Tải bản đầy đủ (.doc) (177 trang)

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.55 KB, 177 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGÔ THỊ HƯƠNG

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGÔ THỊ HƯƠNG

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN
TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC
VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC


MÃ SỐ: 9229001

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS, TS. Nguyễn Văn Huyên
2. PGS, TS. Bùi Thị Thanh Hương

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào.
Tác giả luận án

Ngô Thị Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.........................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.................................................3
5. Đóng góp mới của luận án...........................................................................5
6. Ý nghĩa của luận án.....................................................................................5
7. Kết cấu của luận án......................................................................................5

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN............6
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án................................6
1.1.1. Nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa các
dân tộc thiểu số.............................................................................................6
1.1.2. Nghiên cứu về giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số vùng Đông Bắc.............................................................................22
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra đối với luận án.........26
Tiểu kết chương 1...........................................................................................30
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN
HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM...........31
2.1. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.....................................................31
2.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa............................................................31
2.1.2. Những vấn đề cơ bản của bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số..........41
2.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng
Đông Bắc........................................................................................................44
2.2.1. Bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc...................44
2.2.2. Thực chất của việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu
số vùng Đông Bắc..........................................................................................66


2.3. Những yếu tố tác động đến việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc thiểu số........................................................................................76
Tiểu kết chương 2...........................................................................................80
Chương 3: THỰC TRẠNG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN
HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM...............81
3.1. Thành tựu của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số vùng Đông Bắc.................................................................................81
3.1.1. Thành tựu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể..........82
3.1.2. Thành tựu của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi

vật thể..........................................................................................................87
3.2. Hạn chế của giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số
vùng Đông Bắc................................................................................................94
3.2.1. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể.........94
3.2.2. Hạn chế của việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật
thể................................................................................................................98
3.3. Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc........................104
3.3.1. Nguyên nhân của thực trạng giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc................................................104
3.3.2. Một số vấn đề đặt ra.......................................................................119
Tiểu kết chương 3...........................................................................................124
Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM..............................................125
4.1. Một số quan điểm nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc.............................................125


4.1.1. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số theo nguyên
tắc thống nhất trong đa dạng và tiên tiến hóa nền văn hóa Việt Nam..........125
4.1.2. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào................................128
4.1.3. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số bằng
việc phát huy vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số..................130
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc................................133
4.2.1. Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hình thức, nội dung giáo dục,
tuyên truyền về việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu
số...............................................................................................................133

4.2.2. Xây dựng đội ngũ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số................................139
4.2.3. Đầu tư một cách cân xứng, hài hòa giữa nguồn lực kinh tế và
nguồn lực phát triển văn hóa...................................................................141
4.2.4. Nâng cao trình độ, năng lực của đồng bào các dân tộc thiểu số với
tư cách là chủ thể của giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc
mình...........................................................................................................144
Tiểu kết chương 4...........................................................................................148
KẾT LUẬN...................................................................................................149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................152
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
VH
VHDT
BSVH
BSVHDT
DT
BSDT
DTTS

: Văn hóa
: Văn hóa dân tộc
: Bản sắc văn hóa
: Bản sắc văn hóa dân tộc
: Dân tộc
: Bản sắc dân tộc
: Dân tộc thiểu số



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
VH tạo nên diện mạo đặc thù của mỗi một DT. Khi nhắc đến một DT
nào người ta thường nghĩ đến nền VH của DT đó, cũng như muốn tìm hiểu một
DT nào, cách tốt nhất là tìm hiểu nền VH của họ, vì nó là hồn cốt của DT, là nét đặc
trưng căn bản để phân biệt DT này với DT khác. BSVH của mỗi DT chính là cái
cốt lõi, đặc trưng, bản chất nhất của VHDT, nó là bản chất, linh hồn, cốt cách, bản
lĩnh của một DT. Do đó, giữ được BSVH thì DT còn, mất BSVH thì có thể DT đó
mất vĩnh viễn.
Chính vì vậy Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chủ trương xây dựng nền VH
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc DT - thực chất, đó là xây dựng, phát triển, giữ
gìn BSDT Việt Nam, trong đó có BSVH các DT.
Ngày nay, xã hội hiện đại với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển khoa
học - công nghệ, kinh tế thị trường... đang tác động nhiều tới BSVHDT nói chung,
BSVH tộc người nói riêng. BSVH các DTTS cũng đang đứng trước những thách
thức, có nguy cơ mai một, lệch lạc, mờ nhạt... Nhiều yếu tố không lành mạnh thâm
nhập vào nhận thức và cuộc sống vốn trong lành của đồng bào các DTTS, tạo nên
sự lai tạp trong cách nghĩ, lối sống của đồng bào, có xu hướng làm mờ nhạt và mất
đi BSVH truyền thống vốn có của các DTTS.
Vùng Đông Bắc Việt Nam là vùng đất sinh sống của hơn hai mươi DT, chủ
yếu là các DTTS không nằm ngoài xu thế chung của cả nước. BSVH của đồng bào
các DTTS nơi đây vô cùng phong phú, đa dạng về các sắc thái biểu hiện thông qua
các giá trị VH vật thể và VH phi vật thể nhưng đều chứa đựng những giá trị VH đặc
trưng, cốt lõi tồn tại lâu đời trong lịch sử như tinh thần đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ lẫn
nhau; lối sống giản dị, mộc mạc, chân tình, hài hòa với con người, với thiên nhiên
núi rừng Đông Bắc; sự sáng tạo, cần cù, chịu khó trong lao động, sự thích ứng cao
với thiên nhiên có phần khắc nghiệt và luôn biết cách đảm bảo sự cân bằng tâm lý...
Những giá trị VH này đã tạo nên cốt cách, bản lĩnh của cả cộng đồng các DTTS

vùng Đông Bắc, giúp cho đồng bào tồn tại, phát triển bền vững trong lịch sử. Bối
cảnh và các điều kiện của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhất là quá trình phát


