Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biên giới đảo ở quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------o0o---------

NGUYỂN TRUNG DŨNG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI BẢO VỆ AN NINH
BIỂN ĐẢO Ở QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------o0o---------

NGUYỂN TRUNG DŨNG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI BẢO VỆ AN NINH
BIỂN ĐẢO Ở QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Phạm Văn Dũng



Hà Nội - 2014


MỤC LỤC

NỘI DUNG

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG

5

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
GẮN VỚI BẢO VỆ AN NINH BIỂN ĐẢO

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

5

1.1.1. Các công trình nghiên cứu nƣớc ngoài

5

1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc


10

1.1.3. Những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu

18

1.2 Khái luận về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển

19

đảo
1.2.1 Các khái niệm cơ bản

19

1.2.2. Quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển

21

đảo
1.2.3 Những nhân tố ảnh hƣởng đến quá trình phát triển kinh

23

tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo
1.2.4. Nội dung gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh

26


biển đảo
1.3 Thực tiễn một số nƣớc, địa phƣơng trong phát triển kinh tế
gắn với bảo vệ an ninh biển đảo và bài học kinh nghiệm cho

35

Quảng Bình
1.3.1. Nhật Bản

35

1.3.2. Philippines

36

1.3.3. Trung Quốc

37


1.3.4. Mỹ

38

1.3.5. Kinh nghiệm của các tỉnh khác

40

1.3.6. Bài học kinh nghiệm cho Quảng Bình


41

CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

43

2.1. Phƣơng pháp luận

43

2.2. Các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng để thực hiện luận
văn

44

2.3. Phƣơng pháp thu thập và xử lý số liệu

48

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI BẢO

50

VỆ AN NINH BIỂN ĐẢO Ở QUẢNG BÌNH

3.1. Những nhân tố chủ yếu ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế
gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
3.2. Sự gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển


50
50
53
55

đảo ở Quảng Bình những năm qua
3.2.1. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo

55

trong các chiến lƣợc, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh
3.2.2. Phát triển kinh tế gắn với nâng cao sức mạnh bảo vệ

58

biển đảo địa phƣơng
3.2.3. Bảo vệ an ninh biển đảo tạo điều kiện phát triển kinh tế

60

của tỉnh
3.2.4. Kết hợp khai thác, sử dụng các nguồn lực cho phát triển

61

kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo
3.2.5. Đảm bảo hậu cần quân đội trên địa bàn tỉnh


61


3.2.6. Hoạt động điều hành của chính quyền Tỉnh trong phát

62

triển kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo
3.3 Đánh giá quá trình phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh

62

biển đảo
3.3.1 Các kết quả đạt đƣợc

62

3.3.2 Tồn tại, hạn chế

76

3.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

80

CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GẮN KẾT HƠN
NỮA GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI BẢO VỆ AN NINH BIỂN ĐẢO

81


Ở QUẢNG BÌNH TRONG THỜI GIAN TỚI

4.1. Bối cảnh mới ảnh hƣởng đến sự gắn kết giữa phát triển

81

kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo
4.1.1. Những cơ hội mới

81

4.1.2. Những thách thức mới

82

4.2. Quan điểm gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh

83

biển đảo ở Quảng Bình trong thời gian tới
4.2.1. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo

83

vừa là điều kiện phát triển kinh tế, vừa là điều kiện đảm bảo an ninh
biển đảo
4.2.2. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo

84


là nhiệm vụ của toàn đảng, toàn dân, toàn quân trong đó chính
quyền tỉnh là nhân tố quyết định
4.2.3. Gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo
phải đặt trong quan hệ chặt chẽ giữa Quảng Bình và cả nƣớc

85


4.3. Giải pháp hoàn thiện công tác phát triển kinh tế kết hợp với

85

bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình
4.3.1. Hoàn thiện các quy hoạch, kế hoạch của tỉnh theo

85

hƣớng gắn kết hơn nữa phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển
đảo
4.3.2. Bảo vệ an ninh biển đảo phục vụ phát triển kinh tế

87

4.3.3. Sử dụng thành quả phát triển kinh tế để nâng cao sức

87

mạnh bảo vệ biển đảo
4.3.4. Kết hợp sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế và


88

bảo vệ an ninh biển đảo
4.3.5. Đảm bảo hậu cần quân đội trên địa bàn tỉnh

90

4.3.6. Nâng cao chất lƣợng điều hành các hoạt động phát triển

90

kinh tế và bảo vệ an ninh biển đảo của chính quyền các cấp
4.3.7. Phối hợp chặt chẽ giữa Quảng Bình với các tỉnh bạn và

91

cả nƣớc trong việc gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển
đảo
4.3.8. Nâng cao chất lƣợng trong phát triển kinh tế gắn với

92

bảo vệ an ninh biển đảo trong huy động các phƣơng tiện và lực
lƣợng dự bị động viên, dân quân biển
KẾT LUẬN

94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


96


BẢNG VIẾT TẮT

- TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

- CNH, HĐH:

Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa

- CHDCND:

Cộng hòa dân chủ nhân dân

- QLNN:

Quản lý nhà nƣớc

- UBND:

Ủy ban nhân dân

- MTQG:

Mục tiêu quốc gia

- KHHGĐ:


Kế hoạch hóa gia đình

- TTCN:

Tiểu thủ công nghiệp

- QG:

Quốc gia

- QH:

Quy hoạch

- TDTT:

Thể dục thể thao

- KH:

