tìm hiểu được những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến nội dung
đề tài như: TS Nguyễn Thọ Ánh (2012), “Thực hiện chức năng giám sát, phản
biện xã hội của MTTQ Việt Nam hiện nay”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Ngô Sách Thực (2017), “Phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Nguyễn Đức Thành (2012), “Hoạt động giám sát
và phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể - nhìn từ thực tiễn tỉnh Nghệ
An”, Tạp chí Mặt trận số 108, năm 2012; Thu Hà (2018), “Phát huy vai trò
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”; Nguyễn Đăng
Dung (2010), “ Cơ sở pháp lý nào cho sự hoàn thiện chức năng giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, Tạp chí Mặt trận số 81,
năm 2010; Nguyễn Trọng Bình (2010), “Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc – Thực trang và một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Mặt trận số 81, năm

2010; Trần Thanh Mẫn (2019), “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tăng
cường thực hiện giám sát, phản biện xã hội đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng

3


của các tầng lớp nhân dân; Hoàng Thị Ánh (2015), luận văn thạc sỹ luật học
“Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng”;
Trần Văn Thi (2018), luận văn thạc sỹ xã hội học “hoạt động giám sát, phản
biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại huyện Châu Thành,
tỉnh Tiền Giang”;..
Tóm lại, vấn đề giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, từ năm 2015 đến nay tại tỉnh Quảng Ngãi chưa có luận văn nghiên cứu về
hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi theo quy định của Hiến pháp 2013, Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam năm 2015, Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của
Bộ Chính trị (khóa XI). Chính vì vậy, tôi chọn đề tài luận văn thạc sỹ: “Giám
sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” để làm sáng tỏ thực trạng hoạt động giám sát, phản
biện xã hội, các kết quả đạt được và hạn chế, bất cập, cũng như đề ra các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp cơ sở.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng về quá trình
giám sát và phản biện xã hội của Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp huyện. Qua
đó, đề xuất những giải pháp, kiến nghị khoa học nhằm xây dựng các giải pháp
nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp huyện, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của

Nhân dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu như đã trình bày ở trên, cần thực

4


hiện một số nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của hoạt động giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng giám sát, phản biện xã hội để chỉ rõ kết
quả thành công và hạn chế trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.
- Đề xuất một số giải pháp mang tính khoa học góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp huyện từ thực tiễn, tỉnh Quảng Ngãi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các quan niệm về lý luận khoa học, hệ thống chủ
trương, chính sách pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của MTTQVN; vị
trí, vai trò, chức năng của Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp huyện của tỉnh Quảng
Ngãi; thực tiễn hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban MTTQ Việt
Nam cấp huyện của tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Không gian nghiên cứu của luận văn là tại cấp huyện
của tỉnh Quảng Ngãi.
- Về thời gian: Thời gian nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện
giấm sát, phản biện xã hội của Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp huyện từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2014 – 2018.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận, nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận vận
dụng quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong hoạt động giám sát,

5


phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng đảng, xây dựng chính quyền.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn, bao gồm: Phương
pháp so sánh, hệ thống; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp xã
hội học pháp luật, kết hợp lý luận với thực tiễn,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc nâng cao nhận
thức về vị trí, vai trò và chức năng giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt
Nam.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam cấp
huyện của tỉnh Quảng Ngãi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn được xem là một công trình nghiên cứu khoa học có thể dùng
làm tài liệu tham khảo, giảng dạy cho những người làm công tác MTTQ trong
việc thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được chia
phù hợp với 03 chương trong luận văn, cụ thể như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám sát, phản biện

xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện của tỉnh Quảng Ngãi.
- Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ
HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
hệ thống chính trị
1.1.1. Vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận hệ thống chính trị của nước
ta hiện nay. Sự qui định này là một tất yếu khách quan của sự nghiệp cách
mạng, là xuất phát từ thể chế chính trị của nước ta là một nước của dân, do
dân, vì dân, mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch
sử, vấn đề truyền thống.
Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên
hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn
giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát,
phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại
nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. [7, tr.7]