2
triển kinh tế thị trường và xây dựng xã hội hiện đại ở nước ta hiện nay, một mặt đã
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho đồng bào các DTTS tiếp tục duy trì, tồn tại,
phát triển các giá trị VH theo hướng hiện đại, mặt khác cũng làm cho các giá
trị VH đó bị pha tạp, biến đổi thậm chí mai một, mất dần BSVHDT như một
thách thức lớn.
Tình hình đó đang đặt ra vấn đề bức xúc hiện nay là làm thế nào để hội nhập
quốc tế và phát triển kinh tế thị trường, xây dựng xã hội hiện đại để phát triển nhanh
mà vẫn giữ gìn và phát huy được BSVH các DTTS; làm thế nào để giữ gìn, phát huy
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc một cách hiệu quả để biến sức mạnh VH vùng
Đông Bắc vào sức mạnh chung của sự phát triển đất nước; giải pháp nào để có thể
nâng cao hiệu quả việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc góp
phần đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới? Vấn đề này có ý nghĩa thiết thực đối
với sự phát triển vùng Đông Bắc nói riêng và cả nước nói chung, bởi “VH thực sự là
nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự
phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”[34]. Với lý do đó, nghiên cứu sinh
chọn vấn đề “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số vùng
Đông Bắc Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích của luận án
Trên cơ sở lý luận về giữ gìn và phát huy BSVH, luận án phân tích để làm rõ
thực trạng của việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam
hiện nay; từ đó đưa ra một số quan điểm và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS ở đây.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và xác định

những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết.
+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về BSVH các DTTS và việc
giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam.
+ Phân tích làm rõ thực trạng của việc giữ gìn, phát huy BSVH các


3
DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng
đó và xác định những vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy BSVH
các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay.
+ Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
của việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc Việt Nam trong thời
gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS
vùng Đông Bắc Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận án nghiên cứu việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS vùng
Đông Bắc nước ta trong thời kỳ đổi mới, khi Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
+ Vùng Đông Bắc theo sự phân chia của Tổng cục Thống kê gồm 10
tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Yên
Bái, Lào Cai, Bắc Giang, Phú Thọ. Tuy nhiên, luận án chỉ nghiên cứu BSVH các
DTTS ở 6 tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc
Kạn vì ở đó đậm nét các BSVH vùng này.
+ BSVH các DTTS vùng Đông Bắc được thể hiện hết sức đa dạng.
Trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ, luận án chỉ tập trung nghiên cứu BSVH
đó ở một số khía cạnh của VH vật thể và VH phi vật thể; chủ thể, nội dung,
cách thức giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS.
+ Trong các Văn kiện của Đảng và Nhà nước ta, thuật ngữ “dân tộc”

được sử dụng với cả nghĩa rộng để chỉ DT quốc gia (nation) và cả nghĩa hẹp
để chỉ tộc người (ethnic). Trong luận án này, thuật ngữ các DTTS được sử
dụng đồng nghĩa với khái niệm tộc người (ethnic) - tức là theo cách gọi chung
ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận.
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,


4
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về việc giữ gìn và phát huy BSVH các DTTS trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, DTTS vùng Đông Bắc
nói riêng. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa
học, tài liệu tổng kết thực tiễn của cơ quan Đảng, Nhà nước và địa phương
liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu.
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
và các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: lịch sử và logic, phân tích
và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, lý luận gắn với thực tiễn, tham quan,
quan sát thực tế…, cụ thể:
Luận án sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để nhìn nhận sự
vật, hiện tượng VH, BSVH vùng Đông Bắc ở trạng thái vận động, phát triển;
giữa các hiện tượng VH có mối quan hệ biện chứng với nhau; các sự vật, hiện
vật VH đều phải rất cụ thể và chúng tồn tại trong điều kiện lịch sử nhất định.
Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng để nghiên cứu các hiện tượng
VH, BSVH trong mối quan hệ với tồn tại xã hội và nó chịu sự tác động, quy
định bởi tồn tại xã hội.
Phương pháp kết hợp phân tích và tổng hợp được sử dụng để làm rõ các
khái niệm ở chương 2 như khái niệm VH, BSVH, BSVH các DTTS....

