Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hoá từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH QUANG VŨ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN
DI SẢN VĂN HOÁ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH QUANG VŨ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN
DI SẢN VĂN HOÁ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Đỗ Thị Kim Định
Tất cả hệ thống lý luận, các số liệu và những kết quả trong luận văn này là
trung thực. Luận văn không sao chép, trùng lặp với bất kỳ luận văn nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những lời cam đoan của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA ................................................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lí nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa ....7
1.2. Chủ thể tham gia quản lý hành chính nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa ..............19
1.3. Nội dung của quản lí nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa.................................24
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lí nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa ............29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN DI SẢN
VĂN HÓA TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM ........................34
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lí nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa tại thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ...................................................................................34
2.2. Thực tiễn thực hiện công tác quản lý Nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa tại
thành phố Hội An ......................................................................................................42
2.3. Đánh giá thực trạng quản lí Nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa tại thành phố
Hội An .......................................................................................................................53
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA........................................................................64
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa .............64
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa tại

thành phố Hội An ......................................................................................................68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DSVH

: Di sản văn hóa

QLNN

: Quản lý nhà nước

UNESCO

: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc

VHTT&DL

: Văn hóa thể thao và du lịch


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1.

Tên bảng
Lễ hội ở Hội An (Phân loại theo loại hình di tích)


Trang
41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước, văn hóa Việt Nam đã trải qua bao
thăng trầm, nhưng dấu ấn về thời gian và những giá trị về lịch sử - văn hóa của dân
tộc thì mãi trường tồn. Những giá trị ấy được lưu giữ và bảo tồn qua nhiều thế hệ,
trên nhiều di sản. Di sản văn hóa Việt Nam được coi là tài sản quý giá của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai
trò rất to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã nêu rõ: “Di sản
văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc,
cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá”. Di sản văn hóa góp phần
thỏa mãn nhu cầu về sinh hoạt tâm linh của nhân dân, góp phần nâng cao ý thức tự
hào dân tộc trong mỗi người dân Việt; góp phần phát triển nền kinh tế - xã hội của
đất nước.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển văn hóa của hầu hết các
quốc gia trên thế giới, nhất là đối với văn hóa Việt Nam. Trong đó, bộ phận mang
tính cốt yếu tạo dựng nên bản sắc tâm hồn Việt chính là các di sản văn hóa. Trước
sức ép của sự du nhập tràn lan các yếu tố văn hóa, cùng với yêu cầu phát triển kinh
tế, nền văn hóa truyền thống của Việt Nam đang đứng trước nguy cơ mai một và bị
“hòa tan”. Đặc biệt, trong lĩnh vực di sản văn hóa, một số lượng không nhỏ các di
sản văn hóa Việt Nam đã bị thất truyền và mất đi vĩnh viễn. Do đó, để bảo vệ được
bản sắc của dân tộc, chúng ta phải tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị các di sản
văn hóa thông qua công tác quản lý nhà nước đối với các tài sản văn hóa này.

Quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
nói riêng là vấn đề đã và đang được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Từ
năm 1986, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới trong nhiều lĩnh vực, trong đó có văn
hóa. Năm 1998, Ban chấp hành trung ương khóa VIII họp Hội nghị lần thứ 5 đề ra
Nghị quyết xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã tạo
điều để việc bảo tồn giá trị cuả di sản văn hóa nhận được sự quan tâm và chú ý

1


nhiều hơn từ phía các cơ quan nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa của cơ quan có
liên quan, thể hiện qua việc Nhà nước ban hành Luật di sản văn hóa và một hệ
thống các văn bản pháp luật quy định chi tiết các vấn đề liên quan. Bên cạnh đó, các
cơ quan có thẩm quyền đã tiến hành những hoạt động cụ thể thông qua những
chương trình mang tính quốc gia, tiêu biểu như Chương trình mục tiêu quốc gia về
văn hóa…
Mặc dù được triển khai và nhận được sự ủng hộ cũng như đóng góp từ đông
đảo các tầng lớp trong xã hội nhưng công tác quản lý nhà nước về bảo tồn di sản
văn hóa trên thực tế vẫn còn diễn ra khá chậm chạp và tồn tại nhiều hạn chế. Tại
tỉnh Quảng Nam, công tác quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa ở Hội An
trong năm gần đây vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Do vậy, nghiên cứu nội dung quản
lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa cùng với thực trạng của công tác này tại
thành phố Hội An trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn cho tài: “Quản lý nhà nước về bảo tồn
di sản văn hoá từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận
văn thạc sĩ ngành Luật hiến pháp và luật hành chính với mong muốn sẽ góp phần
làm rõ được một số vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp để công tác quản lý nhà
nước về bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn đạt được hiệu quả cao hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là một trong những vấn đề

nổi bật và nhận được rất nhiều sự quan tâm từ mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Dưới góc độ quản lý nhà nước (QLNN) đã có các bài viết, các chuyên đề, tham
luận, tiểu luận về vấn đề này. Cụ thể:
-“Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa - Cơ hội mới, thách thức mới” của
nguyên Bộ trưởng Bộ VH, TT &DL Hoàng Tuấn Anh. Bài viết đã nêu lên một số giải
pháp sát với thực tiễn về quản lý di sản văn hóa mà các địa phương còn hạn chế như:
Đẩy mạnh tổ chức thực thi pháp luật; kiện toàn bộ máy quản lý trông coi di tích ở cơ
sở; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh, kiên quyết các vi phạm
để những quy định của Luật thực sự có hiệu quả và đi vào thực tiễn cuộc sống. Bên
cạnh đó, các cấp, các ngành cần tích cực năng động, sáng tạo trong việc thực hiện các
chương trình, kế hoạch phối hợp liên quan đến QLNN về bảo tồn di sản văn hóa.

