Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

THỦ TỤC PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC KHÁC TRONG XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.95 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VIẾT HẢI

THỦ TỤC PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
VỚI CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC KHÁC
TRONG XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VIẾT HẢI

THỦ TỤC PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
VỚI CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC KHÁC
TRONG XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS HOÀNG THỊ QUỲNH CHI



HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
trung thực và khách quan.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem
xét để tôi bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Viết Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC PHỐI HỢP
GIỮA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI CÁC CƠ QUAN,
TỔ CHỨC TRONG XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ ........................................................................................................... 7
1.1. Khái quát về thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự
với các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành án
dân sự .......................................................................................................... 7
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả phối hợp giữa cơ quan Thi
hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều
kiện thi hành án dân sự ............................................................................. 22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC

HIỆN THỦ TỤC PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ VỚI CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC KHÁC TRONG XÁC MINH
ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI QUẬN HOÀNG MAI,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................................. 26
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về thủ tục phối hợp giữa cơ quan
Thi hành án dân sự với cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều
kiện thi hành án dân sự ............................................................................. 26
2.2. Thực tiễn thực hiện thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi hành án
dân sự với các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi
hành án dân sự trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội ............ 40
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN THỦ TỤC PHỐI HỢP GIỮA CƠ QUAN THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC KHÁC
TRONG XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ
THỰC TIỄN QUẬN HOÀNG MAI, HÀ NỘI ........................................... 65


3.1. Phương hướng .................................................................................... 65
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục phối hợp
giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức khác trong
xác minh điều kiện thi hành án dân sự ...................................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHV

: Chấp hành viên


LTHADS

: Luật Thi hành án dân sự

LTHADS 2008

: Luật Thi hành án dân sự năm 2008

LTHADS 2014

: Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014

TAND

: Tòa án nhân dân

THADS

: Thi hành án dân sự

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động tổ chức thi hành phần dân sự
của những bản án, quyết định có hiệu lực thi hành theo quy định của pháp luật.
Đây là giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng để những phán quyết trên giấy
của tòa án được thực thi trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Chính vì hoạt động THADS tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của
các chủ thể tham gia nên THADS là công việc vô cùng phức tạp, dễ gây ra sự bất
hợp tác, bức xúc, chống đối của những người liên quan. Hoạt động THADS đòi
hỏi sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, tổ chức như: Công an, Tòa án nhân
dân (TAND), Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Ủy ban nhân dân (UBND),
Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, Bảo hiểm xã hội, cơ quan thuế, cơ quan
đăng ký kinh doanh...Việc phối hợp tốt với các cơ quan, tổ chức hữu quan là một
trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của công tác THADS.
Quá trình giải quyết việc thi hành án, cơ quan THADS phải triển khai
nhiều hoạt động khác nhau như: thông báo, xác minh điều kiện THADS, thuyết
phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành, thỏa thuận thi hành án, áp dụng
biện pháp bảo đảm, tổ chức cưỡng chế...Trong các hoạt động đó, xác minh điều
kiện THADS là hoạt động cần sự phối hợp chặt chẽ, tích cực từ phía các chủ thể
khác. Kết quả xác minh càng chính xác, càng đầy đủ thì việc tổ chức thi hành án
càng đạt hiệu quả và ngược lại.
Nhận thức được vai trò của hoạt động xác minh điều kiện THADS trong
quá trình giải quyết việc thi hành án, những năm gần đây, thể chế về xác minh
điều kiện THADS đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý hiệu quả
cho việc triển khai trên thực tế. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa cơ quan THADS và

các cơ quan, tổ chức có liên quan trong xác minh điều kiện THADS vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác xác minh điều
kiện THADS nói riêng và hiệu quả công tác THADS nói chung.
Qua nghiên cứu đề tài: “Thủ tục phối hợp giữa cơ quan THADS với
các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện THADS từ thực tiễn

1


quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội”, luận văn góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận về sự phối hợp giữa cơ quan THADS và các cơ quan hữu quan
trong xác minh điều kiện THADS, thực tiễn quan hệ phối hợp tại địa bàn quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, chỉ rõ và phân tích những nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế và từ đó kiến nghị một số giải pháp để nâng cao hiệu quả
phối hợp xác minh điều kiện THADS trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, các đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực THADS đã
được nhiều tác giả nghiên cứu, tập trung vào một số lĩnh vực như: địa vị pháp lý của
cơ quan THADS và CHV, quản lý nhà nước trong THADS, hoàn thiện hệ thống
pháp luật về THADS, các thủ tục THADS...Riêng trong lĩnh vực xác minh điều
kiện THADS, việc nghiên cứu hầu hết mới chỉ được đề cập đến trong số tạp chí,
diễn đàn pháp luật, giáo trình giảng dạy về THADS của Trường Đại học Luật Hà
Nội, Học viện tư pháp, mà thiếu các đề tài nghiên cứu theo chiều sâu. Có thể kể đến
một số đề tài nổi bật nghiên cứu về vấn đề xác minh điều kiện THADS như:
- Đề tài "Xác minh điều kiện THADS": Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ năm 2013
của tác giả Đinh Thanh Hương, Trường Đại học quốc gia Hà Nội nghiên cứu những
vấn đề cơ bản trong xác minh điều kiện THADS như khái niệm, đặc điểm, cơ sở của
quy định về xác minh điều kiện THADS, nội dung các quy định và thực tiễn thực
hiện các quy định về xác minh điều kiện THADS. Tuy nhiên, luận văn mới đề cập
đến những vấn đề mang tính lý luận chung, chưa đi sâu nghiên cứu sự phối hợp giữa