Kế hoạch

i


PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông, một biển lớn và thuộc loại
quan trọng nhất của khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng cũng nhƣ của thế

giới. Từ bao đời nay, vùng biển, ven biển và hải đảo đã gắn bó chặt chẽ với
mọi hoạt động sản xuất và đời sống của dân tộc Việt Nam. Theo Tuyên bố
ngày 12/7/1977 của Chính phủ Việt Nam và Công ƣớc của Liên Hợp quốc về
Luật biển năm 1982 thì nƣớc Việt Nam có một vùng biển rộng khoảng 1 triệu
km2, gấp 3 lần diện tích đất liền. Vùng biển và ven biển nƣớc ta có vị trí hết
sức quan trọng cả về kinh tế, chính trị và an ninh - quốc phòng nên từ lâu
Đảng và Nhà nƣớc ta đã rất quan tâm đến phát triển kinh tế biển, vùng ven
biển và hải đảo.
Thực hiện chủ trƣơng phát triển kinh tế biển của Đảng và Nhà nƣớc,
trong những năm qua, cùng với việc đẩy mạnh quá trình đổi mới và mở cửa,
Quảng Bình rất quan tâm phát triển kinh tế nói chung, kinh tế biển nói riêng
và đã thu đƣợc những kết quả rất đáng khích lệ. Cơ cấu ngành nghề đang có
sự thay đổi lớn. Ngoài các ngành nghề truyền thống, ở Quảng Bình đã xuất
hiện nhiều ngành kinh tế biển gắn với công nghệ - kỹ thuật hiện đại nhƣ đánh
bắt xa bờ, vận tải biển, du lịch biển - đảo và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... Việc
khai thác nguồn lợi biển đã có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của
Quảng Bình, nhất là tạo việc làm, góp phần tăng trƣởng kinh tế... Tuy nhiên,
tình hình biển đảo nƣớc ta và Quảng Bình nói riêng những năm gần đây trở
nên rất phức tạp. Trung Quốc đã hạ đặt trái phép dàn khoan Hải Dƣơng 891,
đâm chìm tàu cá của ngƣ dân Việt Nam, đâm hỏng nhiều tàu kiểm ngƣ, tàu
cảnh sát biển và bắt các tàu cá của các ngƣ dân Quảng Bình trên lãnh hải Việt
Nam vi phạm trắng trợn luật pháp Quốc tế, quyền chủ quyền, quyền tài phán

1


của Việt Nam. Với những hành động ngang ngƣợc nhƣ vậy không chỉ chủ
quyền quốc gia và an ninh biển đảo bị đe dọa, mà phát triển kinh tế (trong đó
có kinh tế biển) cũng bị ảnh hƣởng nghiêm trọng. Đây không chỉ là vấn đề
trƣớc mắt, mà còn có ý nghĩa lâu dài. Từ đó, câu hỏi lớn đang đƣợc đặt ra cho

đất nƣớc và cho mỗi địa phƣơng là làm thế nào để vừa phát triển đƣợc kinh tế,
vừa bảo vệ đƣợc chủ quyền quốc gia và an ninh biển đảo? Trả lời câu hỏi trên
là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân; của cả nƣớc và của mỗi địa phƣơng.
Từ thực tiễn sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc tại địa bàn tỉnh
Quảng Bình và kiến thức Kinh tế chính trị đã học tập, học viên xác định đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ là “Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an
ninh biển đảo ở Quảng Bình”.
* Câu hỏi nghiên cứu của luận văn:
Thế nào là phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo? Quảng
Bình cần phải làm gì và làm nhƣ thế nào để vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ
đƣợc an ninh biển đảo?
1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu
Từ việc xây dựng cơ sở lý luận và phân tích thực trạng phát triển kinh
tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình trong những năm qua, luận
văn đề xuất các giải pháp nhằm gắn kết tốt hơn nữa giữa phát triển kinh tế với
bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình trong những năm tới.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ
an ninh biển đảo.
- Làm rõ thực trạng phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở
Quảng Bình trong những năm qua; chỉ ra những thành tựu, hạn chế chủ yếu
và nguyên nhân.

2


- Đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế gắn kết hơn nữa với bảo vệ an
ninh biển đảo ở Quảng Bình trong thời gian tới.
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu quan hệ giữa phát triển kinh
tế biển với bảo vệ an ninh biển đảo dƣới góc độ Kinh tế chính trị, tức là dƣới
góc kinh tế - xã hội. An ninh biển đảo không chỉ nhằm bảo vệ chủ quyền quốc
gia về biển đảo, mà còn đƣợc coi là dịch vụ công, là điều kiện để phát triển
kinh tế. Ngƣợc lại, phát triển kinh tế không chỉ là mục tiêu, là cơ sở nâng cao
đời sống nhân dân, mà còn là điều kiện để nâng cao sức mạnh bảo vệ anh
ninh biển đảo.
Sự gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo đòi hỏi có sự
tham gia của nhiều chủ thể, đặc biệt là nhà nƣớc - trung ƣơng và địa phƣơng.
Do vậy, thực hiện sự gắn kết này đòi hỏi phải giải quyết mối quan hệ giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thƣợng tầng. Nhƣ vậy, đề tài đƣợc tiếp cận dƣới góc
độ liên ngành.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu sự gắn kết giữa phát
triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Thời kỳ nghiên cứu để đánh giá thực trạng phát triển kinh tế gắn với
bảo vệ an ninh biển đảo từ ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số
20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hƣớng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Để tiếp tục phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ XXI,
Hội nghị lần thứ tƣ ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khoá X) đã thông qua
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lƣợc biển Việt Nam đến
năm 2020” và khi có nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình về chiến lƣợc
biển từ năm 2012 cho đến nay .
1.4. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Với tên gọi “Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng
Bình”, ngoài Lời nói đầu và phần kết luận, đề tài nghiên cứu gồm 04 Chƣơng
chính nhƣ sau:

3



Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận,
thực tiễn cơ bản về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển đảo
Chƣơng 2: Phƣơng pháp nghiên cứu
Chƣơng 3: Thực trạng phát triển kinh tế gắn với bảo vệ an ninh biển
đảo ở Quảng Bình
Chƣơng 4: Quan điểm và giải pháp nhằm gắn kết hơn nữa giữa phát
triển kinh tế với bảo vệ an ninh biển đảo ở Quảng Bình trong thời gian tới.