2


- “Quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa từ thực tiễn huyện Hoóc Môn”
luận văn thạc sỹ của Huỳnh Thị Thu Thảo. Đề tài tập trung làm rõ việc bảo tồn các
giá trị di sản văn hóa; từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả QLNN
về bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn.
- “Quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh” luận văn thạc sỹ của Phạm Thành Vao, tác giả đã nghiên cứu nội
dung của di sản văn hóa, đó là di tích lịch sử văn hóa. Tác giả tâp trung nghiên cứu
nội dung QLNN đối với di tích; đồng thời, đề xuất một số giải pháp khả thi để hoàn
thiện QLNN đối với di tích lịch sử văn hóa.
- “Di sản văn hóa trong xã hội Việt Nam đương đại” của nhiều tác giả, Nhà
xuất bản Tri thức. Cuốn sách tập hợp chín bài viết về DSVH từ các góc nhìn khác
nhau của các nhà nghiên cứu nhân học và văn hóa học về các những vấn đề đặt ra
đối với DSVH của Việt Nam trong bối cảnh xã hội đương đại.
Ngoài ra, còn một số bài viết trên các tạp chí, các báo về vấn đề bảo tồn và
phát triển DSVH. Có thể kể đến như bài viết “Giải pháp bảo tồn phát huy DSVH

dân tộc” của tác giả Bùi Bạch Đằng - Hoàng Văn Vân đăng trên Tạp chí VHNT số
385, tháng 7-2016. Bài viết đã chỉ ra một số hạn chế trong vấn đề bảo tồn và phát
triển DSVH dân tộc trong quá trình đổi mới và đưa ra một số giải pháp góp phần
nâng cao công tác bảo tồn, phát huy các DSVH dân tộc.
-“Phát triển du lịch gắn với bảo tồn DSVH trong thời kỳ mới” của Nguyễn
Thế Thi trên Tạp chí VHNT số 392, tháng 2-2017 đã chỉ ra vấn đề cân bằng giữa
phát triển du lịch và gìn giữ DSVH và đưa ra một số giải pháp cần thiết. Bên cạnh
đó còn có những tọa đàm, hội thảo về vấn đề này như: Hội thảo quốc tế chủ đề
“Thông điệp từ di sản thế giới ở Quảng Nam - Thực trạng và tương lai” năm 2010
với sự tham dự của nhiều nhà khoa học thuộc cơ quan Hợp tác quốc tế Việt NamNhật Bản JICA, trường Đại học nữ Chiêu Hoà, ĐH Chi Ba (Nhật ) và Việt Nam đã
chỉ ra nhiều vấn đề bất cập ảnh hưởng đến 02 di sản này đang cần được chấn chỉnh.
- Hội thảo khoa học về “Đa dạng sinh thái Mỹ Sơn nhằm bảo tồn gắn với phát
triển bền vững Khu di tích Mỹ Sơn, tỉnh Quảng Nam” do Viện Sinh thái và Bảo vệ
công trình chủ trì vào tháng 8/2016. Hội thảo đã nghiên cứu để xây dựng bộ tiêu chí
đánh giá mô hình cụ thể và những sản phẩm thụ hưởng để đơn vị sở tại tiếp quản áp

3


dụng trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích.
Có thể nhận thấy rõ phần lớn những bài viết, tạp chí, hội thảo của những công
trình nghiên cứu trên đều tập trung nhiều đến nội dung bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa; đối với nội dung QLNN về bảo tồn di sản văn hóa có đề cập đến nhưng góc độ
khai thác chưa sâu. Đặc biệt các nội dung QLNN về bảo tồn di sản văn hóa được quy
định trong Luật Di sản văn hóa hầu như chưa được phân tích, nghiên cứu làm rõ từ
thực tiễn để từ đó tìm ra giải pháp hoàn thiện QLNN ở lĩnh vực này trong giai đoạn
hiện nay.
Hội An là nơi có nhiều di sản văn hóa và chính quyền các cấp của địa phương
đã quan tâm quản lý. Tuy nhiên, số lượng công trình, bài viết trực tiếp đề cập đến
công tác QLNN đối với bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Hội An tỉnh

Quảng Nam khá ít. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài trên để làm công trình nghiên cứu
cho luận văn thạc sĩ của mình và có thể khẳng định việc nghiên cứu đề tài quản lý
nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố Hội
An tỉnh Quảng Nam là một nhu cầu thiết yếu hiện nay và không có sự trùng lặp về
đối tượng và phạm vi nghiên cứu; nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật trên địa bàn các tỉnh trong cả nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; từ đó đề xuất một số giải pháp
mang tính khả thi nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa trên
địa bàn thành phố Hội An tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận quản lý nhà nước về bảo tồn di
sản văn hóa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các di sản văn hóa
của thành phố Hội An; phân tích, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
của những hạn chế.
- Đưa ra những quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao QLNN về
bảo tồn di sản văn hóa.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa từ
thực tiễn thực hiện tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về mặt không gian: Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về di sản văn