1.1.2. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Với tư cách là vị trí chiến lược trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện
nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò to lớn trong hệ thống chính trị.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển vị trí, vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị đã được Hiến pháp nước Cộng hoà
7


xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xác định: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của
tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân
tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và
người Việt Nam ở nước ngoài”[14, tr.1].
Vai trò và tầm quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới đã được khẳng định trong thực tế. Thông qua nhiều hình thức
tổ chức và vận động quần chúng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã góp phần
cùng với Đảng, Nhà nước giải quyết những khó khăn, bức xúc, tạo điều kiện
và môi trường thuận lợi để các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế xã hội, khơi dậy và phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc như sự tương thân, tương ái, tình dân tộc, nghĩa đồng bào.
Phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ
VIII (26/9/2014), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh "Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và rất
vui mừng trước sự phát triển, lớn mạnh không ngừng của Mặt trận - hình ảnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, một nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam". [10, tr.1]
Trong công cuộc đổi mới với nền dân chủ ngày càng phát triển, vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng quan trọng đã làm tốt vai trò là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân, cầu nối vững chắc giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước, tăng cường đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam
với nhân dân các nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tiếp tục tăng

cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp ngày càng rộng rãi mọi tầng lớp
nhân dân.
1.1.3 Chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Trong thực tế lãnh đạo, do nhiều nguyên nhân khác nhau “Đảng chưa

8


đáp ứng được nhu cầu trong việc giải quyết nhiều vấn đề kinh tế-xã hội, trong
phong cách lãnh đạo và cả trong rèn luyện phẩm chất cán bộ đảng viên” [19,
tr.10]. Để tăng cường sức mạnh của Đảng cần khắc phục những hạn chế,
khiếm khuyết trong tổ chức và hoạt động của Đảng là yêu cầu cấp bách,
khách quan trong tình hình hiện nay. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “mỗi
công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hệ chặt chẽ với quần
chúng” và “giữ chặt mối liên hệ với quần chúng, đó là nền tảng lực lượng của
Đảng mà nhờ đó Đảng thắng lợi” [6, tr.4]. Cho nên, Mặt trận Tổ quốc với tính
cách là sự thể hiện của khối đại đoàn kết toàn dân có vai trò to lớn đối với việc
phát huy sức mạnh của Đảng.
Với tư cách là cơ sở quần chúng của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
thông qua hoạt động của mình đã góp phần phát huy sức mạnh bộ máy tổ
chức Đảng, thể hiện ở các mặt sau:
- Phối hợp thống nhất hành động của các tổ chức thành viên tuyên
truyền các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác xây dựng Đảng nói
chung, xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao uy tín của Đảng trong đời sống
chính trị xã hội. Vận động các tầng lớp nhân dân tích cực xây dựng và bảo vệ
Đảng; giám sát mọi hoạt động của cấp uỷ Đảng tại địa phương để kịp thời
phát hiện những sai sót, khiếm khuyết trong công tác lãnh đạo của địa
phương.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bằng thực tiễn hoạt động của mình, đã
tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Nhân dân với Đảng. Vận động, tổ chức

nhân dân thực hiện quyền làm chủ, tham gia xây dựng chính sách, pháp luật.
- Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội phát hiện những việc làm sai
trái của các cơ quan Nhà nước như vi phạm các quyết định về quản lý, vi
phạm về tự do, dân chủ của công dân để báo cáo với các cơ quan có thẩm
quyền xem xét, giải quyết.

9


- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vận động, tổ chức
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ, tham gia xây dựng chính sách, pháp luật.
- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vận động các tầng
lớp Nhân dân tham gia các phong trào quần chúng cùng Nhà nước thực hiện
các chương trình phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững.
1.2. Những vấn đề lý luận về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.2.1. Khái niệm giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Để có những nhận thức lý luận về giám sát của MTTQVN, trước hết cần
hiểu “giám sát” là gì.
Giám sát là thuật ngữ được dùng nhiều văn bản trong cơ quan Đảng và Nhà
nước. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự nhất quán trong cách quan niệm.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Giám sát là theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều qui định không?”. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì:
“giám sát là một hình thức hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội
nhằm bảo đảm pháp chế hoặc sự chấp hành những quy định chung nào đó”. Từ
điển Luật học định nghĩa: “giám sát được hiểu là sự theo dõi, quan sát hoạt động
thường xuyên, liên tục và sẳn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc
và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế
nhằm đạt được mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật
được tuân thủ nghiêm chỉnh” [32, tr. 389]
Mặc dù có sự diễn đạt khác nhau, nhưng từ các định nghĩa này, có thể

thấy được những đặc trưng chung nhất của giám sát:
- Là hoạt động phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng trong
một hệ thống – cấu trúc xã hội xác định.
- Mục đích là nhằm phòng ngừa và uốn nắn những sai phạm có thể xảy
ra trong quá trình triển khai thực hiện và bảo đảm cho hệ thống vận hành đạt
hiệu quả cao.