CHƢƠNG 1:

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
GẮN VỚI BẢO VỆ AN NINH BIỂN ĐẢO
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
- Đặng Đình Quý (Chủ biên – 2013): Tranh chấp Biển Đông: Luật
pháp, Địa Chính trị và Hợp tác Quốc tế. Cuốn sách này tập hợp các tham
luận của các học giả quốc tế trong và ngoài nƣớc tham gia tại Hội thảo khoa
học quốc tế lần thứ 3 về Biển Đông với chủ đề “Tranh chấp Biển Đông : Luật
pháp, Địa Chính trị và Hợp tác Quốc tế” do Ho ̣c viê ̣n Ngoa ̣i giao và Hô ̣i Luâ ̣t
gia tổ chƣ́c tại Hà Nội tƣ̀ 4-5/11/2011.
Thời gian qua, cộng đồng khu vực và thế giới ngày càng quan tâm
nhiều hơn tới Biển Đông bởi ý nghĩa quan trọng của vùng biển này đối với
hòa bình, ổn định và phát triển, không chỉ của khu vực Đông Á mà của toàn
Châu Á - Thái Bình Dƣơng.
Đồng hành cùng với những diễn biến tích cực trên, Biển Đông vẫn tiềm
ẩn những bất ổn mà nếu không có sự kiềm chế của các bên liên quan, sự tôn

4



trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và những nỗ lực có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế thì xung đột có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Biển
Đông là một trong những khu vực có tranh chấp phức tạp nhất trên thế giới.
Sự phức tạp ấy đang gia tăng gấp bội do những biến chuyển của tình hình
kinh tế, chính trị, quân sự và an ninh ở khu vực. Bên cạnh những vấn đề an
ninh truyền thống nhƣ tranh chấp đảo, tranh chấp vùng biển, các vấn đề an
ninh phi truyền thống nhƣ cƣớp biển, cƣớp có vũ trang trên biển, ô nhiễm môi
trƣờng biển, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên sinh vật biển, sự suy giảm
đa dạng sinh học biển, biến đổi khí hậu… đang ngày càng trở nên nghiêm
trọng. Chính vì vậy, việc công bố các công trình nghiên cứu về Biển Đông
đóng góp rất thiết thực cho việc giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển
Đông. Chính những hoạt động nghiên cứu và thảo luận này đã góp phần đƣa
Biển Đông vào “ra-đa” kiểm soát của cộng đồng quốc tế; bản chất của tranh
chấp trên Biển Đông cũng nhƣ các vụ việc xảy ra trên Biển Đông đƣợc phân
tích, đánh giá trên tinh thần khoa học, khách quan để dƣ luận trong nội bộ
từng bên liên quan đến tranh chấp và dƣ luận quốc tế có thông tin đầy đủ và
nhiều chiều hơn. Những nỗ lực hợp tác trên đây mới chỉ là bƣớc đầu trên một
con đƣờng vô cùng lâu dài và gian khổ để các bên liên quan đến tranh chấp,
trực tiếp và không trực tiếp, hành động vì lợi ích của mình và tính đến lợi ích
của các bên liên quan khác và của cả cộng đồng quốc tế, hƣớng đến mục tiêu
cuối cùng là biến Biển Đông từ khu vực tranh chấp phức tạp, thực sự trở
thành một khu vực hòa bình, hợp tác và phát triển.
Trên tinh thần đó, Học viện Ngoại giao phối hợp với Hội Luật gia Việt
Nam tiếp tục tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ ba với chủ đề “Biển
Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực”. Nội dung của Hội thảo
tập trung vào sáu nhóm chủ đề chính sau: (i) Tầm quan trọng của Biển Đông
đối với thế giới và khu vực; (ii) Lợi ích của các nƣớc trong và ngoài khu vực

5



Biển Đông; (iii) Những diễn biến gần đây tại Biển Đông; (iv) Những khía
cạnh pháp lý quốc tế của tranh chấp Biển Đông; (v) Vấn đề giải quyết tranh
chấp và quản lý xung đột ở Biển Đông; (vi) Phƣơng cách và biện pháp thúc
đẩy hợp tác ở Biển Đông. Cuốn sách này tập hợp phần lớn tham luận của các
học giả trong nƣớc và quốc tế tham gia Hội thảo theo các nhóm chủ đề trên.
Một số bài viết tiêu biểu về các vấn đề đó là:
- Các vấn đề về lợi ích tại Biển Đông. Bài của ĐS.Rodolfo.Severino.
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện nghiên cứu Đông Nam
Á, Singapore.
Biển Đông còn tồn tại nhiều vấn đề nhƣ việc phân biệt giữa vùng đất
và nƣớc, giữa đảo và đá theo quy định tại điều 121 của UNCLOS 1982. Một
vấn đề khác là làm thế nào để tuyên bố về "Chủ quyền không thể tranh cải"
của Trung Quốc ở Biển Đông với bản chất gây tranh cãi của nó. “Đƣờng chín
đoạn” trên bản đồ Trung Quốc cần đƣợc định nghĩa làm rõ. Việc Trung Quốc
tuyên bố ƣu tiên các cuộc đàm phán song phƣơng với các bên tranh chấp và
phản đối “đa phƣơng hóa” vấn đề Biển Đông vẫn là nguyên nhân gây bất
đồng. Cần phải nghiên cứa sự khác biệt (nếu có) giữa tính khả thi của bộ Quy
tắc ứng xử và một tuyên bố chính trị cuối cùng, một vấn đề đƣợc đặt ra là:
điều gì sẽ xảy ra nếu nhƣ một Quốc gia trong tranh chấp nhận ra rằng các quy
định của luật mà họ đã cam kết đi ngƣợc lại với những gì mà họ coi là lợi ích
thiết yếu, cốt lỏi, lợi ích của dân tộc hay lợi ích của chế độ?
- Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển ở khu vực ĐS. Hasjim
Djalal Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Indonesia.
Bài viết nêu một số bài học rút ra từ cách tiếp cận không chính thức của
Indonesia trong quản lý tranh chấp Biển Đông. Tiến trình Hội thảo về quản lý
các xung đột tiềm ẩn ở Biển Đông bắt đầu từ năm 1990 tuy không giải quyết
tranh chấp lãnh thổ chủ quyền giữa các quốc gia nhƣng cũng góp phần: (1) tạo ra