hóa tại thành phố Hội An.
+ Về mặt thời gian: Thực trạng quản lý và bảo tồn di sản văn hóa trong giai
đoạn từ năm 2015 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo tồn di sản
văn hóa và những quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về bảo
tồn di sản văn hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, người viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp khảo sát, điền dã: Dựa trên những thông tin thu thập được
trong quá trình khảo sát thực tế tại Hội An, người nghiên cứu rút ra những nhận
định của mình về thực trạng công tác quản lý di sản văn hóa nơi đây.
- Phương pháp phỏng vấn: Qua các buổi gặp gỡ, trao đổi với cán bộ quản lý và
người dân, nghiên cứu thu thập những thông tin, kiến thức trong công tác quản lý,
tôn tạo và phát huy giá trị của di tích.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Trên cơ sở những tài liệu, tư liệu và các
công trình nghiên cứu khoa học về di tích của những tác giả đi trước để lại, những
chính sách, chủ trương trong công tác quản lý của Nhà nước, nghiên cứu thực trạng
quản lý Nhà nước đối với di sản văn hóa và đưa ra những kiến nghị nhằm khắc phục
những khó khăn cần tháo gỡ.
- Phương pháp phân tích: Dựa trên những thông tin đã thu thập được qua công
tác khảo sát điền dã, trực tiếp phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu, phân tích những điểm
mạnh, yếu và những khó khăn cũng như hạn chế, thách thức trong công tác quản lý

5


đối với di sản. Từ đó, đưa ra những hướng khắc phục, phát huy tối đa hiệu quả

trong công tác quản lý.
- Phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu di sản văn hóa và công tác
quản lý di sản, sử dụng phương pháp so sánh với một số di sản khác trong địa bàn,
để thấy được giá trị của di sản cũng như cách quản lý di sản.
- Phương pháp tổng hợp: Từ những thông tin cũng như tư liệu đã thu thập và
nghiên cứu, tiến hành tổng hợp và đánh giá về thực trạng quản lý di sản tại Hội An,
đưa ra những giải pháp có thể khắc phục, tháo gỡ những khó khăn, hạn chế trong
công tác quản lý di sản văn hóa Hội An.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận
Luận văn này có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu, vận dụng các
lý thuyết về quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa làm sáng tỏ, minh chứng
cho các lý thuyết liên quan đến quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa, từ đó
hình thành các quá trình đề xuất các giải pháp chính sách nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả việc thực hiện chính sách đã ban hành.
Đồng thời, luận văn giới thiệu một hướng tiếp cận mới trong lĩnh vực nghiên
cứu về quản lý, bảo tồn di sản văn hóa ở Việt Nam.
6.2. Về thực tiễn
- Hệ thống hóa một số cơ sở lý luận và nghiên cứu thực tiễn, rút ra bài học
kinh nghiệm từ thực tiễn về thực hiện quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
trên địa bàn một số tỉnh, thành phố của Việt Nam.
- Cung cấp thông tin thực tiễn và đề xuất những giải pháp tham khảo đối với
các nhà quản lý về thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa từ thực tiễn thực
hiện tại thành phố Hội An tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa tại thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa


6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lí nhà nước về bảo tồn di sản
văn hóa
1.1.1. Khái niệm về bảo tồn di sản văn hóa, quản lí nhà nước về bảo tồn di
sản văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm về bảo tồn di sản văn hóa
* Khái niệm văn hóa:
Văn hóa là bộ phận hữu cơ trong toàn bộ hoạt động của một chế độ xã hội.
Trong chế độ xã hội có tổ chức, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường, bộ
phận này càng cần được quản lý là định hướng phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Trong khoa học nghiên cứu về văn hóa, khởi đầu từ định nghĩa của E.B.Tylor
trong cuốn Văn hóa nguyên thuỷ (Primitive culture) xuất bản tại London năm 1871,
đến nay đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Vào năm 1952, hai nhà nhân học
người Mỹ là A.Kroeber và C.Kluckhohn đã viết một cuốn sách chuyên bàn về các
định nghĩa văn hóa nhan đề: Văn hóa - tổng luận phê phán các quan niệm và định
nghĩa (Culture: A critical review of concepts and definitions), trong đó đã dẫn ra và
phân tích 164 định nghĩa về văn hóa. Trong lần xuất bản thứ hai của cuốn sách này,
số định nghĩa văn hóa đã tăng lên đến trên hai trăm. Cho đến nay, đã có tới hơn bốn
trăm định nghĩa về văn hóa.
Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng khái niệm văn hóa có thể
quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng,
theo không gian hoặc theo thời gian... Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là

những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hóa, văn hóa nghệ thuật...). Giới hạn
theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực văn
hóa giao tiếp, văn hóa kinh doanh...). Giới hạn theo không gian, văn hóa được dùng
để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hóa Tây Nguyên, văn hóa Nam

7


Bộ...). Giới hạn theo thời gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong từng
giai đoạn (văn hóa Hoà Bình, văn hóa Đông Sơn...)...
Theo nghĩa rộng, văn hóa thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con
người sáng tạo ra, gắn liền với con người. Ở phương Đông, từ “văn hóa” đã có
trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong Kinh Dịch, quẻ bí “Sơn Hoa bi” đã có từ
“văn” và “hóa”: “Quan hồ Thiên văn dĩ sát thời biến Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành
thiên hạ” (Xem vẻ của Trời để biết sự biến đổi của mùa/ Xem dáng vẻ con người để
giáo hóa thiên hạ). Còn theo các nước phương Tây, cụm từ “văn hóa” (cultura) có
nghĩa là sự trồng trọt. Cùng với nhận thức của con người ngày càng được nâng cao,
văn hóa không chỉ bó hẹp trong phạm vi hoạt động nông nghiệp cổ xưa nữa mà đã
phát triển thành ý nghĩa vun trồng, bồi đắp hoạt động tinh thần của con người. Năm
1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng
ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[6]. Chính từ những hoạt động này, nhân
loại tạo ra các giá trị, các chuẩn mực. Những giá trị và chuẩn mực đó sẽ tạo nên một
môi trường thứ hai, nuôi dưỡng sự hình thành nhân cách con người.
Theo Nguyên Tổng Thư ký UNESCO, Federico Mayor: “Đối với một số
người, văn hóa chi bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và

sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân
tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín
ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động” [12]. Cách hiểu này đã được
cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa
học năm 1970 tại Venice.
Theo đó, văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người. Nói tới văn hóa
là nói tới con người, nói tới việc phát huy các năng lực bản chất con người và nhằm
hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Vì vậy, khái niệm văn hóa chứa đựng tính
chất nhân văn. Văn hóa gắn liền với trí tuệ, đạo đức và lương tâm.