cơ quan THADS và các cơ quan, tổ chức khác trong hoạt động này.
- Đề tài "Thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS qua thực tiễn
tỉnh Nghệ An": Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ năm 2017 của tác giả Nguyễn Hồng
Trung, Trường Đại học quốc gia Hà Nội. Luận văn có ý nghĩa thực tiễn với địa
bàn tỉnh Nghệ An nhưng phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung ở các quy định pháp
luật chung về xác minh điều kiện THADS mà chưa đi sâu phân tích, làm rõ mối
quan hệ phối hợp trong hoạt động này.
Nghiên cứu về mối quan hệ phối hợp trong THADS cũng chỉ chiếm một
số lượng nhỏ trong số các nghiên cứu về THADS, có thể kể đến các số đề tài
đáng chú ý như:

2


- Đề tài“Mối quan hệ giữa các cơ quan trong THADS”: Luận văn tốt
nghiệp thạc sỹ năm 2008 của tác giả Lê Thị Hồng Hạnh, Trường Đại học Luật
Hà Nội. Luận văn được viết vào thời kỳ Luật THADS 2008 mới được ban hành,
đến hiện tại,một số vấn đề đã không còn phù hợp với thực tiễn.
- Đề tài“Nguyên tắc trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
với cơ quan THADS, Chấp hành viên”: Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ năm 2013
của tác giả Lê Hồng Suy, Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn tập trung vào
nghiên cứu trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong mối quan hệ với cơ quan
THADS, chưa đi sâu vào phân tích trách nhiệm của cơ quan THADS trong mối
quan hệ đó nên cần tiếp tục được nghiên cứu bổ sung.
- Đề tài: “Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ
chức hữu quan trong THADS ở tỉnh Thanh Hóa”Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
năm 2015 của tác giả Vi Trọng Thụ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Trong luận văn, tác giả chưa làm rõ lý do và bản chất của từng mối quan hệ nên
cần được nghiên cứu bổ sung thêm.
- Đề tài:"Thủ tục phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức

khác trong cưỡng chế THADS từ thực tiễn tỉnh An Giang", Luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ năm 2018 của tác giả Tô Huy Khoa, Học viện Khoa học xã hội. Luận văn
đi sâu vào việc nghiên cứu mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan THADS với các
cơ quan, tổ chức khác trong việc cưỡng chế THADS tại tỉnh An Giang. Đây là
một lĩnh vực riêng biệt trong hoạt động phối hợp THADS.
- Đề tài: "Sự phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức
khác trong THADS từ thực tiễn thành phố Hà Nội": Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
năm 2019 của tác giả Nguyễn Thu Hằng, Học viện Khoa học xã hộinghiên cứu
về mối quan hệ phối hợp THADS nói chung, gắn với thực tiễn của thành phố Hà
Nội, nhưng chưa đi sâu vào phân tích, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các cơ quan
trong việc xác minh điều kiện THADS.
Ngoài ra, còn một số công trình, đề tài khoa học và các bài viết trên các
tạp chí, diễn đàn pháp luật đề cập đếncác vấn đề lý luận và thực tiễn về xác minh
điều kiện THADS, sự phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức
khác. Tuy nhiên, chưa có đề tài nghiên cứu nào về thủ tục phối hợp giữa cơ quan

3


THADS với các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện THADS. Vì
vậy,thực hiện đề tài "Thủ tục phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ
chức khác trong xác minh điều kiện THADS từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành
phố Hà Nội” là cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xác minh
điều kiện THADS.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
thủ tục phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan tổ chức khác trong xác
minh điều kiện THADS; nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện
thủ tục phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức khác trong xác

minh điều kiện THADS từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Từ đó,
đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực thi thủ tục phối hợp giữa cơ quan THADS và các cơ quan, tổ chức khác
trong xác minh điều kiện THADS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích khái niệm, đặc điểm của thủ tục phối hợp giữa cơ quan
THADS với các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện THADS, làm rõ
các nguyên tắc, phương thức, nội dung, yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện
thủ tục này trên thực tế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục phối hợp giữa cơ
quan THADS với các cơ quan tổ chức khác trong xác minh điều kiện THADS;
Phân tích những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân từ thực tiễn địa bàn
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục phối hợp giữa cơ
quan THADS và các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện THADS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề chung và quy định pháp luật về thủ tục
phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức khác trong hoạt động
xác minh điều kiện THADS, khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn

4


quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là những quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam về thủ tục phối hợp giữa các cơ quan THADS và các cơ quan, tổ
chức khác trong xác minh điều kiện THADS và đánh giá thực tiễn thực hiện thủ
tục phối hợp đó tại quận Hoàng Mai. Số liệu thống kê được thực hiện trong thời

gian từ năm 2016 đến hết năm 2018 (từ thời điểm ngành THADS thực hiện chỉ
tiêu công tác theo Nghị quyết số 111/2015/QH13 về công tác phòng chống vi
phạm pháp luật và tội phạm, công tác của VKSND, của TAND và công tác thi
hành án năm 2016 và các năm tiếp theo của Quốc hội ban hành ngày
27/11/2015)
Thủ tục phối hợp giữa Thừa phát lại và các cơ quan, tổ chức khác trong
xác minh điều kiện THADS không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện THADS được đề cập
đến trong luận vănlà các cơ quan nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức chuyên môn
thuộc cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội nắm giữ hoặc quản
lý thông tin về điều kiện THADS của người phải thi hành án.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, trên
cơ sở kế thừa, phát triển các quan điểm khoa học được rút ra từ các công trình
nghiên cứu trước đây về THADS.
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, thống kê
nhằm khái quát những vấn đề lý luận cơ bản, đánh giá thực trạng và đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác phối hợp trong xác minh điều kiện
THADS.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về thủ tục phối

hợp giữa cơ quan THADS với cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện
THADS, thể hiện ở những nội dung căn bản sau đây:
- Luận văn làm sáng tỏ hơn những lý luận cơ bản về thủ tục phối hợp giữa
cơ quan THADS với cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện THADS.
- Luận văn góp phần đánh giá thực trạng pháp luật về thủ tục phối hợp
giữa cơ quan THADS với cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện
THADS.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng thủ tục phối hợp giữa cơ quan THADS với
cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện THADS trên địa bàn quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
phối hợp trong xác minh điều kiện THADS ở quận Hoàng Mai và địa phương
khác trong cả nước.
Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo với các công
trình nghiên cứu liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu gồm 3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi
hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành
án dân sự.
- Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện thủ tục
phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức khác trong
xác minh điều kiện thi hành án dân sự tại quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
- Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục
phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức khác trong
xác minh điều kiện thi hành án dân sự tại quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC PHỐI HỢP GIỮA
CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỚI CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC
TRONG XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái quát về thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự
với các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và nền
tư pháp, thuật ngữ thi hành án đã trở thành thuật ngữ thu hút sự quan tâm của các
phương tiện thông tin đại chúng, hoạt động thi hành án ngày càng được nhiều
chủ thể trong xã hội quan tâm. Nói đến thi hành án là nói đến việc tổ chức thực
hiện trên thực tế những bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành của Tòa án,
các cơ quan có thẩm quyền theo những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Thi hành án bao gồm thi hành án hình sự, thi hành án hành chính và THADS.
THADS là hoạt động thực hiện “các bản án, quyết định dân sự, hình phạt
tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài
sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản
trong bản án, quyết định hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại” [42, tr.2].
Theo Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa năm 2006 thì
"THADS là hoạt động của cơ quan THADS, người được thi hành án, người phải
thi hành án và các chủ thể khác trong việc thực hiện bản án, quyết định đã có
hiệu lực của Tòa án". Hiện nay còn tồn tại khá nhiều quan điểm khác nhau về
bản chất của THADS, có thể kể đến một số quan điểm như sau:
- Quan điểm cho rằng THADS là hoạt động tư pháp. Nói như vậy vì các
lý do sau đây:
Thứ nhất, THADS diễn ra ngay sau quá trình xét xử và được pháp luật tố
tụng quy định. Sau khi bản án, quyết định của tòa án được ban hành thì bản án


7


đó phải được mọi người tôn trọng và phải được bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh
trên thực tế.
Thứ hai, THADS là hoạt động bảo đảm cho việc biến các phán quyết của
tòa án trở thành hiện thực, có xét xử thì phải có thi hành án.“Xét xử và thi hành
án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự” [3, tr.43].
Một phán quyết của tòa án nếu không được tổ chức thi hành thì quyền lợi hợp
pháp của đương sự cũng chỉ là thứ quyền lợi trên giấy, mà không có một ý nghĩa
thực tế nào cả. Quá trình tổ chức thi hành án không được phép “sáng tạo” mà
phụ thuộc vào nội dung phán quyết của Tòa án. Hoạt động THADS là hoạt động
bắt nguồn từ quá trình xét xử. Bản án của tòa án là căn cứ để tổ chức thi hành án,
nó xác định nội dung, mức độ, phạm vi tổ chức thi hành án. Khi bản án của Tòa
án có sự thay đổi thì việc tổ chức thi hành án cũng buộc phải thay đổi theo. Ví dụ
như: Khi nhận được quyết định giám đốc thẩm của Tòa án thì cơ quan THADS
phải ra quyết định đình chỉ thi hành án, khi nhận được bản án xét xử lại của tòa
án thì cơ quan THADS ra quyết định thi hành án mới để tổ chức thi hành…
Thứ ba, ở Việt Nam, trong một thời gian dài (cho đến trước năm 1993),
THADS là một bộ phận của Tòa án, nằm hoàn toàn trong Tòa án. Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
của Bộ chính trị cũng xác định cơ quan thi hành án là một trong số các cơ quan
tư pháp, gồm: Cơ quan điều tra, VKSND, TAND và cơ quan thi hành án. Điều
này thể hiện tính chất tư pháp của hoạt động THADS.
- Quan điểm thứ hai cho rằng THADS là hoạt động hành chính, vì các lý
do sau:
Thứ nhất, quá trình tố tụng là quá trình đi tìm sự thật với nhiều giai đoạn
khác nhau, nhưng khi có bản án của Tòa án thì giai đoạn đi tìm sự thật và hướng
giải quyết sự thật đó đã kết thúc.“Tố tụng là quá trình đi tìm chân lý, còn