6


các chƣơng trình hợp tác trong đó tất cả các nƣớc có liên quan có thể tham gia;
(2) thúc đẩy đối thoại giữa các bên có lợi ích liên quan trực tiếp để các nƣớc có
thể tìm ra cách giải quyết cho các vấn đề của mình; (3) phát triển tiến trình xây
dựng lòng tin để mọi ngƣời đều cảm thấy thoải mái với nhau.
- Hợp tác khu vực ở Biển Đông GS. Jon M. Van Dyke Trƣờng Luật
William S. Richardson, Đại học Hawaii ở Manoa, Mỹ.
Biển Đông là biển nửa kín đƣợc điều chỉnh theo Phần 9 của Công ƣớc
Luật biển, theo đó, Điều 123 quy định các quốc gia kề cận với biển kín/ nửa
kín “hợp tác với nhau để thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định trong
Công ƣớc”. Cụ thể, các nƣớc có thể “tiến hành, trực tiếp hoặc thông qua một
tổ chức khu vực hữu quan để phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và
khai thác các tài nguyên sinh vật biển” và đồng thời phối hợp các hoạt động
nhằm “bảo vệ và gìn giữ môi trƣờng biển”. Các nƣớc quanh Biển Đông đã
thất bại trong việc thành lập một tổ chức khu vực hiệu quả và hình thức hợp
tác “trực tiếp” nhìn chung cũng không đạt thành công. Cơ quan điều phối các
nƣớc Biển Đông Á (COBSEA) gần nhƣ không có hoạt động và tổ chức đối
tác về quản lý môi trƣờng các quốc gia biển Đông Á (PEMSEA) đạt đƣợc một
số thành tựu khiêm tốn. Chƣa có một tổ chức hiệu quả về quản lý nghề cá
chung đƣợc thành lập.
- Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp biển đông. Bài của
GS. Geoffrey Till Giám đốc Trung tâm Corbett về Nghiên cứu Chính sách
Biển, Đại học King, Luân Đôn, Anh.
Mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định cần coi tranh chấp Biển Đông là
vấn đề hoàn toàn của các quốc gia liên quan và của khu vực, trên thực tế nó
ngày càng đƣợc xem là vấn đề toàn cầu. Điều này là bởi vấn đề Biển Đông
đang là thƣớc đo để đánh giá vai trò và chính sách của Trung Quốc trong
tƣơng lai – một vấn đề ngày càng làm đau đầu đối với Hoa Kỳ và một số


7


nƣớc ngoài khu vực. Tầm quan trọng chiến lƣợc của tranh chấp này đƣợc
minh họa rõ ràng nhất bởi các mối quan tâm bên ngoài về tác động có thể xảy
ra của tranh chấp đối với tự do hàng hải và bởi mức độ, tính chất và hậu quả
của chƣơng trình hiện đại hóa hải quân của các bên tranh chấp. Vì những
nguy cơ đang hiện hữu khi Biển Đông tăng nhiệt, cần có sự rõ ràng và những
cái đầu lạnh ở cả trong và ngoài khu vực.
- Tại sao Trung Quốc nhất định cần Biển Đông cho riêng mình: một
quan điểm dự đoán và độc lập từ bên ngoài. Bài của Tƣớng (về hƣu) Daniel
Schaeffer Viện chính sách Châu Á 21, Pháp.
Sự hiếu chiến gần đây để bảo vệ những gì mà họ coi là quyền lợi
chính đáng ở Biển Đông theo đƣờng chín đoạn đứt khúc khiến mọi ngƣời trên
thế giới đều tin rằng sự quả quyết này của Trung Quốc chỉ dựa trên những lý
do về kinh tế nhƣ dầu khí, đánh bắt cá, bảo vệ môi trƣờng... Tất nhiên trên tất
cả, những lý do này đều không phải là không có căn cứ. Nhƣng đây có thể chỉ
là những lý do bề mặt nhằm che dấu những ý định và lợi ích sâu xa của Trung
Quốc. Những ý định và lợi ích này đều liên quan đến bố trận quốc phòng của
Trung Quốc, để chống lại những gì mà Trung Quốc coi là “chính sách ngăn
chặn” của Mỹ, nếu không muốn nói là "mối đe dọa" Mỹ. Với bài tính nhƣ vậy
Biển Đông không khác gì một quân cờ-một quân cờ quan trọng, nhƣng chỉ là
một quân cờ trong kế hoạch phòng thủ tổng thể Trung Quốc đang xây dựng
nhằm hạn chế “mối đe dọa Mỹ”.
- Biển Đông: Sự trổi dậy của Trung Quốc và những hệ lụy đối với hợp
tác an ninh. Bài của GS.Koichi Sato Đại học J.F.Oberlin, Tokyo, Nhật Bản.
Tháng 3 năm 2010, các nhà ngoại giao Trung Quốc khẳng định với
quan chức chính quyền Obama rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất kỳ
hành động can thiệp nào tại Biển Đông, khu vực mà hiện tại Trung Quốc coi