8


*Khái niệm về di sản văn hóa:
Trong đời sống văn hóa, di sản văn hóa là bộ phận nòng cốt, là nơi lưu giữ
kiên cố bản sắc dân tộc. Đồng thời, đây cũng là cơ sở tiền đề quan trọng để sáng tạo
ra những giá trị văn hóa mới của xã hội hiện đại. Có thể nói, di sản văn hóa là tổng
thể những tài sản văn hóa truyền thống trong hệ thống giá trị của nó, được chủ thể
nhận biết và đưa vào sử dụng nhằm đáp ứng những nhu cầu và đòi hỏi của hiện tại.
Không phải tất cả các sản phẩm văn hóa đều trở thành di sản văn hóa mà chỉ những
sản phẩm văn hóa nào hàm chứa những mặt giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và
khoa học đã được tích lũy, tinh lọc qua nhiều thế hệ trong suốt chiều dài lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc mới xứng đáng được tôn vinh là di sản văn hóa.
Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10, ngày 29/6/2001 và Luật số
32/2009/QH12, ngày 18/6/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn
hóa đã đưa ra định nghĩa về bảo tồn di sản văn hóa. Tại Điều 1, Luật Di sản văn hóa
của Việt Nam nêu rõ: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản
văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học
được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam”[59].Qua định nghĩa này ta có thể thấy, di sản văn hóa luôn luôn chứa đựng

trong mình quá khứ, lịch sử hay còn có thể gọi là ký ức văn hóa của mỗi dân tộc.
DSVH là của cải, là tài sản quốc gia mà mọi công dân phải có nghĩa vụ bảo vệ, giữ
gìn. DSVH là yếu tố cốt lõi của văn hóa, chuyển tải bản sắc văn hóa của một cộng
đồng xã hội.
Nếu như ở Việt Nam, di sản văn hóa được định nghĩa một cách cụ thể trong
Luật với đầy đủ các tính chất của nó, thì ở một số quốc gia khác, di sản văn hóa còn
được luật hóa với tư cách là “tài sản văn hóa”.
Chẳng hạn như ở Nhật Bản, một đất nước nổi bật với nhiều sản phẩm văn hóa
truyền thống đặc sắc, bên cạnh đó cũng có nhiều nét tương đồng với Việt Nam
trong tiến trình lịch sử - văn hóa phương Đông, không có định nghĩa chính xác về
bảo tồn di sản văn hóa, mà thay vào đó, các nhà làm luật đã thông qua việc quy định
về quyền sở hữu đối với tài sản văn hóa để cụ thể hóa quan niệm này.
Trong Bộ luật bảo tồn các tài sản văn hóa (1950) của Nhật Bản quy định: Mọi
tài sản văn hóa đều thuộc quyền sở hữu của các công dân, các cơ quan sự vụ, các tổ

9


chức chính phủ và phi chính phủ. Việc công nhận quyền của các chủ sở hữu được
đảm bảo bằng “Giấy chứng nhận” do Bộ trưởng Bộ Giáo dục cấp. Bộ luật cũng quy
định cụ thể: Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp phải tôn trọng quyền của
các chủ sở hữu và quyền sở hữu của những người có liên quan. Ngoài ra, di sản văn
hóa không những được coi là tài sản văn hóa, mà còn được xác định là một thứ văn
hóa đặc biệt, dù thuộc về chủ sở hữu cụ thể nhưng giá trị của nó luôn là tài sản quốc
gia. Khoản 2 Điều 4 Bộ luật này quy định: “Các chủ sở hữu tài sản văn hóa cùng
những người có liên quan sẽ chịu trách nhiệm bảo quản chúng một cách tốt nhất và
khai thác các giá trị văn hóa của chúng với một ý thức đầy đủ rằng: Đó là những tài
sản quý báu của quốc gia”[72]. Như vậy, từ một khái niệm triết học, các vật thể
mang giá trị văn hóa (di sản văn hóa) đã được gọi là tài sản văn hóa (thuật ngữ luật
học).

- Phân loại di sản văn hoá: Việc tiến hành phân loại DSVH là một nhu cầu
thiết thực, khoa học, góp phần hỗ trợ, nâng cao hiệu quả trong nghiên cứu, đặc biệt
đối với công tác tu bổ, bảo tồn các DSVH. Xuất phát từ nhu cầu của con người (nhu
cầu vật chất và nhu cầu tinh thần) mà con người cũng có hai loại hoạt động cơ bản
là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Từ đó, văn hóa nói chung thường được
chia làm hai dạng: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Cũng như vậy, đối với di sản văn hóa, tuy có nhiều hình thức để tồn tại nhưng
hai hình thái di sản chính đã được thế giới thống nhất và định nghĩa, đó là: Di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể. Căn cứ vào quy định tại Công ước về việc bảo vệ di
sản văn hóa và thiên nhiên ngày 16/11/1972 và Công ước về bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể ngày 17/10/2003 của UNESCO, có thể hiểu rằng:
Di sản “văn hóa vật thể” (tangible culture) là những sản phẩm văn hóa hữu
hình, tồn tại dưới dạng vật thể, có hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng,
đường nét, màu sắc và kiểu dáng... tồn tại trong không gian và thời gian xác định.
Là sản phẩm được tạo tác từ bàn tay con người, di sản văn hóa vật thể mang dấu ấn
lịch sử xã hội rõ rệt. Chúng luôn chịu sự thách thức, bào mòn của quy luật thời gian
và luôn đứng trước nguy cơ biến dạng hoặc thay đổi rất nhiều so với nguyên gốc.
Do đó, vấn đề bảo tồn di sản văn hóa vật thể đang gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi
phải có công nghệ kỹ thuật cao mới có thể bảo tồn hoặc phục hồi nguyên trạng.