THADS là quá trình thực thi chân lý bằng công lý" [35, tr.9]. THADS mặc dù
tiếp nối sau giai đoạn tố tụng nhưng nó không phải là một giai đoạn tố tụng.
Thứ hai, quá trình tổ chức THADS mang tính chất chấp hành, điều hành,
do các cơ quan THADS, được tổ chức theo ngành dọc do Bộ Tư pháp (cơ quan

8


thuộc Chính phủ) thống nhất quản lý. Thủ tục THADS là thủ tục mang tính hành
chính nhằm mục đích thực thi các bản án, quyết định của Tòa án.
Hai quan điểm nói trên đều có những căn cứ khoa học riêng để lý giải,
nhưng đều có điểm hạn chế là đã tuyệt đối hóa một tính chất cụ thể của THADS.
Cần phải thấy rằng, mặc dù THADS là hoạt động bảo vệ pháp luật nhưng nó
không đơn thuần chỉ là hoạt động mang tính tư pháp bởi lẽ khi bản án của Tòa án
có hiệu lực pháp luật thì đúng sai đã được chỉ rõ ràng, chân lý đã được làm sáng
tỏ. Việc tổ chức thi hành án chịu sự điều chỉnh của pháp luật về THADS, do cơ
quan THADS thực hiện, không thuộc chức năng của cơ quan xét xử, cũng không
chịu sự điều chỉnh của pháp luật tố tụng. THADS cũng không chỉ đơn thuần là
hoạt động hành chính vì hoạt động hành chính là hoạt động mang tính chất chấp
hành, điều hành, các quyết định hành chính được ban hành, có tính chất bắt buộc thi
hành với cấp dưới. Trong khi đó, THADS là hoạt động thực hiện phán quyết của
Tòa án chứ không phải chỉ tuân theo mệnh lệnh hành chính. Thực chất hoạt động
hành chính trong THADS chỉ để đảm bảo cho việc tổ chức thi hành án mà thôi.
Vì vậy, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng THADS là hoạt động
hành chính-tư pháp. THADS là khâu nối liền giữa hoạt động tư pháp và hoạt
động hành chính. Cần phải đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ quan tư pháp
với các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình tổ chức thi hành án thì mới
có thể đảm bảo hiệu quả của công tác THADS.
1.1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
a) Chủ thể thực hiện hoạt động THADS là Chấp hành viên (CHV): CHV

là người trực tiếp được thủ trưởng đơn vị giao nhiệm vụ tổ chức các quyết định
thi hành án cụ thể.
b) Đối tượng của THADS: Là các bản án, quyết định của Tòa án, quyết
định của Trọng tài thương mại và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, nhưng cần
lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Các bản án, quyết định đó phải có hiệu lực pháp luật hoặc thuộc
trường hợp chưa có hiệu lực pháp luật nhưng phải được tổ chức thi hành ngay
theo quy định tại Điều 2 LTHADS 2014.

9


Thứ hai: THADS không chỉ là thi hành các bản án, quyết định dân sự mà
nó còn thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định về hình sự, hành
chính.Các bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục THADS bao gồm: " bản
án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu
lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án,
quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà
án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi
hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài
thương mại"[45, Điều 1]
c)THADS là hoạt động được thực hiện theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định: Điều này là hoàn toàn dễ hiểu khi mà hoạt động THADS có
sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau với nhiều tư cách
khác nhau (như là chủ thể phối hợp, là đương sự...). Hoạt động THADS mang
tính chính trị cao, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức liên quan. Vì vậy, để hoạt động
THADS diễn ra một cách công bằng, hiệu quả, minh bạch, khách quan, tránh sự
tùy tiện thì nó phải được thực hiện theo các nguyên tắc, thủ tục, trình tự mà pháp
luật quy định từ khi bắt đầu đến khi kết thúc.

d) Các biện pháp tổ chức THADS vừa thể hiện tính quyền lực nhà nước,
có tính chất bắt buộc nhưng cũng thể hiện tôn trọng quyền tự định đoạt của
đương sự. Các đương sự được quyền tự thỏa thuận thời gian, phương thức thực
hiện việc thi hành án, với điều kiện không trái pháp luật và đạo đức xã hội,
không làm ảnh hưởng đến người thứ ba. Điều này làm tăng tính tích cực của
công dân trong giai đoạn thi hành án, tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí xã
hội, giảm bức xúc trong nhân dân.
d) THADS là hoạt động có sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong xã hội: Để hoạt động THADS thực sự hiệu quả thì bên cạnh
sự cố gắng của những người làm công tác THADS thì phải có sự phối hợp chặt
chẽ của các cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính,
các tổ chức chính trị - xã hội - kinh tế...Tuy nhiên, cơ quan THADS phải là trung