là một phần “lợi ích cốt lõi” thuộc chủ quyền của mình. Hải quân Quân giải

8


phóng Nhân dân Trung Quốc đã bắt đầu triển khai các tàu chiến và tàu tuần
tra tại Biển Đông; căng thẳng giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng
Đông Nam Á đang gia tăng. Mỹ, Nhật Bản và Australia đã bày tỏ quan ngại
đối với an ninh của các tuyến đƣờng thông thƣơng trên biển (SLOC) ở Biển
Đông. Có ý kiến cho rằng Hải quân Trung Quốc đang có kế hoạch phát triển
hàng không mẫu hạm. Bài tham luận này phân tích những thách thức trên
biển, đồng thời đánh gia tác động đối với hợp tác an ninh giữa Trung Quốc và
các quốc gia láng giềng bao gồm cả Nhật Bản và Mỹ.
- Vai trò của quốc tế hóa Biển Đông trong quản lý và ngăn ngừa xung
đột. GS. Leszek Buszynski Trung tâm Nghiên cứu Chiến lƣợc và Quốc
phòng, Đại học Quốc gia Australia.
Bài tham luận nhận định về quá trình phát triển của tranh chấp Biển
Đông: từ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ liên quan tới các đảo và các vùng
biển, từ việc tiếp cận các nguồn dầu mỏ và khí đốt ở biển vốn càng trở nên
cấp thiết khi mà nhu cầu năng lƣợng toàn cầu gia tăng, tới vấn đề đối đầu
chiến lƣợc giữa Mỹ và Trung Quốc. Điều này liên quan tới các vấn đề chiến
lƣợc rộng lớn hơn, một mặt là chiến lƣợc hải quân của Trung Quốc khi nƣớc
này tăng cƣờng năng lực hải quân, mặt khác là sự hiện diện của Mỹ ở phía
Tây Thái Bình Dƣơng và những mối quan hệ đồng minh của Mỹ trong khu
vực. Bài tham luận lập luận rằng, một thỏa thuận ngăn ngừa xung đột là cần
thiết để tránh gây leo thang những vụ việc nhỏ trở thành xung đột, từ đó cản
trở quá trình giải quyết các yêu sách chồng lấn. Thỏa thuận này nên tính tới
hai cƣờng quốc quan trọng Mỹ và Trung Quốc, đồng thời bao gồm các bên
yêu sách của ASEAN.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước


9


- Tập trung phát triển kinh tế biển gắn với an ninh quốc phòng. Bài nói
của Chủ tịch nƣớc Trƣơng Tấn Sang trong buổi làm việc tại TP. Đà Nẵng
ngày 04/07/2014.
Phát biểu tại cuộc làm việc, Chủ tịch nƣớc khẳng định: “Đảng, Nhà
nƣớc luôn kiên quyết bảo vệ đến cùng chủ quyền biển đảo của tổ quốc, các
lực lƣợng và nhân dân luôn yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan khỏi vùng
biển Hoàng Sa. Các lực lƣợng cảnh sát biển, kiểm ngƣ, ngƣ dân đều mong
muốn tăng cƣờng công tác phòng vệ, tăng số tàu cá, công suất, sản lƣợng,
phát triển kinh tế biển để đủ sức bảo vệ chủ quyền biển đảo. Phát triển kinh tế
biển gắn với gắn với an ninh quốc phòng là chủ trƣơng lớn của Đảng, Nhà
nƣớc. Các bộ ngành, địa phƣơng cần nhanh chóng phân bổ nguồn vốn, làm
nhanh các thủ tục để ngƣ dân đƣợc nhanh chóng tiếp cận nguồn vốn, đóng tàu
xa bờ, bám biển, bảo vệ ngƣ trƣờng truyền thống”. Chủ tịch Nƣớc cũng yêu
cầu các bộ ngành tập trung nguồn lực yểm trợ các địa phƣơng có vai trò đặc
biệt về phát triển kinh tế biển gắn với an ninh quốc phòng, đảm bảo chủ
quyền trên biển. Đối với thành phố Đà Nẵng cũng nhƣ các địa phƣơng ven
biển, Chủ tịch nƣớc yêu cầu cần tiếp tục phát huy khả năng của địa phƣơng,
củng cố các tổ đội, nghiệp đoàn nghề cá, để sẵn sàng xử lý khi có tình huống
phức tạp.
- Kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ chủ quyền trên biển, bài viết của
tác giả Văn Hào trên Trang điện tử báo Tin tức Thứ Hai, 02/06/2014.
Theo tác giả bài viết, một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng để
thực hiện thành công “Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020”, đó là kết
hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền,
quyền chủ quyền và an ninh trên biển. Do đó, việc xây dựng và phát triển
kinh tế biển phải gắn chặt với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh để xây dựng thế

trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên biển.