Các phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử và logic, so sánh còn được
sử dụng trong việc đánh giá về thực trạng giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS
vùng Đông Bắc hiện nay.
Phương pháp tham quan, quan sát thực tế các bảo tàng, các lễ hội, một số
địa bàn vùng đồng bào các DTTS sinh sống.
Luận án sử dụng tư liệu thực tế, thu thập thông tin, số liệu của các địa
phương vùng Đông Bắc, cụ thể số liệu của 6 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn,
Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang để phân tích, khái quát thực trạng giữ


5
gìn, phát huy BSVH các DTTS ở đây.
5. Đóng góp mới của luận án
- Từ góc độ triết học, luận án đã tiếp cận, nghiên cứu VH, BSVH,
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc không chỉ dưới dạng hình thức biểu hiện,
mà ở các tầng lớp bên trong của chúng, như phương thức sống và phương
thức lao động sáng tạo ra các giá trị VH. Trên cơ sở lý luận về giữ gìn, phát
huy BSVH, luận án đã khái quát được những vấn đề và những nội dung đặc
thù về việc giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS vùng Đông Bắc nước ta.
- Luận án đã phân tích, làm rõ được trước sự phát triển của kinh tế - xã
hội, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của hệ thống chính trị ở cơ
sở cũng như sự chủ động, tích cực, tự giác của đồng bào các DTTS mà các giá
trị VH vật thể và các giá trị VH phi vật thể cơ bản vẫn tiếp tục được giữ gìn,
phát huy trong chính đời sống của đồng bào. Bên cạnh đó luận án cũng phân
tích, làm rõ được sự mai một, mất dần BSVH biểu hiện trong VH vật thể và
VH phi vật thể của đồng bào các DTTS trước tác động của kinh tế thị trường,
của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng như sự hạn chế về nhận thức, hoạt
động kém hiệu quả của các chủ thể trong việc giữ gìn, phát huy BSVH đó.
- Luận án đã đưa ra được một số quan điểm hợp lý cần được quán triệt sâu
sắc, đó là: Giữ gìn, phát huy BSVH các DTTS theo nguyên tắc thống nhất trong đa

dạng và tiên tiến hóa nền VH Việt Nam; gắn với nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào; phát huy vai trò chủ thể của đồng bào. Trên cơ sở đó, luận án đã
đưa ra những giải pháp cụ thể, khả thi để nâng cao hiệu quả giữ gìn, phát huy
BSVH các DTTS vùng Đông Bắc trong bối cảnh và điều kiện hiện nay như là:
Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hình thức, nội dung giáo dục, tuyên truyền;
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số; Đầu tư một cách hài hòa, cân xứng giữa mục
tiêu phát triển kinh tế với mục tiêu phát triển văn hóa; Nâng cao trình độ, năng lực
của đồng bào các dân tộc thiểu số với tư cách là chủ thể giữ gìn, phát huy bản sắc
văn hóa của dân tộc mình.
6. Ý nghĩa của luận án


6
- Ý nghĩa lý luận:
+ Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú và sâu hơn
lý luận về giữ gìn, phát huy BSVHDT, đặc biệt là của các DTTS vùng Đông
Bắc Việt Nam.
+ Cung cấp cơ sở khoa học cho công tác hoạch định chiến lược, chính
sách phát triển VH ở đồng bào các DTTS vùng Đông Bắc nước ta.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và
học tập trong các cơ quan nghiên cứu chuyên ngành và các trường Đại học,
Cao đẳng ở nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án
được kết cấu thành 4 chương với 10 tiết.


7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Nghiên cứu về văn hóa, bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa các
dân tộc thiểu số
* Tình hình nghiên cứu về VH
VH là lĩnh vực rộng lớn của xã hội, nó cũng là lĩnh vực khoa học cơ
bản của khoa học xã hội và nhân văn. Nghiên cứu về VH đã được đề cập từ xa
xưa trong lịch sử khoa học nhân loại. Cho đến ngày nay, VH vẫn là đề tài vừa
cơ bản vừa cấp thiết tiếp tục được các nhà khoa học, các nhà hoạt động VH,
các tổ chức quốc tế nghiên cứu, mổ xẻ dưới nhiều góc độ khác nhau. Trước
hết, nghiên cứu VH là nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, chung nhất,
xác định bản chất, cấu trúc và đặc điểm của VH. Có thể kể đến một số công
trình tiêu biểu sau:
Công trình “Văn hóa nguyên thủy” của E.B.Tylor [151] đã quan niệm
VH là tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, phong tục và bất cứ năng lực và tập quán nào được lĩnh hội bởi con
người với tư cách thành viên của xã hội.
Quan niệm về VH của Tylor như trên, thực chất chỉ đi vào một khía
cạnh của VH đó là các giá trị tinh thần, còn các giá trị vật chất không được
ông đề cập đến và nó nằm ngoài khái niệm VH.
Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa do UNESCO tổ chức tại
Mexico từ ngày 26-7 đến ngày 6-8-1982 đã thông qua Tuyên bố chung, trong
đó nêu rõ bản chất của VH là tổng thể những nét nổi bật về tinh thần, vật chất,
trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không
chỉ gồm nghệ thuật và văn học mà còn cả lối sống, các quyền cơ bản của con
người, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng.