10


tâm của sự phối hợp, phải chủ động trong mối quan hệ phối hợp đó.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm chung về THADS
như sau: THADS là hoạt động hành chính- tư pháp do cơ quan THADS có thẩm
quyền tổ chức thực hiện, nhằm thực thi các bản án, quyết định của Tòa án hoặc
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
1.1.2. Khái niệm xác minh điều kiện thi hành án dân sự
1.1.2.1 Khái niệm điều kiện thi hành án dân sự
Điều kiện THADS là khái niệm xác định khả năng thực hiện nghĩa vụ
theo nội dung bản án, quyết định của tòa án của người phải thi hành án. Điều 3
Luật THADS năm 2008 quy định: "Có điều kiện thi hành án là trường hợp
người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thực hiện nghĩa vụ về tài sản; tự
mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án". Như vậy,
"chưa có điều kiện thi hành án" nghĩa là người phải thi hành án chưa có tài sản,
thu nhập để thực hiện nghĩa vụ về tài sản, chưa có khả năng để tự mình hoặc

thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
Khả năng thực hiện nghĩa vụ thi hành án được hiểu cụ thể như sau:
- Người phải thi hành án có tài sản để thi hành nghĩa vụ về tài sản.Tài sản
ở đây có thể là động sản hoặc bất động sản, quyền tài sản và tài sản; tài sản riêng
hoặc tài sản chung với người khác; là tiền mặt hoặc giấy tờ có giá...
- Người phải thi hành án có thu nhập để thực hiện nghĩa vụ về tài sản.
Theo Điều 78 LTHADS 2008 thì thu nhập của người phải thi hành án bao gồm:
Tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và các thu
nhập hợp pháp khác.
- Người phải thi hành án tự mình hoặc thông qua người khác để thực hiện
các nghĩa vụ liên quan đến nhân thân của họ như nghĩa vụ xin lỗi công khai, mở
lối đi, buộc phải thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định...
- Bên cạnh đó, khả năng thực hiện nghĩa vụ thi hành án còn bao gồm cả
những yếu tố liên quan đến việc tổ chức thi hành án như nhân thân của người
phải thi hành án, dư luận xã hội ở địa phương...

11


1.1.2.2 Khái niệm xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Hiểu theo nghĩa chung nhất thì xác minh chính là việc thu thập các chứng
cứ, tài liệu để tìm hiểu, chứng minh một vấn đề nào đó. Xác minh điều kiện
THADS được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, cụ thể:
Theo tác giả Hoàng Thị Thu Trang-Cục THADS tỉnh Nghệ An thì: "Xác
minh điều kiện THADS là việc Chấp hành viên thu thập thông tin, tiếp cận, xác
định đối tượng, mục tiêu cần phải thi hành ( tài sản, thu nhập của người phải thi
hành án, vật, giấy tờ, nhà phải trả…) và các thông tin khác phục vụ cho quá
trình tổ chức thi hành án như: Nhân thân, hoàn cảnh gia đình của người phải thi
hành án”[30, tr.1]
Quan điểm của tác giả Nguyễn Bích Thảo và Nguyễn Thị Hương Giang

thì lại cho rằng: "Xác minh THADS là hoạt động nhằm làm rõ người phải thi hành án
có điều kiện thi hành án dân sự hay không, bao gồm việc thu thập thông tin về tài
sản, thu nhập của người phải thi hành án, về đối tượng phải thi hành ( như vật, giấy
tờ, nhà phải trả…) và các thông tin khác phục vụ cho quá trình tổ chức thi hành án
như: nhân thân, hoàn cảnh gia đình người phải thi hành án” [47, tr.3]
Giáo trình nghiệp vụ thi hành án dân sự của Học viện tư pháp nêu định
nghĩa xác minh điều kiện THADS là:“Làm rõ người phải thi hành án (có thể là
cá nhân hoặc tổ chức) có điều kiện thi hành án hay không có điều kiện thi hành
và do CHV thực hiện”[32, tr.90]
Các quan điểm trên có những điểm khác nhau nhưng đều thống nhất đặc
điểm của xác minh THADS như sau:
- Về chủ thể tiến hành: Chủ thể của hoạt động xác minh điều kiện THADS
là CHV.CHV có nhiệm vụ: "Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài
liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với
cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến
thi hành án" [42, Điều 17]. Điều này khác với hoạt động điều tra của cơ quan
công an do điều tra viên tiến hành, cũng khác với hoạt động thanh tra nhà nước
do các thanh tra viên chịu trách nhiệm thực hiện.