10


Di sản “văn hóa phi vật thể” (intangible culture) là dạng thức tồn tại của văn
hóa tiềm ẩn trong trí nhớ, ký ức cộng đồng, tập tính, hành vi ứng xử của con người
và thông qua các hoạt động của con người trong quá trình sản xuất, giao tiếp xã hội
mà thể hiện ra. Đặc trưng rõ nhất của văn hóa phi vật thể là luôn luôn chìm khuất
trong tâm thức của một cộng đồng xã hội và chỉ bộc lộ qua hành vi và hoạt động
của con người.
Trên tinh thần hai công ước trên, Luật Di sản Văn hóa Việt Nam đã đưa ra quy

định cụ thể về hai loại di sản này. Trong đó, di sản văn hóa vật thể là những sản
phẩm vật chất có giá trị lịch sử văn hóa, khoa học, gồm có:
i) Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm các đinh, đền, chùa, miếu... đã được xếp hạng di tích. Ví dụ như:
Thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội), Cửa Ô Quan Chưởng (Hà Nội), Chùa Đồng
(Yên Tử - Quảng Ninh)...
ii) Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp
giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa
học như Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), động Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình)...
iii) Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia như Trống đồng Đông Sơn, các cô vật điêu
khắc Chăm pa cổ (phù điêu nữ thần Mahasamadhi, tượng nữ thân Ganesa mình
người đầu voi...)
Trong số các di sản vật thể này, có không ít di sản đã được UNESCO ghi nhận
vào Danh mục di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Đó là:
- Di sản thiên nhiên thế giới: Vịnh Hạ Long (1994, 2000), Vườn Quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng (2003)
- Di sản văn hóa thế giới: Quần thể di tích Huế (1993), Khu phố cổ Hội An
(1999), Khu di tích Chăm - Mỹ Sơn (1999), khu di tích trung tâm Hoàng thành
Thăng Long (2010), Thành nhà Hồ (2011)
- Di sản tư liệu thế giới: Mộc bản triều Nguyễn (2009), Bia đá các khoa thi
tiến sĩ triều Lê và Mạc tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (2010), Mộc bản Kinh Phật
thiền phái Trúc Lâm - chùa Vĩnh Nghiêm (2012). Mới đây nhất là Châu bản triều
Nguyễn, được công nhận là Di sản tư liệu Chương trình Ký ức thế giới Khu vực

11


Châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO (14/5/2014).
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá

nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức
khác, bao gồm: Tiếng nói, chữ viết; Ngữ văn dân gian; Nghệ thuật trình diễn dân
gian; Tập quán xã hội và tín ngưỡng; Lễ hội truyền thống; Nghề thủ công truyền
thống; Tri thức dân gian (Điều 2 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản Văn hóa, sau đây gọi tắt là Nghị
định số 98/2010/NĐ CP). Trong đó Việt Nam đã có 8 di sản phi vật thể đã được
UNESCO công nhận là di sản phi vật thể thế giới, đó là: Nhã nhạc cung đình Huế
(2003), Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (2005) và Dân ca quan họ Bắc
Ninh (2009), Ca trù (2009), Hội Gióng ở Sóc Sơn (2010); Hát xoan Phú Thọ (2011),
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (2012), gần đây nhất là Đờn ca tài từ Nam Bộ
(2013).
Sự tách biệt di sản văn hóa thành di sản vật thể (vật chất) và phi vật thể (tinh
thần) trên đây tưởng chừng như rất rõ ràng, song trên thực tế lại chỉ mang tính
tương đối bởi vì trong một số trường hợp rất khó để phân biệt được di sản vật thể
hay phi vật thể. Trong sự đa dạng của di sản văn hóa phi vật thể, có một bộ phận
gắn chặt với di sản văn hóa vật thể. Hai hình thức tồn tại của di sản văn hóa (vật thể
và phi vật thể) hóa quyện với nhau trong một thể thống nhất. Ở đó, di sản vật thể
xuất hiện như là biểu hiện vật chất của di sản phi vật thể, còn di sản phi vật thể lại
tồn tại như là biểu hiện tinh thần của di sản vật thể đó. Nhìn lại lịch sử hình thành,
tồn tại và phát triển của các di tích lịch sử văn hóa, chúng ta có thể thấy các di tích
này ra đời trước hết xuất phát từ những nhu cầu tinh thần, nổi bật nhất là nhu cầu tín
ngưỡng - tôn giáo và nhu cầu tôn vinh, tưởng niệm của con người. Điều này không
chỉ thấy ở nước ta, mà còn phổ biến trên toàn thế giới (kiến trúc Hin-đu giáo tại
Ăng-ko, kiến trúc Phật giáo tại Campuchia, các công trình kiến trúc tháp Chăm ở
miền Trung nước ta...).
* Khái niệm về bảo tồn di sản văn hóa:
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức


12


vốn có của nó. Đối tượng bảo tồn (tức là các giá trị DSVH vật thể và phi vật thể)
cần thỏa mãn hai điều kiện:
- Phải được nhìn là tinh hoa, là một “giá trị” đích thực được thừa nhận minh
bạch, không có gì phải hồ nghi hay bàn cãi.
- Phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu dài tức là có giá
trị lâu dài trước những biến đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con
người, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay với chính sách mở cửa
và bối cảnh nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra cực kỳ sôi
động.
Như vậy, từ khái niệm về văn hóa, di sản văn hóa, bảo tồn di sản văn hóa có
thể được hiểu là việc bảo vệ và giữ gìn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
mang giá trị vật chất, giá trị tinh thần được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Bảo tồn DSVH là vấn đề quan trọng của chính sách văn hóa nhằm hướng tới xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần vào việc
giữ gìn và làm phong phú cho kho tàng DSVH nhân loại, là động lực tích cực để
xây dựng và phát triển đất nước.
1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
Dưới góc độ khoa học, khái niệm về “quản lý” có nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý có thể hiểu là hoạt động tác
động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý tới những đối tượng
quản lý để điều chỉnh chúng vận động và phát triển theo những mục tiêu nhất định
đã đề ra.
Quản lý di sản văn hóa được hiểu là tất cả những hoạt động nhằm bảo vệ, giữ
gìn, khai thác di sản của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân. Trong đó, có
những hoạt động tác động trực tiếp tới di sản như cất giữ, bảo quản, tôn tạo di sản...
Do sự đa dạng của di sản văn hóa nước ta nên phạm vi chủ thể của hoạt động này
rất khác nhau, có thể là các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị của Nhà nước

hoặc cũng có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào trong xã hội. Mặc dù tất cả những
hoạt động này đều phải tuân theo quy định của pháp luật nhưng đây không phải là
quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa.
Là một phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước, quản lý nhà nước ra

13


đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội. Quản lý nhà nước là hoạt động do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật; nhân
dân và các tổ chức xã hội chỉ có thể tham gia quản lý nhà nước khi được Nhà nước
trao quyền thực hiện chức năng Nhà nước. Quản lý nhà nước ở đây được hiểu là sự
quản lý có tính chất quyền lực của Nhà nước, do Nhà nước thực hiện thông qua các
cơ quan nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước. Quản
lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động: hoạt động lập pháp của cơ quan lập
pháp, hoạt động hành chính (chấp hành và điều hành) của hệ thống hành pháp và
hoạt động tư pháp của hệ thống tư pháp.
Quản lý nhà nước xét ở khía cạnh hoạt động chấp hành và điều hành là hoạt
động quản lý hành chính nhà nước, hay nói cách khác quản lý hành chính nhà nước
là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước. Đó là sự tác động có tổ chức
và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở pháp luật đối với hành vi hoạt
động của con người và các quá trình xã hội, do các cơ quan trong hệ thống hành
chính nhà nước từ trung ương đến địa phương tiến hành để thực hiện những mục
tiêu, chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Từ bản chất của quản lý nhà nước, bảo tồn và di sản văn hóa có thể đưa ra
định nghĩa chung nhất về quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa đó là: Quản lý
nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa là hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm giữ gìn và
phát huy giá trị của di sản văn hóa Việt Nam.
1.1.2. Đặc điểm của quản lí nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa

Thứ nhất, chủ thể quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa là cơ quan có
thẩm quyền.
Nhà nước Việt Nam được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến các địa
phương, quyền quản lý được phân cấp: Cấp trung ương, cấp tỉnh (tỉnh và các thành
phố trực thuộc Trung ương), cấp huyện (huyện thuộc tỉnh, quận thuộc thành phố),
cấp xã (xã thuộc huyện, phường thuộc quận). Quản lý nhà nước về bảo tồn di sản
văn hóa ở cấp nào thì cơ quan nhà nước cấp ấy là chủ thể quản lý. Quản lý nhà nước
về bảo tồn di sản văn hóa ở cấp xã thì ủy ban nhân dân xã là chủ thể quản lý nhà
nước. Công chức làm công tác văn hóa - xã hội ở cấp xã có trách nhiệm giúp ủy ban

14


nhân dân cấp xã quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn cấp xã.
Trong phạm vi nhất định, các cơ quan này có thể giao một phần chức năng quản lý
của mình cho các tổ chức xã hội, khi đó các tổ chức xã hội này cũng trở thành chủ
thể quản lý hành chính nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa.
Thứ hai, khách thể quản lý nhà nước về văn hóa là văn hóa và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến lĩnh vực văn
hóa.
Văn hóa với tư cách là khách thể quản lý được hiểu theo nghĩa cụ thể là: các
hoạt động văn hóa (trong đó có các dịch vụ văn hóa, hoạt động sáng tạo…) và các
giá trị văn hóa (cụ thể là các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể). Mặt khác, theo
sự phân công trong hệ thống các cơ quan nhà nước các cấp, không phải toàn bộ hoạt
động văn hóa hiểu theo nghĩa rộng đều do ngành văn hóa quản lý. Văn hóa giáo
dục, khoa học công nghệ… do cơ quan giáo dục, khoa học công nghệ quản lý.
Thứ ba, mục đích quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa là giữ gìn và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam.
Ngoài việc giữ gìn và phát huy những giá trị của DSVH thì bảo tồn DSVH còn
có mục đích tiếp thu tinh hoa văn hóa truyền thống của Việt Nam tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý nhà nước văn hóa ở từng cấp, từng địa phương,
từng hoạt động thì mục đích quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa phải được
xác định cụ thể sát với yêu cầu nhiệm vụ và hoàn cảnh của địa phương. Ví dụ quản
lý nhà nước về Chương trình mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở thì cấp
trung ương mục đích là gì; cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã là gì, phải được xác định một
cách cụ thể. Có như vậy hoạt động quản lý mới hiệu quả.
Thứ tư, hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa là hoạt động
mang tính chủ động và sáng tạo.
Căn cứ vào tình hình, đặc điểm của di sản văn hóa, việc quản lý cũng như điều
kiện, các yếu tố xoay quanh từng trường hợp cụ thể mà các chủ thể quản lý nhà
nước có thể đề ra các chủ trương, biện pháp quản lý thích hợp.
Tính chủ động sáng tạo còn thể hiện rõ nét trong hoạt động xây dựng, ban
hành văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa.