8
Định nghĩa về VH của UNESCO năm 1982 đã trình bày một cách có hệ
thống và toàn diện các thành tố của VH theo nghĩa rộng nhất của nó. Quán
triệt tinh thần cơ bản trên, nhân dịp phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn
hóa (1988-1997) trên phạm vi toàn cầu, ngài Tổng giám đốc UNESCO
Federico Mayor đã nhấn mạnh thêm rằng: “VH là tổng thể sống động các hoạt
động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu
-những yếu tố xác định đặc tính riêng của DT....”[90; 33,34]. Quan điểm của ngài
Mayor thể hiện rõ bản chất của VH là hoạt động sáng tạo của con người tạo ra các
giá trị, và nó làm nên đặc tính riêng của các DT để phân biệt DT này với DT khác.
Như vậy, các nhà khoa học, các nhà hoạt động VH, các tổ chức quốc tế
đã nhận diện VH ở các góc độ khác nhau, qua đó vấn đề bản chất của VH
được bộc lộ. Có công trình tiếp cận VH theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm các giá
trị tinh thần, có công trình tiếp cận VH theo nghĩa rộng, bao gồm cả các hoạt
động sáng tạo của con người và kết quả của hoạt động sáng tạo đó là các giá
trị vật chất và tinh thần.
Trong định nghĩa VH của mình, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra các thành tố
chủ yếu tạo nên VH đó là ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh đặc trưng sáng tạo
và phát minh của VH và chỉ ra mục tiêu của VH là vì sự sinh tồn và mục đích của
cuộc sống con người. Mặc dầu Người không bàn sâu về VH, song hoàn toàn có thể
khẳng định đó là những quan điểm có giá trị khoa học về VH.
Trong Tuyển tập “Khái niệm và quan niệm về văn hóa”[41], tác giả Trần Độ
đã tiếp cận VH dưới góc độ hoạt động sáng tạo của con người theo hướng chân,
thiện, mỹ. Tác giả cho rằng: “VH là những quá trình hoạt động sáng tạo của con
người theo hướng chân, thiện, mỹ và các sản phẩm của hoạt động đó được lưu
truyền từ đời này qua đời khác. Những cái đó có tác dụng phát triển các lực lượng



9
bản chất của con người, bao gồm cả lực lượng thể chất và lực lượng tinh thần (ý
thức, khả năng sáng tạo) do đó, làm cho xã hội tiến bộ”[41;16].
Công trình “Văn hóa và đổi mới”[42] của Phạm Văn Đồng đã tiếp cận
VH theo nghĩa rộng nhất, theo đó VH là tất cả những gì không phải thiên
nhiên, nghĩa là tất cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan
trực tiếp nhất đến con người. VH theo tác giả đó chính là những gì do con
người sáng tạo ra, tất cả những gì có trong con người như tâm tư, tình cảm, tư
tưởng, lý tưởng... và cả những gì có trong mối quan hệ với con người. Đồng
thời, tác giả đã khu biệt VH với thiên nhiên.
Công trình “Đại cương văn hóa phương Đông”[139] do Lương Duy
Thứ (chủ biên) đã tiếp cận VH theo nghĩa rộng, đó là hệ thống các giá trị vật chất
và tinh thần được hình thành, lưu truyền và phát triển qua quá trình sáng tạo của con
người trong sự tương tác với môi trường VH với hình thái ý thức xã hội, mặc dù
hình thái ý thức xã hội (chính trị, triết học, VH, nghệ thuật...) là một thành tố của
VH. VH không chỉ bao gồm văn minh tinh thần mà còn bao gồm cả văn minh vật
chất (văn vật, cảnh quan, kiến trúc...). Trong công trình này, tác giả cũng đề cập đến
nội dung của VH được xác định trong VH nhận thức (nhân sinh quan, thế giới
quan, triết học, mỹ học, văn học, nghệ thuật...) các thành tựu của VH ứng xử (bao
gồm các thang giá trị trong cách ứng xử với thiên nhiên và ứng xử với con người,
với gia đình, với xã hội...) các thành tựu của VH tổ chức đời sống (bao gồm các
thang giá trị trong cách tổ chức đời sống gia đình, cộng đồng, xã hội...). Như vậy,
không thể coi VH là tất cả mà VH chỉ là những thành tựu được thăng hoa thành vẻ
đẹp. Cũng không thể hiểu VH quá hẹp, ví dụ như nâng cao trình độ VH, thường chỉ
dùng để chỉ học vấn, kiến thức ...
Công trình “Văn hóa, một số vấn đề lý luận”[88] của tác giả Trường
Lưu, trong phần tiếp cận khái niệm, bản chất VH, tác giả đã cho rằng VH là
sản phẩm cụ thể gắn với cái DT, những thành tựu và tinh hoa của nó góp vào
kho tàng sáng tạo của loài người. Ngoài tính DT, VH còn có tính nhân loại



10
phổ quát mang đậm dấu ấn nhân tính tạo nên giá trị nhân văn. Bất cứ sáng tạo
của lĩnh vực nào mang tính giá trị, gắn với lợi ích con người đều bao hàm ý
nghĩa nhân văn ở cấp độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp theo đặc thù của
mỗi lĩnh vực. Như vậy, tác giả đã tiếp cận VH ở góc độ hoạt động sáng tạo ra
các giá trị và đồng thời tác giả cũng chỉ ra tính chất của VH đó là tính DT
(gắn với các điều kiện đặc thù của DT) và tính nhân loại (hướng tới các giá trị
chung mang tính phổ quát).
Công trình “Văn hóa và phát triển”[59] của tác giả Đỗ Huy đã lược
khảo các quan niệm về VH ở phương Đông và phương Tây theo dòng lịch sử,
quan niệm Mácxít và quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất của VH. Trên
cơ sở đó, tác giả đưa ra quan niệm của mình về VH, nó chính là tổng thể các
giá trị do con người tạo ra, đó là các giá trị vật chất, các giá trị tinh thần và
bản thân sự phát triển của con người. Tác giả cho rằng, trong VH, cả ba giá trị
này đều tương tác và gắn bó với nhau. Trong các giá trị vật chất có các giá trị tinh
thần và trong các giá trị tinh thần đều hàm chứa các giá trị vật chất. Trong hai giá trị
đó cũng hàm chứa sự phát triển năng lực bản chất của con người.
Tóm lại, các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động VH trên thế giới cũng
như ở Việt Nam đã có sự nhận diện VH là khác nhau về độ rộng hẹp của vấn
đề, về giới hạn phạm trù của các hệ thống, lĩnh vực VH; về thành tố, cấu trúc,
đặc trưng của VH, về mối quan hệ giữa VH học với các khoa học khác, chứ
không phải khác nhau về cái gốc, cái nền, cái tổng quát, cái đại thể của VH.
* Tình hình nghiên cứu về BSVH
Công trình “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”[130] của tác giả Trần
Ngọc Thêm đã vận dụng cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc kết hợp với phương
pháp so sánh - loại hình để tiến hành khảo sát VH Việt Nam trong một bức
tranh toàn cảnh, trên cơ sở so sánh nó với những nền VH xa (của thế giới) là
VH các DT phương Tây và một nền VH gần (của khu vực) có liên hệ mật