10


Để phát huy hơn nữa vai trò của biển, đảo trong phát triển kinh tế, ngay
từ bây giờ chúng ta cần đẩy mạnh đánh bắt hải sản xa bờ, điều chỉnh nghề cá
ven bờ hợp lý. Phát triển mạnh ngành nuôi trồng thủy sản theo hƣớng hài hòa
với môi trƣờng. Đồng thời ứng dụng công nghệ sau thu hoạch. Đi đôi với việc
phát triển hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá, bao gồm các hoạt động cảng cá,
sửa chữa và đóng tàu, ngƣ cụ, cung cấp các dịch vụ bảo quản, chế biến và tiêu
thụ sản phẩm chú ý công tác thông tin liên lạc và cứu hộ cứu nạn trên biển.
Đặc biệt ngày 29/5 vừa qua, Chính phủ đã đƣa ra bàn thảo chính sách
hỗ trợ ngƣ dân bám biển, có cơ chế tín dụng ƣu đãi cho ngƣ dân đánh bắt xa
bờ đóng tàu vỏ thép, dự kiến lãi suất vay 3% trong thời gian 10 năm; ngƣời
vay đƣợc thế chấp bằng thân tàu, nếu xảy ra rủi ro Nhà nƣớc cũng sẽ hỗ trợ.
Đây là những chính sách thể hiện rõ quyết tâm giúp ngƣ dân yên tâm đánh bắt
xa bờ và bám biển của Nhà nƣớc. Để giúp ngƣ dân vƣơn khơi, bám biển vừa
khai thác sản xuất vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo, việc hỗ trợ nguồn
vốn giúp cải hoán tàu cũ, đóng mới tàu công suất lớn đang đƣợc hệ thống
ngân hàng tích cực tham gia.
Cùng với đó, Đảng và Nhà nƣớc chủ trƣơng điều chỉnh Chiến lƣợc phát
triển kinh tế biển kết hợp với tăng cƣờng quốc phòng, an ninh trên biển phù
hợp với tƣ duy mới về biển và đại dƣơng. Đẩy mạnh giáo dục quốc phòng, an
ninh biển cho toàn dân, coi trọng bồi dƣỡng các lực lƣợng trực tiếp hoạt động
trên biển, đảo. Nghiên cứu chiến lƣợc biển của các nƣớc trong khu vực và
trên thế giới để đề ra các chính sách phù hợp, nhằm bảo vệ hữu hiệu chủ
quyền quốc gia trên biển, đảo.
Hoạt động ngoại giao cũng đƣợc đẩy mạnh nhằm đảm bảo tính nghiêm
minh và hiệu quả của Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông có lợi cho hòa bình,

ổn định và phát triển trong khu vực. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính

11


sách bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nƣớc và
quyền làm chủ của nhân dân trên vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Các lực lƣợng chuyên trách đƣợc kiện toàn, từng bƣớc thực hiện quản
lý nhà nƣớc trên các vùng biển, thông qua việc xây dựng các lực lƣợng và
phƣơng tiện để chỉ huy, điều hành cứu hộ, cứu nạn trên biển nhƣ: xây dựng hệ
thống trinh sát, quan sát, cảnh giới từ xa; hiện đại hóa thông tin liên lạc hàng
hải; thành lập đội tàu tuần tra Biên phòng, Kiểm ngƣ, Cảnh sát biển, Hải
quan…
Hiện tại các cơ quan chức năng cũng đã và đang tiến hành phân vùng
biển dựa trên hệ sinh thái, quy hoạch sử dụng biển và hải đảo, nhằm xác định
rõ những khu vực dành riêng cho nhiệm vụ quốc phòng. Những khu vực cho
phép và khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng nhƣ
những khu vực phát triển đa mục đích. Nâng cao năng lực quản lý về biển, đảo
của chính quyền các huyện đảo, xã đảo để phát triển mạnh kinh tế-xã hội kết
hợp với bố trí dân cƣ, tổ chức lực lƣợng bảo vệ chủ quyền biển, hải đảo.
Tăng cƣờng sự gắn bó giữa ngƣ dân, diêm dân, các tầng lớp dân cƣ
vùng biển với các lực lƣợng vũ trang, trực tiếp là Bộ đội Biên phòng, để giúp
nhau sản xuất, nâng cao đời sống văn hóa, tạo dựng thế trận lòng dân. Từng
bƣớc dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở khai thác có hiệu quả các
nguồn tài nguyên thiên nhiên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố và
phát huy lực lƣợng tại chỗ phục vụ chiến lƣợc quốc phòng-an ninh trên biển
và hải đảo.
- Phát triển kinh tế biển, đảo gắn với an ninh quốc phòng của tác giả
Hữu Trà, Thanh Niên Online – Thứ bảy, ngày 24 tháng chín năm 2011.
Ngày 23.9.2011, tại Hội An, Tạp chí Cộng sản phối hợp với Tỉnh ủy

Quảng Nam tổ chức hội thảo khoa học “Phát triển kinh tế biển, đảo gắn với
bảo đảm quốc phòng, an ninh ở các tỉnh duyên hải miền Trung”. Tại hội thảo,

12


TS. Nguyễn Đăng Đạo - Phó tổng cục trƣởng Tổng cục Biển và hải đảo Việt
Nam (Bộ Tài nguyên & Môi trƣờng) cho rằng, để trở thành một quốc gia
mạnh về biển và giàu lên từ biển, trƣớc hết cần tập trung bảo vệ chủ quyền
biển, đảo; phát triển kinh tế biển bền vững; phát triển kinh tế - xã hội vùng
ven biển, hải đảo gắn với bảo vệ môi trƣờng và an ninh quốc gia. Liên quan
đến công tác tuyên truyền biển, đảo, đại tá Nguyễn Đức Vƣợng - Phó chính
ủy Vùng 4 Hải quân, cho rằng cần xác định đúng vị trí, vai trò, tiềm năng sức
mạnh của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung,
bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng. Đại tá Nguyễn Đức Vƣợng khẳng định
chƣơng trình “Hành trình vì biển, đảo quê hương” đƣa đoàn viên thanh niên
đến với biển, đảo, nhất là quần đảo Trƣờng Sa, nhà giàn DK1... tạo hiệu ứng
xã hội tích cực về hành trình tiến ra biển, làm chủ biển của tuổi trẻ cả nƣớc.
- Phát triển kinh tế biển gắn với thế trận lòng dân, bài viết của Phƣơng
Yến trên trang tin Bến Tre, ngày 23/03/2012.
Theo quan điểm của tác giả, khai thác kinh tế biển đồng thời với ý thức
chấp hành pháp luật về biên giới biển là góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới biển của tỉnh, bảo vệ vững chắc
chủ quyền biên giới quốc gia.
Thực hiện chủ trƣơng về tăng cƣờng xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên
biển, đảo, Bến Tre đã tập trung mọi nguồn lực đầu tƣ, xây dựng nhiều dự án,
công trình mang tính chiến lƣợc nhằm khai thác các tiềm năng của biển, đảo.
Tác giả bài viết đặc biệt quan tâm đến sự kết hợp vai trò lãnh đạo của
Đảng, vai trò quản lý của nhà nƣớc với sự tham gia của ngƣời dân trong giải

quyết mối quan hệ này. Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng thế trận
lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc” xem đây là
nhiệm vụ thƣờng xuyên, trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả

13


hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà
nƣớc là yếu tố quyết định. Nhƣng ý chí, nguyện vọng của quần chúng nhân
dân là cơ sở, điều kiện tiên quyết và là nhân tố chủ yếu tác động đến hiệu quả
xây dựng thế trận lòng dân. Chính vì vậy, thế trận lòng dân đã đƣợc xây dựng,
củng cố trên cơ sở hệ thống chính trị vững mạnh, nhất là ở cơ sở, trong từng
khu vực phòng thủ địa phƣơng. Đây cũng chính là xây dựng nền tảng, trọng
tâm của xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần của khu vực phòng thủ, đủ sức
đề kháng trƣớc mọi âm mƣu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm chủ quyền vùng biển

quốc gia, bài viết của PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi, phó Tổng cục trƣởng Tổng
cục Biển và Hải đảo Việt Nam, đăng trên trang web.www.baomoi.com.
Mục tiêu kết hợp kinh tế-xã hội với quốc phòng-an ninh nhằm khẳng
định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ vùng biển và hải đảo của Tổ quốc; khai
thác, sử dụng nguồn lợi biển của quốc gia có hiệu quả để thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động kết hợp phải đƣợc tiến
hành trong từng cơ sở đánh bắt hải sản, khai thác tài nguyên, phát triển du
lịch, dịch vụ; nghiên cứu khoa học biển; kết hợp theo quy hoạch, kế hoạch
của từng địa phƣơng, vùng biển, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của quốc
phòng-an ninh để nâng cao năng lực quản lý, bảo vệ biển và hải đảo của Tổ
quốc. Phát huy lợi thế của vùng ven biển, tạo động lực lan tỏa hỗ trợ phát
triển kinh tế nội địa, làm “bàn đạp” cho phát triển một nền kinh tế biển hiệu
quả và vững chắc, gắn với bảo đảm chủ quyền vùng biển quốc gia đƣợc xác

định là một trong những hƣớng ƣu tiên có tính đột phá chiến lƣợc để đƣa
nƣớc ta trở thành “một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển”. Xây dựng
tuyến ven biển gắn với một số tuyến đảo chính thành những điểm kinh tế
mạnh và căn cứ hậu cần kỹ thuật vững chắc cho các hoạt động biển xa. Bảo

14


đảm cung cấp nƣớc ngọt, cơ sở hạ tầng và điều kiện sống cơ bản để ngƣời dân
yên tâm bám trụ, sản xuất trên các vùng biển, hải đảo tiền tiêu của Tổ quốc.
- Phát triển kinh tế biển, đảo gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bài
viết của PGS, TS Vũ Văn Phúc - Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, đăng trên
trang điện tử của bộ giao thông vận tải - tổng công ty an toàn hàng hải Việt
Nam />Bài viết bàn về những quyết sách lớn, quan trọng của Đảng ta về phát
triển kinh tế biển, đảo gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tiềm năng, cơ
hội cho phát triển kinh tế biển, đảo của Việt Nam. Tiếp tục giải quyết những
vấn đề đặt ra, không ngừng phát triển kinh tế biển, đảo gắn với bảo đảm quốc
phòng, an ninh.
- Sức mạnh tổng hợp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam, bài viết của
Thiếu tƣớng, PGS. TS Nguyễn Đình Chiến - Phó viện trƣởng Viện Chiến
lƣợc quốc phòng, Bộ Quốc phòng đăng trên trang thông tin điện tử nhà xuất
bản chính trị quốc gia - sự thật .
Bài viết đề cập đến vấn đề biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ
thiêng liêng của Tổ quốc, cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của quốc
gia… Nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc rất nặng
nề, đòi hỏi phải thƣờng xuyên quán triệt, nắm vững các quan điểm tƣ tƣởng
của Đảng, tổ chức triển khai thực hiện chủ động, sáng tạo trong thực tiễn ở
mọi cấp, ngành và toàn dân; phát huy cao nhất vai trò nòng cốt của các lực
lƣợng vũ trang nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

- Định hướng phát triển kinh tế biển, đảo vùng Bắc Trung Bộ đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030. Bài của tác giả Nguyễn Hoàng Hà, quyền
trƣởng ban Ban Tổng hợp Viện Chiến lƣợc phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu
tƣ, đăng trên tạp chí cộng sản điện tử ngày 17/1/2014. Để xây dựng định

15


hƣớng phát triển kinh tế biển, đảo của vùng Bắc Trung Bộ một cách hợp lý,
bài viết đi sâu nghiên cứu, tiếp cận, đánh giá và phân tích vấn đề theo “3 cấp
độ không gian”: (i) Việt Nam trong khu vực; (ii) Miền Trung trong Việt Nam;
(iii) Bắc Trung Bộ trong miền Trung.
Nghị quyết của Chính phủ số 27/2007/NQ-CP ngày 30-5-2007 ban
hành Chƣơng trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X về Chiến lƣợc biển Việt
Nam đến năm 2020 nêu rõ: nhiệm vụ của ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ƣơng có biển, cần xây dựng quy hoạch phát triển vùng biển,
đảo thuộc địa phƣơng quản lý và xây dựng các danh mục ƣu tiên đầu tƣ trình
Chính phủ phê duyệt.
Định hƣớng phát triển các ngành kinh tế biển đã đƣợc Chiến lƣợc biển
và Luật Biển Việt Nam xác định; đồng thời dựa trên lợi thế cạnh tranh, mang
tính khác biệt của vùng, phù hợp với nhu cầu của thị trƣờng trong thời gian
tới, đó chính là phát triển mạnh các khu kinh tế, tạo chân hàng lớn để có thể
phát triển kinh tế hàng hải; xây dựng các trung tâm tiến ra biển; du lịch biển;
đào tạo nhân lực biển và nuôi trồng hải sản.
Để thực hiện Kết luận 60-KL/TW của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc biển,
tập trung phát triển 6 nhóm ngành kinh tế biển theo Điều 43 Luật Biển Việt
Nam năm 2012, Nghị quyết của Chính phủ số 27/2007/NQ-CP ngày 30-52007 ban hành Chƣơng trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X về Chiến lƣợc
biển Việt Nam đến năm 2020, định hƣớng phát triển kinh tế biển, đảo vùng