12


- Về nội dung xác minh, bao gồm:
+ Xác minh tài sản, thu nhập của ngưởi phải thi hành án để thực hiện các
nghĩa vụ thi hành án về trả nợ, cấp dưỡng, bồi thường...
+ Xác minh đối tượng phải thi hành án trong các vụ việc về giao nhà, giao
vật, giấy tờ...
+ Xác minh nhân thân người phải thi hành án như: hoàn cảnh gia đình, ý
thức chấp hành pháp luật…để có biện pháp tác động phù hợp trong quá trình làm

việc với người phải thi hành án.
+ Xác minh các vấn đề liên quan đến quá trình tổ chức thi hành án như dư
luận xã hội ở địa phương, địa hình giao thông xung quanh khu vực thi hành án...
- Về mục đích xác minh: Làm rõ người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án hay không có điều kiện thi hành án. Căn cứ vào kết quả xác minh, CHV
phân loại được hồ sơ thi hành án, áp dụng các biện pháp để tổ chức thi hành hoặc
xếp vào diện chưa có điều kiện thi hành hoặc ủy thác cơ quan thi hành án khác
giải quyết.
Qua các phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa như sau: Xác minh điều
kiện THADS là việc CHV thu thập các thông tin về điều kiện thi hành án của
người phải thi hành án, kết quả xác minh làm cơ sở cho việc tổ chức thi hành án
theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ
quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự
1.1.3.1. Khái niệm thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với
các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Cơ quan THADS là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi
hành các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành theo trình tự thủ tục của pháp
luật THADS. Theo quy định hiện hành thì các cơ quan THADS gồm: Cơ quan
THADS cấp tỉnh (Cục THADS), Cơ quan THADS cấp huyện (Chi cục THADS)
và Cơ quan thi hành án cấp quân khu (Phòng thi hành án).
Các cơ quan, tổ chức khác trong THADS là các cơ quan, tổ chức có liên
quan đến hoạt động THADS như: TAND, VKSND, UBND các cấp, Công an,

13


Kho bạc nhà nước, các tổ chức tín dụng, Bảo hiểm xã hội, cơ quan đăng ký giao
dịch bảo đảm, các tổ chức chính trị - kinh tế - xã hội khác. Nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan này được quy định trong pháp luật THADS, tập trung tại

Chương VIII LTHADS 2014.
Theo cách hiểu chung nhất, thủ tục là thứ tự và cách thức làm việc theo
một lề lối đã được quy định. Với các cơ quan nhà nước thì thủ tục phải theo quy
định của pháp luật.
Theo nghĩa chung nhất thì phối hợp là "cùng hành động hoặc hoạt động
hỗ trợ lẫn nhau" nhằm đạt được mục đích chung [39, tr.759]. Xét ở khía cạnh
quản lý nhà nước thì phối hợp được hiểu là“ một phương thức, một hình thức,
một quy trình kết hợp hoạt động của các cơ quan, tổ chức lại với nhau để bảo
đảm cho các cơ quan, tổ chức này thực hiện được đầy đủ, hiệu quả các chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhằm đạt được các lợi ích chung."[31,
tr.360]
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: Thủ tục phối hợp giữa cơ quan THADS
với các cơ quan, tổ chức khác trong THADS là cách thức, phương thức kết hợp
hoạt động của cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức khác trong THADS theo
quy định của pháp luật để bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được thi
hành nghiêm chỉnh trên thực tế.
Thủ tục phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức khác
trong xác minh điều kiện THADS là cách thức, phương thức kết hợp hoạt động
của cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức khác trong việc thu thập các thông
tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, làm cơ sở cho việc tổ
chức thi hành án theo quy định của pháp luật.
1.1.3.2. Ý nghĩa của việc phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với
các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Sự phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức khác trong xác
minh điều kiện THADS có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình tổ chức
thi hành án, thể hiện ở các nội dung sau:

14



a) Xác minh điều kiện THADS là hoạt động trung tâm trong quá trình tổ
chức THADS. Cơ quan THADS không thể nắm bắt được điều kiện thi hành án
của người phải thi hành án nếu không tiến hành hoạt động xác minh. Thông tin
về điều kiện THADS của người phải thi hành án chỉ có thể thu thập được thông
qua các cơ quan, tổ chức quản lý thông tin. Mỗi cơ quan, tổ chức có liên quan
trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình đều có trách nhiệm phối hợp, giúp
đỡ cơ quan THADS thực hiện mục tiêu chung. Không phối hợp thì không thể có
hoạt động xác minh điều kiện THADS trên thực tế.
b)Việc cung cấp các thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi
hành án chỉ đảm bảo tính khách quan, chính xác và được sử dụng để phân loại hồ
sơ, áp dụng các biện pháp giải quyết theo quy định của pháp luật khi những
thông tin đó do các cơ quan, tổ chức có chức năng quản lý các thông tin cung
cấp cho cơ quan thi hành án, chẳng hạn như: Thông tin về số dư tài khoản phải
do tổ chức tín dụng cung cấp, thông tin về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp phải do cơ quan đăng ký kinh doanh cung cấp…Đối với Chấp
hành viên, nếu hồ sơ thi hành án không lưu biên bản xác minh hoặc biên bản xác
minh không đúng thời hạn, nội dung xác minh không triệt để thì có nghĩa là
CHV đã vi phạm quy định trong quá trình giải quyết hồ sơ. Bên cạnh đó, trong
nhiều trường hợp, chỉ CHV tham gia xác minh là không đủ, mà cần có sự giám
sát của VKSND, cần sự tham gia chứng kiến của chính quyền địa phương thì kết
quả xác minh mới được pháp luật chấp nhận.
1.1.3.3. Chủ thể tham gia phối hợp trong xác minh điều kiện thi hành án
dân sự
Việc phối hợp xác minh điều kiện THADS được tiến hành khi có ít nhất hai
phía chủ thể: Phía chủ thể yêu cầu phối hợp và phía chủ thể thực hiện yêu cầu phối
hợp đó.Trong xác minh điều kiện THADS, các chủ thể tham gia gồm có:
a ) Chủ thể yêu cầu phối hợp là CHV: CHV là người đại diện cho cơ quan
THADS, là chủ thể tham gia và chịu trách nhiệm trực tiếp trong quá trình xác
minh điều kiện THADS. CHV là người chủ động liên hệ, đề nghị các cơ quan, tổ
chức hữu quan phối hợp để thực hiện nhiệm vụ được giao.Trong quá trình đó,