15


Đây là đặc điểm tồn tại bởi chính bản thân sự phức tạp, đa dạng, phong phú của di
sản văn hóa – đối tượng quản lý nhà nước; đồng thời đòi hỏi chủ thể quản lý phải áp
dụng biện pháp giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả nhất. Tuy
nhiên, chủ động và sáng tạo không vượt ra ngoài phạm vi pháp luật quy định.
1.1.3. Vai trò của quản lí nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
Văn hóa được xem là một yếu tố then chốt trong phát triển kinh tế. Kinh tế
tăng trưởng bền vững phải gắn liền với phát triển văn hóa. Để phát huy vai trò, giá
trị của văn hóa, trong đó quan trọng nhất là di sản văn hóa sao cho phát triển tương
xứng với kinh tế - xã hội thì cần thiết phải hoàn thiện và nâng cao hiệu quả QLNN
về bảo tồn di sản văn hóa. Chỉ có Nhà nước mới có đủ khả năng quản lý, tạo tiền đề
và điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị di sản văn hóa. Nhà nước cần thiết phải quản lý đối với di sản văn hóa nhằm

bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa theo quan điểm, mục tiêu của Đảng và Nhà
nước. Việc quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa có vai trò vô cùng to lớn, cụ
thể đó là:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa góp phần gìn giữ và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
DSVH Việt Nam là tài sản quý giá của nước ta và là một bộ phận của DSVH
nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Hiện nay, vấn đề QLNN để bảo tồn DSVH có ý nghĩa vô cùng quan trọng và được
xem là một trong những nhiệm vụ cấp thiết của toàn xã hội. Vì thế, cần nâng cao
trách nhiệm của cơ quan quản lý, sự phối hợp giữa các ban ngành đoàn thể với các
nhà chức trách chuyên môn quản lý trực tiếp để có các biện pháp, kế hoạch, định
hướng đúng đắn, thiết thực nhằm gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc gắn với sự phát
triển xã hội. QLNN về bảo tồn DSVH có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
hoàn chỉnh hệ thống chính sách về di tích, di sản nhất là những chính sách về giữ
gìn các yếu tố gốc đậm đà bản sắc dân tộc; Giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn bản
sắc và phát triển. Từ đó, nâng cao vai trò quản lý và hoàn thiện thể chế, định hướng
của Nhà nước, sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội hóa để bảo tồn DSVH.
Nguyên tắc cơ bản để giải quyết mối quan hệ này là cố kết các chính sách phát
triển kinh tế và xã hội, bảo vệ gắn với phát huy giá trị di tích đối với xã hội. Đặc

16


biệt, trong điều kiện hiện nay, việc quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá
dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào
dân tộc càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Thời gian qua, Việt Nam đã chủ động tích
cực triển khai việc nghiên cứu, sưu tầm, quản lý bảo vệ và phát huy các giá trị
DSVH trên địa bàn cả nước góp phần thực hiện tốt các mục tiêu lớn về văn hóa làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá
trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ hai, quản lý nhà nước về việc bảo tồn di sản văn hóa góp phần phát triển
kinh tế
DSVH chính là một bộ phận cấu thành kho tàng DSVH nhân loại và là nguồn
lực để phát triển kinh tế nói chung, ngành du lịch nói riêng. Trong lĩnh vực văn hóa
vật thể, Đảng ta chỉ ra nhiệm vụ “Bảo tồn, tôn tạo các DSVH tiêu biểu, phục vụ
giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy DSVH với
phát triển du lịch”. Vì thế, các địa phương đã chú trọng thực hiện mục tiêu “biến di
sản thành tài sản” góp phần tạo ra những loại hình sản phẩm du lịch mới, hấp dẫn
hơn, chân thực hơn trên nền tảng là văn hóa truyền thống hấp dẫn du khách trong và
ngoài nước. Cần phải xác định rõ quan điểm phát triển du lịch trên cơ sở khai thác
giá trị di tích là luôn gắn công tác bảo tồn tính đa dạng, gìn giữ các giá trị DSVH
với việc khai thác phục vụ du lịch; hay nói cách khác phát triển du lịch vì mục tiêu
văn hoá; đồng thời, việc bảo vệ tôn tạo di tích phải hướng tới phục vụ ngày càng tốt
hơn các đối tượng đến tham quan nghiên cứu, trong đó có khách du lịch gắn với
mục tiêu: Giáo dục truyền thống lịch sử và lòng tự hào yêu quê hương đất nước;
giới thiệu cho du khách về lịch sử, văn hoá, thiên nhiên.
Các địa phương trên cả nước xác định du lịch là một ngành kinh tế có định
hướng, phát triển lâu dài, khai thác các giá trị tài nguyên du lịch về DSVH gắn với
các công trình kiến trúc đền chùa, miếu mạo là DSVH, lễ hội truyền thống tạo ra
các sản phẩm du lịch hấp dẫn, tạo thêm cơ sở cho hội nhập, phát triển, phục vụ tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế. Khai thác các DSVH đúng tiềm năng góp phần vào việc
phát triển du lịch văn hoá, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân
dân. Từ đó, từng bước làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội, thúc đẩy quá trình phát
triển ngày càng năng động của đất nước. Tất cả những giá trị tốt đẹp của văn hóa