thiết là VH Trung Hoa, đồng thời chỉ ra được những mối liên hệ mang tính


11
quy luật chặt chẽ giữa các thành tố (trên bình diện đồng đại) và giữa các thời
kỳ phát triển (trên bình diện lịch đại) của VH Việt Nam. Công trình đi tìm
những nét bản sắc - đó là những đặc trưng cơ bản cần thiết cho việc hiểu VH
Việt Nam cùng những quy luật hình thành và phát triển của chúng. Những đặc
trưng đó được biểu hiện trong VH nhận thức, VH tổ chức cộng đồng, VH ứng
xử với môi trường tự nhiên, VH ứng xử với môi trường xã hội.
Công trình “Bản sắc văn hóa Việt Nam”[101] của Phan Ngọc, sau khi
giới thiệu định nghĩa sơ bộ về VH, tác giả đã sử dụng định nghĩa này để tìm
hiểu BSVH Việt Nam. Trên cơ sở tiếp cận VH không phải ở những vật mà là
hệ thống những quan hệ, tác giả đã khảo sát các yếu tố Tổ Quốc, Gia đình,
Thân phận, Diện mạo một cách sơ lược trong sự khu biệt với một số VH khác
để nêu bật BSVH Việt Nam.
Bài viết “Văn hóa, phát huy bản sắc và hội nhập”[61] của tác giả
Nguyễn Văn Huyên đã quan niệm BSVH như một tụ điểm chói sáng, chiết
xuất và hội kết muôn vàn vòng sáng đa sắc của toàn bộ tinh hoa VH các sắc
tộc của toàn DT. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đưa ra quan niệm về BSVHDT,
đó chính là bộ gen, là nhân lõi của bản chất VH của mỗi DT, là cái cốt lõi bên
trong tựa như tấm căn cước của mỗi DT.
Công trình nghiên cứu“Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vai trò của nghiên cứu và giáo dục”[120] bao gồm nhiều bài viết của nhiều
tác giả đề cập đến vấn đề VH và BSVHDT. Bài viết “Về tính bền vững và
biến đổi trong bản sắc văn hóa dân tộc”[120;178] của tác giả Hồ Anh Dũng
đã đề cập đến quan niệm, đặc trưng, kết cấu của VH và BSVHDT, làm cơ sở
để tìm hiểu tính bền vững và biến đổi trong BSVHDT. Từ đó, tác giả đi đến
khẳng định: Trong công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường, mở
cửa, giao lưu, hợp tác với các nước có chế độ chính trị khác nhau thì chỉ có
dựa trên cơ sở giữ gìn và phát huy tốt BSVHDT, chúng ta mới có nội lực để

tiếp thu được những tinh hoa VH của thời đại, làm tăng nguồn lực để phát


12
triển nhanh và bền vững. “Bản sắc văn hóa dân tộc bắt nguồn từ bản lĩnh dân
tộc”[120;52] của tác giả Hồ Lê đã xem xét vấn đề BSVHDT theo hai bình
diện: BSVH của DT Việt Nam và BSVH của từng DT trong nước Việt Nam.
Đồng thời, tác giả cũng khẳng định bản lĩnh DT là cội nguồn của bản sắc DT,
BSVHDT cũng có tác động ngược lại củng cố bản lĩnh DT, giúp cho DT tự
tin, phát huy tốt hơn bản lĩnh của mình để vượt qua các thử thách của lịch sử.
Công trình “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu
hóa”[64] do tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn và tác giả Nguyễn Văn Huyên (đồng
chủ biên) gồm nhiều bài viết về vấn đề BSVH như: “Toàn cầu hóa và một số
vấn đề đặt ra đối với bản sắc văn hóa Việt Nam”[64;223] của tác giả Nguyễn
Văn Huyên; “Bản sắc văn hóa dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa”[64;236] của
tác giả Trần Văn Bính. Tác giả bài viết cho rằng, BSVH không chỉ biểu hiện rõ
rệt trong đạo đức, trong lối sống, trong các hoạt động nghệ thuật mà còn tiềm ẩn
trong phong tục tập quán, những cách cảm nhận riêng về thế giới về không gian
và thời gian.
Công trình “Bản sắc văn hóa dân tộc”[129] của tác giả Hồ Bá Thâm đã
chỉ ra bản chất của BSVHDT, tác giả cho rằng BSVHDT đó là một kiểu tổ hợp,
kết hợp những phẩm chất, những giá trị VH nội sinh và ngoại sinh tạo thành linh
hồn, sức sống bền vững của DT, có những nét ưu trội hơn một số DT khác, mang
tính ổn định trong quá trình lịch sử đấu tranh và xây dựng của DT đó.
Trong bài viết “Bản sắc và giao lưu văn hóa - từ góc nhìn Triết
học”[113], tác giả Bùi Thanh Quất cũng đưa ra quan niệm về BSVH, tác giả cho
rằng, BSVH không phải là cái trừu tượng khó thấy mà được hiển lộ ra trong đời
sống hàng ngày của mỗi người và cả cộng đồng. Đó là những nét riêng để phân
biệt được người Việt Nam với các cộng đồng DT khác trên thế giới. Nét riêng đó
được thể hiện từ nếp sống của mỗi thành viên trong gia đình với nhau đến cách