10


Trong hệ thống xã hội, hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, giám sát
được thực hiện bởi nhiều cấp độ chủ thể khác nhau: Giám sát của Đảng, giám
sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân, của xã hội.
Theo Quy định số 30-QĐi/TW:“Giám sát là sự theo dõi, kiểm tra, phát
hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người này đối với cá nhân, tổ
chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội;
trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp,
pháp luật, chính sách của Nhà nước, các quyền, nghĩa vụ công dân, của các tổ
chức chính trị - xã hội và những kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý
đối với các cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái” [23, tr.1].
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam như sau: “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
việc Mặt trận các cấp theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đại biểu dân cử, công chức, viên chức trong việc thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm kịp
thời phát hiện và kiến nghị xử lý những sai sót, khuyết điểm nhằm phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân góp phần kiểm soát quyền lực của Nhà nước, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước”.
1.2.2. Đặc điểm giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Theo khoản 2, điều 25, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy

định:
“- Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội; đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, kịp thời
phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ
sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển
hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân,
góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.[14, tr.9]

11


Hoạt động giám sát được thực hiện bằng hai loại chủ thể. Đó là hoạt
động giám sát của cơ quan Nhà nước và hoạt động giám sát của các chủ thể
xã hội (ngoài nhà nước). Hoạt động giám sát của các chủ thể ngoài nhà nước
gọi là giám sát xã hội. Giám sát xã hội khác với giám sát Nhà nước như sau:
chủ thể giám sát xã hội gồm các đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội,
báo chí, công dân. Đảng cầm quyền không được coi là chủ thể giám sát xã
hội và đảng cầm quyền là chủ thể xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy và trực
tiếp lãnh đạo nhà nước. Đối tượng giám sát xã hội là cơ quan quyền lực, giám
sát xã hội không mang tính quyền lực Nhà nước (không thực hiện quyền miễn
nhiệm, bãi nhiệm trực tiếp đối với các đối tượng vi phạm nhưng lại có thể gây
áp lực lên chủ thể quyền lực để điểu chỉnh quyết định chính sách).Bản chất
giám sát xã hội là hình thức giám sát có sự tham gia rộng rãi của toàn bộ xã
hội mà nòng cốt là một số tổ chức của nhân dân, do nhân dân lập nên và ủy
nhiệm. Phương thức giám sát xã hội được thực hiện trước tiên, thông qua các
tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân ( Mặt trận tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hôi nghề nghiệp…) bằng hình thức
giám sát gián tiếp hoặc trực tiếp của mỗi công dân. Trái lại, giám sát xã hội là
sự bổ sung quan trọng, khách quan cho những hình thức giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước và hệ thống. Hoạt động giám sát được thực hiện theo

nguyên tắc bảo đảm phát huy dân chủ có sự tham gia của mọi tầng lớp nhân
dân và thành viên của MTTQVN.
1.2.3. Nội dung giám sát của MTTQ Việt Nam
Theo quy định tại khoản 2, điều 26 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
sửa đổi năm 2015 quy định: “Nội dung giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là việc thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam.” [14, tr.5]

12


Theo 02 nội dung văn bản trên, thì Quyết định 217 của Bộ Chính trị
quy định nội dung giám sát rộng hơn so với Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
sửa đổi năm 2015.
Giám sát xã hội và phản biện xã hội có nội dung rất rộng, liên quan đến
tất cả những lĩnh vực, những vấn đề của đời sống cộng đồng (giai cấp, dân
tộc, quốc gia): Từ khâu hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật đến khâu
tổ chức thực hiện; từ lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến an ninh,
quốc phòng; từ đối nội đến đối ngoại; từ tổ chức bộ máy, con người đến công
việc của con người và bộ máy; từ tầm vĩ mô đến trung, vi mô.
Ở nước ta hiện nay, nội dung này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề
cập trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI và XII. Có thể
xem đó cũng là nội dung của những phương thức thực hành dân chủ trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tiễn hoạt động và điều kiện của tỉnh Quảng Ngãi, nội dung
giám sát chủ yếu tập trung giám sát một số nội dung theo các chương trình
giám sát của Trung ương và một số nội dung giám sát theo yêu cầu thực tế
của địa phương, như về công tác dân cử, về thực hiện công tác xét tuyển công
dân thi hành nghĩa vụ quân sự; về việc thực hiện các chính sách chăm lo hộ

nghèo và công tác xét công nhận hộ nghèo, giảm nghèo bền vững; việc hỗ trợ
kinh phí hoạt động cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội theo quy định; về an toàn thực phẩm; cấp phát thẻ bảo hiểm y tế cho
các đối tượng thuộc ngân sách nhà nước đóng và hỗ trợ; cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, việc quản lý sử dụng đất công ích; các chính sách hỗ trợ
cho các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số; bồi thường giải
phóng mặt bằng, bồi thường thiệt hại; việc thu, quản lý và sử dụng các khoản
thu từ nguồn do cha mẹ học sinh đóng góp và nguồn xã hội hóa giáo dục
trong trường học... Sau 05 năm thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, Quyết