15


CHV có thể phân công cho Thư ký triển khai một số nội dung công việc như:
Soạn thảo các công văn đề nghị cung cấp thông tin, đặt lịch làm việc, ghi biên
bản xác minh... nhưng người chịu trách nhiệm phải là CHV. CHV cũng có thể
mời đại diện các cơ quan hữu quan như: VKSND cùng cấp, đại diện UBND,
công an... tham gia để đảm bảo việc xác minh diễn ra khách quan, công khai, an
toàn, hiệu quả.
b) Chủ thể thực hiện yêu cầu phối hợp xác minh điều kiện THADS là các
cơ quan, tổ chức đang nắm giữ, quản lý thông tin về điều kiện thi hành án của
người phải thi hành ántrên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định
của pháp luật: Chủ thể này rất đa dạng và phong phú, có thể là cơ quan nhà
nước, cơ quan chuyên môn thuộc cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - chính
trị- xã hội...tùy hồ sơ cụ thể. Cần phải thấy rằng trách nhiệm phối hợp chỉ phát
sinh khi có đề nghị trực tiếp từ phía cơ quan THADS, và trong phạm vi các nội
dung cơ quan THADS yêu cầu. Cơ quan, tổ chức phối hợp có thể cử cán bộ của
mình cung cấp thông tin, nhưng chủ thể chịu trách nhiệm là người đứng đầu cơ
quan, tổ chức đó.
1.1.3.4. Nguyên tắc thực hiện phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự
với các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Nguyên tắc phối hợp trong xác minh điều kiện THADS được hiểu là
những tư tưởng chủ đạo điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan THADS với các
cơ quan tổ chức khác trong xác minh điều kiện THADS phù hợp với ý chí nhà
nước và có tính bắt buộc đối với các chủ thể tham gia. Việc phối hợp trong xác
minh điều kiện thi hành án phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
a) Nguyên tắc tuân thủ quy định của pháp luật
Pháp luật là những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của nhà nước, được bảo đảm

thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Nhà nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật nên
cơ quan THADS và các cơ quan, tổ chức khác khi tham gia xác minh điều kiện
THADS đều phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của
pháp luật. Nếu CHV thực hiện không đúng, cơ quan tổ chức có quyền từ chối trả

16


lời. Ngược lại, nếu cơ quan, tổ chức từ chối cung cấp thông tin mà không có lý do
chính đáng cũng sẽ phải chịu trách nhiệm tùy theo mức độ vi phạm.
b) Nguyên tắc chủ động, kịp thời
Có thể nói, đây là nguyên tắc đặc trưng trong hoạt động phối hợp xác
minh điều kiện THADS. Tính chủ động thể hiện ở chỗ CHV phải là người liên
hệ, yêu cầu các cơ quan tổ chức cung cấp thông tin liên quan đến vụ việc mình tổ
chức thi hành, còn các cơ quan tổ chức phải có trách nhiệm trả lời trong thời gian
pháp luật quy định. Nếu CHV không yêu cầu cung cấp thông tin, thì các cơ quan
tổ chức không có căn cứ và không có nghĩa vụ phải cung cấp các thông tin đó
cho cơ quan thi hành án. Tính kịp thời biểu hiện ở việc pháp luật quy định rất rõ
thời hạn xác minh của CHV đối với từng trường hợp cụ thể, đồng thời quy định
thời gian cung cấp thông tin của các cơ quan tổ chức liên quan. Tính chủ động và
kịp thời góp phần ngăn chặn, phòng ngừa việc đương sự tẩu tán tài sản, nhất là
tài khoản hoặc động sản, giúp CHV áp dụng các biện pháp tổ chức thi hành án
đúng lúc, đảm bảo hiệu quả của công tác thi hành án. Cần thấy rằng kịp thời
chính là một biểu hiện của nguyên tắc chủ động, và đã chủ động cần phải đảm
bảo tính kịp thời trong việc phối hợp xác minh điều kiện THADS.
c) Đảm bảo sự phối hợp không làm ảnh hưởng đến chức năng, nhiệm vụ
và hoạt động chuyên môn của các cơ quan, tổ chức khác
Cũng như cơ quan THADS, các cơ quan, tổ chức khác cũng có những
nhiệm vụ chuyên môn riêng của mình. Do đó, yêu cầu phối hợp xác minh điều
kiện THADS chỉ được thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ

của cơ quan, tổ chức được yêu cầu cung cấp thông tin và cơ quan THADS. Để
đảm bảo hiệu quả công việc của cả hai bên, CHV cần có sự nhạy bén, cân nhắc
trong việc lựa chọn thời điểm, địa điểm và nội dung phối hợp cụ thể. Còn các cơ
quan, tổ chức khi phối hợp với cơ quan THADS cũng cần có lộ trình làm việc,
cân đối thời gian và nhân lực để đảm bảo hiệu quả phối hợp. Chẳng hạn như đối
với việc xác minh hiện trạng tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở,
CHV phải trao đổi trước với chính quyền địa phương về thời gian tổ chức thực
hiện, tránh vào thời điểm địa phương ưu tiên cho các hoạt động chính trị, văn

17


hóa, xã hội quan trọng. CHV cũng cần phải bảo mật thông tin, chỉ sử dụng
những thông tin được cung cấp vào việc giải quyết hồ sơ thi hành án.
1.1.3.5. Nội dung yêu cầu phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với
các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Nội dung yêu cầu phối hợp trong xác minh điều kiện THADS là các thông
tin về khả năng thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án. CHV có thể yêu
cầu cơ quan, tổ chức đang quản lý thông tin cung cấp các thông tin như sau:
- Yêu cầu Ngân hàng, Tổ chức tín dụng khác cung cấp thông tin về số tiền
trong tài khoản, sổ tiết kiệm của người phải thi hành án.
- Yêu cầu công ty chứng khoán, đơn vị phát hành giấy tờ có giá cung cấp
thông tin về loại, số lượng, giá trị cổ phiếu hoặc giấy tờ có giá của người phải thi
hành án.
- Yêu cầu các cơ quan đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản cung cấp thông
tin liên quan đến số lượng, chủng loại, tình trạng, thời gian sử dụng, các đặc điểm của
tài sản, người quản lý... đối với các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng như:
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở, một số loại phương tiện giao thông...
- Yêu cầu cơ quan chi trả thu nhập cung cấp thông tin về mức thu nhập,
thời gian, cách thức chi trả thu nhập của người phải thi hành án.

- Yêu cầu chính quyền địa phương cung cấp thông tin về nơi cư trú, tài
sản của người phải thi hành án.
-Yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế cung cấp thông tin về
tình trạng hoạt động của doanh nghiệp
- Yêu cầu Trại giam cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành
án tại trại giam...
1.1.3.6. Trình tự thực hiện thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân
sự với các cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Trong thời hạn pháp luật quy định kể từ khi được giao hồ sơ thi hành án,
CHV phải phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan để xác minh điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án.
Trước khi phối hợp, CHV phải nghiên cứu hồ sơ thi hành án, làm việc với

18


đương sự để xác định cơ quan, tổ chức cụ thể cần phối hợp, nội dung yêu cầu
phối hợp, thời gian phối hợp, thành phần tham gia phối hợp. Đồng thời, CHV
cân nhắc phương thức phối hợp phù hợp nhất.
Trường hợp lựa chọn phương thức trao đổi trực tiếp, CHV thông báo
trước cho cơ quan, tổ chức liên quan để ấn định thời gian làm việc(có thể trao
đổi điện thoại, gửi công văn đặt lịch làm việc…). Chấp hành viên lập biên bản
xác minh điều kiện thi hành án để ghi lại những thông tin do cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền cung cấp. Biên bản có chữ ký, con dấu của các thành phần tham gia
theo quy định.
Trong trường hợp lựa chọn phương thức gửi văn bản đề nghị cung cấp
thông tin, CHV dự thảo công văn ghi rõ nội dung yêu cầu cung cấp, thời hạn
cung cấp, các tài liệu gửi kèm theo văn bản trả lời. Chấp hành viên ký công văn
hoặc trình lãnh đạo đơn vị ký theo thẩm quyền. Công văn được gửi thông qua
bưu điện hoặc gửi trực tiếp cho đơn vị được yêu cầu cung cấp thông tin.

Trên cơ sở kết quả thông tin thu thập được (bằng biên bản xác minh, công
văn trả lời của cơ quan, tổ chức liên quan), CHV đề xuất Thủ trưởng cơ quan ra
các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền hoặc lựa chọn các biện pháp tổ
chức thi hành án phù hợp.
Tuy nhiên, cần chú ý rằng, hoạt động xác minh là hoạt động diễn ra liên
tục, trong suốt quá trình giải quyết hồ sơ thi hành án và CHV có thể phải phối
hợp với nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau. Do đó, CHV cần xác định đúng cơ
quan phối hợp và thời hạn thực hiện theo quy định của pháp luật để tránh vi
phạm trong nội dung này.
1.1.3.7. Phương thức phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các
cơ quan, tổ chức khác trong xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Phương thức phối hợp được hiểu là là cách thức thực hiện việc phối hợp
giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức khác nhằm xác minh điều kiện
THADS của người phải thi hành án. Có nhiều phương thức phối hợp khác nhau
hiện đang được sử dụng trong xác minh điều kiện THADS, như:

19


×