ứng xử của cả DT với các DT khác.
Cuốn sách “Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam, mấy


13
vấn đề lý luận và thực tiễn”[21], tác giả Thành Duy cho rằng, tất cả những
yếu tố tạo nên BSDT của VH, đó là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi DT.
Cho nên, giữa lịch sử phát triển của DT với lịch sử hình thành BSVHDT có
mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, không thể tách rời. Tác giả chỉ ra sự thống
nhất giữa tính DT của VH với BSVHDT: “Tính chất DT thể hiện trong cộng
đồng người hình thành trong lịch sử, trong ngôn ngữ, trong ý thức cộng đồng,
trong tâm lý DT, trong phong tục, tập quán, lối sống, trong sinh hoạt kinh tế
và nói chung là biểu hiện VH trong mỗi cộng đồng. Tính chất DT ấy, chính là
BSVH của mỗi DT”[21;17].
Tác giả cũng khẳng định BSDT cũng như BSVHDT không phải là bất
biến, cố hữu, không bao giờ thay đổi, mặc dù nó hình thành trong truyền
thống và gắn với truyền thống VH lâu đời của DT mà nó phát triển trong sự
vận động của môi trường tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, gắn
với thể chế chính trị của một xã hội cụ thể.
Cuốn sách “Giá trị văn hóa Việt Nam - truyền thống và biến đổi”[134]
do tác giả Ngô Đức Thịnh (chủ biên) đã quan niệm BSVH là một tổng thể các
đặc trưng của VH, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử
lâu dài của DT. Các đặc trưng VH ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu
tượng và tiềm ẩn, muốn nhận biết được BSVH phải thông qua vô vàn những
sắc thái VH, với tư cách là sự biểu hiện của BSVH ấy. Tác giả cũng cho rằng,
nhiều khi hiểu BSVH chính là các giá trị VH khi coi đó như là cái căn cước,
cái đặc thù của mỗi cộng đồng, phân biệt nó với cộng đồng khác.
Tất cả các bài viết, các công trình khoa học này đã phân tích sâu sắc và
toàn diện về bản chất, nội dung, vai trò, vị trí của BSVHDT những vấn đề
phải đối mặt của BSVHDT trong bối cảnh toàn cầu hóa, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Qua đó, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định và tổ chức
triển khai các nội dung trong quan điểm, đường lối, chính sách phát triển VH
của Đảng và Nhà nước ta.


14
Có thể nói, các sách, các bài viết, các công trình nghiên cứu đã tiếp cận
vấn đề BSVH, BSVHDT từ nhiều góc độ khác nhau nhưng đều có điểm
chung là chỉ ra bản chất của VH chính là quá trình hoạt động sáng tạo của con
người. Kết quả của quá trình hoạt động sáng tạo đó chính là hệ thống các giá
trị vật chất và tinh thần. Trong hệ thống các giá trị đó, có những giá trị đặc
trưng, cốt lõi, tinh túy nhất và là cái để phân biệt DT này với DT khác và
được gọi là BSVHDT. Các nhà nghiên cứu cũng đều khẳng định BSVHDT
chính là sức mạnh nội sinh để đưa đất nước phát triển bền vững trong thời kỳ
mở cửa, hội nhập quốc tế. Từ đó, đi đến kết luận cần thiết phải giữ gìn và phát
huy BSVHDT và đưa ra một số định hướng và giải pháp nhằm giữ gìn, phát
huy BSVHDT trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng.
Tuy nhiên, thực tiễn đất nước và thời đại luôn vận động, do đó đặt ra
yêu cầu cho công tác nghiên cứu lý luận là phải tiếp tục làm rõ hơn nhiều vấn
đề đã, đang và sẽ nảy sinh trong quá trình giữ gìn và phát huy BSVHDT để có
những giải pháp kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ gìn và phát huy
BSVHDT.
* Tình hình nghiên cứu về BSVH các DTTS
Việt Nam có 54 DT anh em, mỗi DT đều góp vào sự hình thành sắc thái VH
chung của cả nước bằng những đặc trưng VH riêng độc đáo, tạo nên một nền
VH Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Ngoài DT Kinh chiếm đa số, 53
DTTS còn lại cư trú đan xen, rải rác khắp các vùng miền trong cả nước,
nhưng tập trung chủ yếu ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới,
có đời sống vật chất kém phát triển hơn so với DT Kinh. Tuy vậy, nhưng

chính ở DTTS lại là nơi chứa đựng nhiều giá trị VH độc đáo thu hút sự quan
tâm, chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong và ngoài nước,
trong đó có công trình nghiên cứu từ rất sớm như: “Thai, kadai và
indonesiens” (Những tộc người nói ngôn ngữ Thái, Kađai và Inđônêxia)[5]
của P.K.Benedct. Công trình này đã đề cập đến phong tục, tập quán, ngôn