13


định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị ở tất cả 14 huyện, thành phố đã triển
khai hoạt động giám sát theo nhu cầu của địa phương, có sự phối hợp chặt chẽ
với cấp ủy và chính quyền các cấp.
1.2.4. Hình thức và phương pháp giám sát của MTTQ Việt Nam
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam năm 2015 quy định các hình thức giám sát như:
“+ Thứ nhất, xem xét, nghiên cứu các văn bản của cơ quan có thẩm
quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
+ Thứ hai, tổ chức đoàn giám sát.
+ Thứ ba, Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư của cộng
đồng được thành lập ở cấp xã để thực hiện hoạt động.
+ Thứ tư, tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
+ Thứ năm, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ phối hợp với Đoàn
Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nghị quyết số
403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN

ngày


15/6/2017

quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam” [14, tr.3].
1.3. Những vấn đề lý luận về phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam
1.3.1. Khái niệm lý luận về phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam
Phản biện là cụm từ Việt gốc Hán. Đây là cụm từ ghép được cấu tạo
bởi hai từ độc lập: Phản và Biện, có nghĩa khác nhau. Khi trở thành từ ghép,
nó mang một ý nghĩa khác.
Phản biện được đề cập đến từ lâu trong các cuộc hội thảo, trong các tài
liệu, văn bản, trong hoạt động chính trị - xã hội, trong nghiên cứu khoa học,
đặc biệt từ khi Đảng có chủ trương tạo cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân tham gia giám sát và hoạt động phản biện xã hội.
Phản biện hiện đang được áp dụng trên hai lĩnh vực: Phản biện khoa

14


học, phản biện xã hội và dưới hai hình thức: Tự phản biện và phản biện
(người khác).
Qua thực tiễn hoạt động, phản biện được hiểu là biện luận và phản biện
luận của các bên (hai bên hay nhiều bên) bằng những lý lẽ, lập luận có căn cứ
khoa học và thực tiễn để chứng minh sự khẳng định hoặc phủ định đã được
nêu ra.
Như vậy, nội dung phản biện không phải chỉ nêu lên các khẳng định
hay phủ định mà còn đòi hỏi phải có luận cứ chứng minh kèm theo. Kiến thức
và trách nhiệm của bên phản biện đòi hỏi phải có sự đáp ứng cao hơn so với
việc góp ý kiến, kiến nghị. Khi tiến hành phản biện, nhất thiết phải có sự đối
thoại trực tiếp hoặc thông qua văn bản của cả hai bên biện luận và phản biện
luận. Khi phản biện, bên biện luận và bên phản biện luận đều phải nêu rõ

quan điểm, lập luận, căn cứ khoa học, căn cứ thực tiễn để phủ định hoặc
khẳng định. Việc chấp nhận hay không chấp nhận các lập luận, biện luận và
phản biện luận phải nêu rõ căn cứ, lý do và thông báo công khai, rộng rãi cho
mọi người biết. Quyết định cuối cùng là do tập thể, cá nhân có thẩm quyền
quyết định và chịu trách nhiệm đối với quyết định đã ban hành.
Phản biện là một trong những hình thức mở rộng dân chủ. Hơn nữa, đó
là dân chủ trực tiếp và có tính dân chủ cao hơn kiến nghị và góp ý kiến. Trong
phản biện, bên phản biện không phải lúc nào cũng nêu ý kiến phản bác. Bên
phản biện có cả những ý kiến tán đồng, những ý kiến sửa đổi, bổ sung nhằm
làm cho dự án, kế hoạch đưa ra được đầy đủ, hoàn thiện hơn.
Theo quy định tại Điều 32, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015:
“Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến, kiến nghị đối
với dự thảo văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề

15


án (sau đây gọi chung là dự thảo văn bản) của cơ quan nhà nước.” [14, tr.12]
1.3.2. Đặc điểm phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam
Phản biện xã hội là có sự tham gia rộng rãi hơn của xã hội, của nhân
dân, và các nhà khoa học về nội dung, phương hướng, chủ trương của đảng,
chính sách của Nhà nước và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội. Phản biện xã
hội là ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà
nước... Nhân dân có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phản biện xã hội là nhu cầu cần
thiết nhằm khắc phục tệ quan liêu.
Theo Điều 32, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định:
“Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính

trị - xã hội là việc nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến đối với dự thảo các chủ
trương, đường lối của tổ chức đảng các cấp; đối với dự thảo các văn bản quy
phạm pháp luật, các chương trình, dự án, đề án của Chính phủ, Ủy ban nhân
dân các cấp; đối với dự thảo, chương trình, dự án, đề án của Quốc hội, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tòa án nhân dân, viện
kiểm sát nhân dân”. [14, tr.12]
Như vậy, phản biện xã hội là sự phản ánh những dư luận xã hội, ý kiến,
kiến nghị và kháng nghị của cộng đồng xã hội, về một hay nhiều sự việc, vấn
đề có liên quan đến lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Trên cơ sở,
phân tích nhằm phân định rõ giữa cái tốt với cái xấu, cái đúng với cái sai, cái
được với cái chưa được để tiếp tục hoàn thiện... nhằm đáp ứng những yêu cầu
do cuộc sống đặt ra, đảm bảo lợi ích chung của cho toàn xã hội.
1.3.3. Nội dung, phạm vi và hình thức phản biện xã hội của MTTQ
Việt Nam
1.3.3.1. Nội dung phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam
Căn cứ khoản 02, điều 9 của Quy chế giám sát, phản biện xã hội theo

16


Quyết định số 217-QĐ/TW quy định nội dung phản biện: “ Sự cần thiết, tính
cấp thiết của văn bản dự thảo; sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; thực tiễn
của đơn vị, địa phương; tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời
sống xã hội và tính khả thi của văn bản dự thảo; dự báo tác động, hiệu quả về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của văn
bảo dự thảo.” [24, tr.5]
Về cơ chế phản biện, bước đầu, Mặt trận Tổ quốc đã phát huy được vai
trò của các tổ chức thành viên, các Hội đồng tư vấn của Mặt trận và nhân dân
trong hoạt động phản biện xã hội; đã xác lập được mối quan hệ giữa Mặt trận

Tổ quốc các cấp với các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền (giữa chủ thể phản
biện và chủ thể nhận sự phản biện). Một số cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
hoạch định chủ trương, chính sách đã chủ động gửi dự thảo đề án tới Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam để tranh thủ ý kiến, cung cấp thông tin liên quan tới đề án.
Trên cơ sở đó, Mặt trận Tổ quốc tiến hành thẩm định, phản hồi ý kiến tới các
cơ quan, tổ chức có dự thảo đề án được phản biện nhằm bảo đảm nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Thông qua hoạt động thẩm định của mình, những ý kiến đóng góp,
đánh giá, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã có tác dụng bổ sung,
điều chỉnh dự thảo chủ trương, đường lối, đề án của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước trên một số mặt; nêu được quan điểm của Mặt trận và phản
ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân đối với quá trình ban hành chủ
trương, chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
1.3.3.2. Phạm vi phản biện xã hội
Theo khoản 3, điều 33, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 thì
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc quy định của pháp luật, các tổ chức
chính trị - xã hội chủ trì phản biện xã hội các vấn đề có liên quan trực tiếp đến

17


quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, quyền và trách
nhiệm của tổ chức mình.
Theo điều 10 của Quy chế giám sát, phản biện xã hội tại Quyết định số
217-QĐ/TW quy định phạm vi phản biện xã hội:
“- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Chủ trì phản biện xã hội đối với các
văn bản dự thảo về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.” [24, tr.3]
1.4. Mối quan hệ giữa giám sát, phản biện của MTTQ Việt Nam
Giám sát, phản biện xã hội là hai quá trình khác nhau nhưng đều có

chung mục tiêu hướng đến là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đang
của Nhân dân và kiểm soát quyền lực của nhà nước nên chúng có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Trong quá trình triển khai thực hiện, phản biện xã hội là
tiền đề của giám sát vì nó là giai đoạn đầu của cơ chế, chính sách, nếu thực
hiện tốt công tác phản biện sẽ góp phần đưa các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào trong thực tiễn cuộc sống. Và
trong quá trình thực hiện, song hành cùng phản biện, giám sát sẽ giúp các cơ
quan chức năng kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn gúp đạt được
kết quả đã đề ra.
Có thể thấy rằng giám sát và phản biện xã hội đều có chung mục đích
đề xuất những kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền về những quyết định của
mình. Tuy nhiên, giữa giám sát và phải biện xã hội có những khác nhau:
- Giám sát là việc nghiên cứu, quan sát và kiến nghị với cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động của bộ máy nhà nước trong việc thực hiện các
chủ trương, chính sách, pháp luật.
- Mục đích của giám sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam là cùng với giám
sát, kiểm tra, thanh tra Nhà nước góp phần xây dựng Đảng, xây dựng và củng
cố chính quyền nhân dân, làm cho bộ máy Đàng, cơ quan Nhà nước, ngày

18


×