17


thông qua hoạt động du lịch có thể tạo nên sự phát triển tích cực nhất đối với con
người và xã hội. Kinh tế du lịch phát triển đem lại nhiều cơ hội cho việc bảo tồn,

phát huy giá trị di sản như nguồn lợi kinh tế, các dự án quy hoạch bảo tồn và phát
huy giá trị di tích được triển khai. Bởi vậy, có thể nói kinh tế du lịch phát triển tạo
điều kiện để bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của DSVH.
Thứ ba, quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa góp phần phát triển xã hội
DSVH chính là một trong những cội nguồn sức sống tiềm tàng to lớn của dân
tộc được tạo ra trong quá khứ, cần phải được bảo vệ, duy trì và phát huy trong xã
hội hiện đại. DSVH được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là nguồn
lực của sự phát triển xã hội đã ngày càng được thể hiện rõ trong nhận thức và thực
tiễn đời sống. Trong đó, DSVH biểu hiện sức sống, sự phát triển, sự hiểu biết và trí
tuệ, đạo lý, truyền thống của con người, của dân tộc trong mối quan hệ giữa con
người với con người, với xã hội, với tự nhiên được xây dựng và bồi đắp trong suốt
chiều dài lịch sử dân tộc. Giữ gìn và phát huy giá trị DSVH là bảo vệ, bồi đắp nền
tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh của xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững
đất nước đang được các địa phương hết sức quan tâm.
Để việc khai thác và phát huy giá trị DSVH có hiệu quả, đem lại nguồn lợi
hữu ích, thiết thực cho xã hội cần đảm bảo sự hài hòa trong công tác bảo tồn, phát
huy. Vì thế, trên cơ sở nền tảng của chính sách Nhà nước phải có các giải pháp phát
triển, chủ động để tìm hướng đi phù hợp góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. DSVH
có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay. Đó là những giá trị tinh túy, mang vẻ đẹp bản sắc truyền thống của
dân tộc góp phần làm giàu nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Việc khai
thác có hiệu quả nguồn tài nguyên DSVH không chỉ thu được nguồn lợi kinh tế trực
tiếp, giải quyết vấn đề xã hội và còn đem lại hiệu quả cao trong hoạt động giới
thiệu, quảng bá về văn hóa, con người Việt Nam, góp phần vào việc giữ gìn và phát
huy giá trị DSVH một cách hiệu quả nhất. Các hoạt động về gìn giữ, bảo tồn và
phát huy các giá trị DSVH như một mạch nguồn tự thân, duy trì và tạo nên sức sống
mãnh liệt.Vì thế, hoạt động và khai thác giá trị tiềm năng của các DSVH cần chú
trọng đến phát triển bền vững của du lịch, văn hóa và cả môi trường một cách hiệu
và nhân văn.


18


Thứ tư, quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa góp phần ổn định môi
trường
Các DSVH hầu hết là các công trình xây dựng từ lâu nên luôn chịu nhiều tác
động từ môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Trong quá trình tồn tại, các di
tích luôn phải đối mặt với nhiều nguy cơ, dẫn tới sự xuống cấp, hư hỏng theo thời
gian; cùng với đó là những nguy cơ đe dọa đến sự bền vững của môi trường tại khu
vực di tích. Do đó, một trong một mục đích của QLNN về bảo tồn di sản di tích là
hạn chế những tác động xấu của các di tích trước những tác động xấu của môi
trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Bên cạnh đó, hầu hết các DSVH đều nằm
gần các khu dân cư, do quá trình lịch sử cũng như quá trình đô thị hóa mạnh mẽ giai
đoạn gần đây, nên nhiều di tích bị lấn chiếm nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến môi
trường cảnh quan di tích cũng như môi trường sống của người dân. Một trong
những nhiệm vụ QLNN về bảo tồn DSVH là hoạt động chống lấn chiếm, giải phóng
mặt bằng, tái định cư dân sống trong khu vực khoanh vùng bảo vệ di tích và khu
vực bảo vệ cảnh quan. Vì thế, QLNN về bảo tồn DSVH còn góp phần ổn định môi
trường sống cho người dân và tạo cảnh quan môi trường xung quanh cho di tích.
1.2. Chủ thể tham gia quản lý hành chính nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
Các cơ quan có chức năng quản lý hành chính nhà nước về di sản văn hóa
được quy định tại Điều 55 Luật Di sản Văn hóa, bao gồm: Chính phủ, Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp.
* Chính phủ
Chính phủ thống nhất quản lý hành chính nhà nước về di sản văn hóa, thi hành
các biện pháp để bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa, bảo trợ phát triển các
nghệ nhân, chống việc truyền bá tư tưởng phản động, đồi trụy, bài trừ hủ tục, mê
tín... Trong quá trình thực hiện quản lý, Chính phủ có một số quyền hạn cụ thể như:
Trình dự án luật, pháp lệnh về di sản văn hóa, quyết định kế hoạch giữ gìn, phát
triển các di sản văn hóa, quyết định chính sách đầu tư, tài trợ, hợp tác với nước

ngoài... .
Với cương vị là người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng ban hành các nghị
quyết, nghị định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có quyền định chỉ việc thi
hành hoặc bãi bỏ những quyết định về quản lý di sản văn hóa của Bộ trưởng Bộ

19


×