15
ngữ, đặc điểm DT học của một số tộc người nói ngôn ngữ Thái, Kađai và
Inđônêxia ở Việt Nam. Thông qua các hoạt động nghiên cứu đào tạo, trao đổi,
hợp tác khoa học, các học giả nước ngoài cũng tìm hiểu, nhận xét, đánh giá về
VH các DTTS vùng miền núi phía Bắc như công trình nghiên cứu: “Mấy
nhận xét về lý luận và thực tiễn một chuyến đi thăm các dân tộc thiểu số ở
Tây Bắc và Việt Bắc”[49] của A.G.Haudricourt. Ngoài ra, còn có công trình
nghiên cứu “Những xu hướng phát triển ở vùng núi phía Bắc Việt Nam”[16]
của Donovan, qua công trình này đã góp phần giới thiệu về VH các DTTS ở
miền núi phía Bắc với bạn bè quốc tế, để họ có cái nhìn rõ hơn về sự thống
nhất trong đa dạng của nền VH Việt Nam. Ngoài sự hợp tác trong lĩnh vực
nghiên cứu đào tạo, còn có sự hợp tác trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, bảo
vệ môi trường sinh thái, do đó, các học giả nước ngoài cũng có những nghiên
cứu trong lĩnh vực này như: “Socio-economic Overview of the Northern
Mountain Region and the Project and poverty reduction in the Northern
Mountain Region of Vietnam” (Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội khu vực
miền núi phía Bắc và dự án xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi phía Bắc
Việt Nam)[74] của Neil Jamieson; “Rethinking Approaches to Ethenic
Minority Develoment, the case of Vietnam” (Nghĩ lại cách tiếp cận chương
trình phát triển DTTS, trường hợp Việt Nam)[75] ….
Trên cơ sở tình hình kinh tế - xã hội của khu vực miền núi phía Bắc,
những nghiên cứu, báo cáo này đã đưa ra một số khuyến nghị về việc bổ
sung, hoàn thiện đường lối, chính sách cho phù hợp với tình hình thực tiễn

của các DTTS, qua đó, góp phần phát huy vai tṛò của VH với tư cách là năng
lực nội sinh của người DTTS trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ở trong nước cũng có nhiều công trình nghiên cứu về VH các DTTS
như: “Một số vấn đề về phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”[121] của tập
thể các tác giả. Cuốn sách gồm nhiều bài viết của các tác giả về vấn đề cái
chung, cái riêng trong sự phát triển nền VH Việt Nam. Cái riêng đó chính là


16
VH tộc người, VH của từng DT cụ thể sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam, góp
vào nền VH chung thống nhất những nét VH độc đáo, đặc sắc, đặc trưng của
từng DT. Cũng trong cuốn sách này, tác giả Ngô Đức Thịnh có bài viết “Về sự
thâm nhập và xuất hiện cái mới trong văn hóa các dân tộc thiểu số”[121], tác
giả đã phân tích, làm rõ trong VH các DTTS, các hiện tượng VH mới dần dần
xuất hiện và nảy sinh do sự phát triển nội tại của nền VH mỗi DT, là sản phẩm
của quá trình giao lưu, ảnh hưởng VH giữa các DT, giữa các nước đang diễn
ra hết sức sống động hiện nay. Tác giả đã đưa ra những chỉ dẫn về sự xuất
hiện các hiện tượng VH mới trong cả VH vật chất lẫn VH tinh thần. Qua đó,
giúp chúng ta nhận diện được xu hướng biến đổi của VH các DTTS trong bối
cảnh kinh tế - xã hội mới hiện nay. Từ đó, cung cấp những cơ sở khoa học cho
việc hoạch định các chiến lược phát triển VH ở vùng các DTTS nước ta.
Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, VH có thể
là động lực phát triển kinh tế - xã hội, ngược lại cũng có thể là áp lực kìm hãm sự
phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc quản lý xã hội trên cơ sở những lý luận và
thực tiễn về VH tộc người, về VH vùng là hết sức cần thiết. Do đó, các công trình
“Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số”[110] của tác giả Lò Giàng Páo; “Sắc
thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển đất nước ”[108]
của nhà xuất bản Khoa học xã hội; “Xu hướng biến đổi cấu trúc văn hóa vùng ở
các tỉnh phía Bắc Việt Nam”[58] của tác giả Lại Phi Hùng.... đã gợi lên những vấn
đề chung như: Sắc thái VH tộc người, sắc thái VH địa phương (VH vùng), sự thống

nhất trong đa dạng của nền VH Việt Nam, những xu hướng biến đổi cơ bản về VH
ở các tỉnh phía Bắc trong những năm đổi mới... để các nhà làm công tác quản lí VH
tham khảo trong khi làm quy hoạch và chỉ đạo cụ thể VH vùng các DTTS. Đặc biệt,
trong cuốn “Văn hóa các dân tộc Tây Bắc”[7] của tập thể các tác giả nhóm đề tài
khoa học cấp nhà nước do tác giả Trần Văn Bính (chủ biên) đã đánh giá, phân tích
tương đối toàn diện, khách quan về thực trạng đời sống VH của một số DTTS vùng
Tây Bắc trong công cuộc đổi mới, đồng thời dự báo xu hướng, đề xuất những giải