Bắc Trung Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, cần triển khai thực
hiện một số giải pháp:
Một là, sơ kết, đánh giá nghiêm túc, chính xác các nhiệm vụ trong
Chƣơng trình hành động thực hiện Chiến lƣợc biển, trong đó trọng tâm là

16


đánh giá về xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế biển, đảo, thực hiện các dự
án đầu tƣ trọng điểm và việc di giãn dân đến các huyện ven biển; đồng thời,
đề xuất các nhiệm vụ mới trong phát triển kinh tế biển phù hợp với bối cảnh
mới.
Hai là, xây dựng các chƣơng trình nâng cao văn minh thƣơng mại, văn
minh du lịch; xúc tiến, quảng bá hình ảnh chung cho toàn vùng; chƣơng trình
ứng phó và giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu; tiếp tục thực hiện các
chƣơng trình hỗ trợ ngƣ dân, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời dân biển, đảo
bám biển, mở rộng sinh kế theo hƣớng bền vững.
Ba là, các địa phƣơng tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hóa, đồng bộ hóa
các chính sách phát triển kinh tế biển, đảo của Trung ƣơng phù hợp với tình
hình của địa phƣơng mình. Tăng cƣờng và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện Chiến lƣợc biển. Kiện toàn,
ổn định các cơ quan quản lý biển đảo tại địa phƣơng. Tăng cƣờng kết nối,
phối hợp giữa các địa phƣơng trong vùng, giữa địa phƣơng với các bộ, ngành
trung ƣơng; tăng cƣờng hiện đại hóa cơ sở vật chất và hệ thống thông tin liên
lạc trên các tuyến ven biển, đảo và trên biển.
Bốn là, đẩy mạnh phổ biến và cập nhật kiến thức về biển, đảo cho các
ngành, các cấp, cho ngƣ dân, tạo ra sự hiểu biết và thống nhất trong cách quản
lý, thực hiện, giám sát các hoạt động liên quan đến kinh tế biển và vấn đề chủ
quyền quốc gia; kết hợp chặt chẽ, gắn bó phát triển kinh tế biển, đảo với bảo
vệ toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, với các hoạt động quốc phòng an ninh.

- Định hướng phát triển du lịch biển, đảo tỉnh Nghệ An đến năm 2020,
của Nguyễn Đình Mạnh đăng trên trang tin điện tử www.tailieu.vn. Bài viết
nghiên cứu các giải pháp khai thác có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế của
vùng ven biển và hải đảo của tỉnh Nghệ An phục vụ phát triển du lịch gắn với
đảm bảo an ninh quốc phòng trên biển và hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở

17


xác định rõ các định hƣớng phát triển chủ yếu của du lịch biển, đảo trong mối
quan hệ với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và các mục
tiêu chiến lƣợc về phát triển kinh tế biển.Đồng thời xác định mục tiêu, định
hƣớng và giải pháp phát triển du lịch biển, đảo Nghệ An đến năm 2020 trên
cơ sở phát huy vai trò, thế mạnh tài nguyên du lịch biển, sử dụng hiệu quả và
tiết kiệm các nguồn lực về du lịch biển, đẩy nhanh tốc độ phát triển của du
lịch Nghệ An nói chung, du lịch biển, đảo nói riêng.
- Công ty yến sào Khánh Hòa kết hợp tốt giữa bảo vệ các đảo yến với
xây dựng thế trận quốc phòng an ninh trên biển của tác giả Đăng Khoa đăng
trên trang tin điện tử của đài truyền thanh và truyền hình Khánh Hòa
/>Là một doanh nghiệp nhà nƣớc, Công ty TNHH Nhà Nƣớc một thành
viên Yến sào Khánh Hòa hiện đang quản lý trên 30 đảo yến với 152 hang yến.
Những năm qua, cùng với việc ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học để phát
triển đàn yến, công ty còn xây đƣợc 2 trung đội tự vệ biển làm nhiêm vụ bảo vệ
đàn yến trên các đảo, phối hợp với các lực lƣợng chức năng giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên tuyến biển đảo tỉnh Khánh Hòa.
Trong chiến lƣợc phát triển sản xuất kinh doanh, Công ty luôn chú
trọng đến công tác bảo vệ an toàn doanh nghiệp, đặc biệt là bảo vệ an ninh
quốc phòng tuyến biển đảo. Đây là lực lƣợng nòng cốt để giữ gìn an ninh
tuyến biển đảo, nhất là các đảo yến và phát triển nguồn tài nguyên yến sào
của tỉnh. Sắp tới Công ty sẽ tiếp tục xây dựng lực lƣợng tự vệ công ty, nâng

cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ kinh tế
kết hợp với an ninh quốc phòng.
Với mục tiêu phát triển bền vững, Công ty yến sào Khánh Hòa tiếp tục
đẩy mạnh công tác lãnh đạo chính trị tƣ tƣởng, thực hiện tốt nhiệm vụ kết hợp

18


×