17
pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm tiếp tục phát triển đời sống VH các DT trên
địa bàn dưới tác động của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các nhà nghiên cứu và hoạt
động trên lĩnh vực VH, giáo dục, VH nghệ thuật có liên quan đến chủ đề DTTS ở
nước ta.
Việc nghiên cứu để xây dựng VH vùng các DTTS nhằm bảo vệ, phát
huy những giá trị VHDT không những về mặt tinh thần, các tri thức truyền
thống, văn học nghệ thuật, những tình cảm, thuần phong mỹ tục mà còn cả về
mặt vật chất như các mặt VH đảm bảo cuộc sống như ăn, mặc, ở, đi lại, môi
trường VH....Tiêu biểu cho lĩnh vực nghiên cứu này là các công trình: “Văn
hóa các dân tộc thiểu số từ một góc nhìn”[102] của tác giả Vi Hồng Nhân;
“Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”[9] do Trần Văn Bính (chủ biên)... Những công trình này đã trình bày
một cách tổng quát một số giá trị độc đáo, cơ bản nhất trong VH các tộc
người. Những giá trị đó không những bảo đảm cho sự tồn tại của các tộc
người trong lịch sử mà nếu biết phát huy tốt sẽ tạo điều kiện để các tộc người
phát triển trong điều kiện hiện nay.
Trong công trình “Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt
Nam”[133], tác giả Ngô Đức Thịnh cũng bàn đến VH tộc người, thực trạng và
sự biến đổi VH các tộc người thiểu số. Dựa trên góc độ tiếp cận VH và phát

triển, tác giả chỉ ra thực trạng VH các DTTS ở các khía cạnh: cơ cấu xã hội cổ
truyền của các DTTS, về VH vật chất, về VH tinh thần, các khuynh hướng
biến đổi đời sống VH các DTTS. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra những vấn đề
đặt ra trong phát triển VH các DTTS. Những vấn đề vừa thuộc các khía cạnh
nhận thức của con người, nhất là của những người quản lý, lại vừa thuộc khía
cạnh cơ chế, tổ chức thực hiện. Từ đó cung cấp cho bạn đọc bức tranh tổng
quát về thực trạng VH các DTTS ở nước ta, là cơ sở để các nhà hoạch định
chính sách, các nhà nghiên cứu đưa ra những chính sách, biện pháp nhằm


18
phát triển VH ở vùng các DTTS.
Nghiên cứu cơ bản về VH từng DT là một hướng nghiên cứu lâu dài
của DT học và nhiều bộ môn khoa học xã hội và nhân văn. Qua các công trình
nghiên cứu, những đặc trưng cơ bản về lịch sử, kinh tế, xã hội, VH của các
DT được làm sáng tỏ, tiêu biểu là các tác phẩm: “Sơ lược giới thiệu các nhóm
Tày - Nùng - Thái ở Việt Nam”[83] của nhóm tác giả Lã Văn Lô, Đặng
Nghiêm Vạn; “Người Dao ở Việt Nam”[35] của Bế Viết Đẳng và nhiều tác
giả; “Văn hóa Tày - Nùng”[82] của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư; “Văn hóa tín
ngưỡng Tày, Nùng” [76] do tác giả Vũ Ngọc Khánh chủ biên; “Các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam thế kỷ XX”[119] của tập thể các tác giả; “Tín ngưỡng dân
gian Tày, Nùng”[172] của tác giả Nguyễn Thị Yên; “Văn hóa dân gian Tày,
Nùng ở Việt Nam”[126] của tác giả Hà Đình Thành. Nhìn chung, các công
trình kể trên một mặt đã làm sáng rõ một phần về thực trạng kinh tế, xã hội và
VH của các DT, mặt khác đã từng bước đi sâu tìm hiểu, khám phá các đặc
trưng, BSVH từng DT, nhất là các DTTS đông, trình độ phát triển xã hội
tương đối cao, có ảnh hưởng đối với các DT láng giềng như DT Tày, Nùng cư
trú ở vùng thung lũng Đông Bắc, DT Mông, Dao cư trú ở vùng rẻo cao Đông
Bắc, từ đó đặt ra những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu lý giải.
Vùng Đông Bắc nước ta là nơi tập trung nhiều thành phần DTTS và có

nền VH đa dạng, đậm đà bản sắc của các DTTS nên từ lâu đã thu hút sự quan
tâm chú ý nghiên cứu của nhiều nhà khoa học ở nhiều góc độ và mức độ
nghiên cứu khác nhau. Có những cuốn sách được viết trên cơ sở sưu tầm, biên
soạn thông qua đó giới thiệu cho người đọc những nét khát quát, cơ bản nhất
các nền VH đa dạng, độc đáo của các DTTS ở vùng này. Tiêu biểu là cuốn
sách “Văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc Việt Nam”[96] của tác giả Hoàng
Nam. Tác giả đã nghiên cứu môi trường địa lý tự nhiên và môi trường lịch sử
nhân văn cho sự hình thành và phát triển VH truyền thống của các DT vùng
Đông Bắc; nghiên cứu những đặc trưng VH truyền thống, thể hiện qua VH


×