Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 104 trang )

TRẦN HOÀNG DŨNG

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG DŨNG

NGÀNH TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

KHÓA II/2017

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG DŨNG

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS NGUYỄN NGỌC ANH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi – Trần Hoàng Dũng - xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu thống kê, kết quả đề cập trong Luận văn là trung thực, chính xác
và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRẦN HOÀNG DŨNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI PHẠM..................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm ...................................... 6
1.2. Các nguyên tắc phòng ngừa và nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm......... 11
1.3. Các chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa và biện pháp phòng ngừa........... 14
1.4. Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm .............................................................. 22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN TỪ
NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018 ................................................................................... 25
2.1. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện
Củ Chi ....................................................................................................................... 25
2.2. Thực trạng tổ chức lực lượng và triển khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa
tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi .......................................................... 28

2.3. Nhận xét, đánh giá về thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn
huyện Củ Chi ............................................................................................................ 51
Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ PHÒNG
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CỦ CHI .......................... 62
3.1. Dự báo khả năng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi,
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới ............................................................ 62
3.2. Giải pháp tăng cường hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn
huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới ..................................... 66
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 81
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 86


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1

ANTT

: An ninh trật tự

2

CAND

: Công an nhân dân

3

CQĐT


: Cơ quan điều tra

4

HĐND

: Hội đồng nhân dân

5

TAND

: Tòa án nhân dân

6

THTP

: Tình hình tội phạm

7

TTHS

: Tố tụng hình sự

8

TP.HCM


: Thành phố Hồ Chí Minh

9

UBND

: Ủy ban nhân dân

10

KSV

: Kiểm sát viên

11

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê các hình thức mô hình tự quản trên địa bàn huyện Củ Chi (Giai
đoạn từ năm2014 đến năm 2018)
Bảng 2.2. Thống kê về hoạt động tuyên truyền trong phong trào Toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc trên địa bàn huyện Củ Chi (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm
2018)
Bảng 2.3. Thống kê kết quả điều tra, khám phá tội phạm của Công an huyện Củ Chi
(Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)
Bảng 2.4. Thống kê kết quả thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết các vụ án

hình sự của VKSND huyện Củ Chi (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)
Bảng 2.5. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện
Củ Chi (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)
Bảng 2.6. Thống kê tội phạm và người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi được đưa
ra xét xử ở hai cấp (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)
Bảng 2.7. Cơ số tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi (Giai đoạn từ năm 2014 đến
năm 2018)
Bảng 2.8. Thống kê tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi (Giai đoạn từ năm 2014
đến năm 2018)
Bảng 2.9. Thống kê tình hình tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi theo loại tội
phạm (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)
Biểu 2.1. Cơ cấu tình hình tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi theo loại tội phạm
(Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)
Bảng 2.10: Cơ cấu tình hình tội phạm rõ trên địa bàn huyện Củ Chi xét theo tiêu chí
địa bàn nơi xảy ra tội phạm (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)
Bảng 2.11. Thống kê đặc điểm nhân thân người phạm tội trên địa bàn huyện Củ Chi,
TP.HCM (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)
Bảng 2.12. Tỷ lệ giưa số tội phạm đã xét xử và số tội phạm được phát hiện trên địa
bàn huyện Củ Chi, TP.HCM (Giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong xã hội, đe dọa, gây nguy hại cho an ninh, trật tự, an toàn xã hội
của mỗi quốc gia. Chính vì thế, phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu của các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, phòng, chống tội phạm là nội
dung quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, thể hiện qua các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh và
phòng ngừa tội phạm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, các ngành,

các cấp đã triển khai đồng bộ, toàn diện nhiều nội dung, biện pháp đấu tranh phòng,
chống tội phạm, thu được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, THTP hiện nay vẫn
diễn biến phức tạp, đặc biệt là tại một số địa phương cấp huyện, thuộc vùng ven của
các thành phố lớn trong đó có huyện Củ Chi, một huyện ngoại ô của TP.HCM.
Nằm cách trung tâm TP.HCM khoảng 60km về phía Tây Bắc, Củ Chi tiếp giáp
với nhiều địa phương khác như: Huyện Trảng Bàng (Tây Ninh), huyện Hóc Môn
(TP.HCM), Thành phố Thủ Dầu Một (Bình Dương), huyện Đức Hòa (Long An). Với
hệ thống hạ tầng đồng bộ và điều kiện vị trí địa lý thuận lợi, Củ Chi hiện nay là địa
phương thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư trong nước và quốc tế, tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội góp phần nâng cao chất lượng đời sống
nhân dân. Bên cạnh những mặt tích cực về phát triển kinh tế - xã hội nêu trên, huyện
Củ Chi vẫn tồn tại nhiều khó khăn, trong đó có vấn đề kiểm soát và kéo giảm tội
phạm. Trong 05 năm gần đây (từ năm 2014 đến năm 2018), THTP ở huyện Củ Chi
còn diễn biến phức tạp với số vụ phạm pháp hình sự luôn ở mức cao, trung bình mỗi
năm khoảng hơn 500 vụ. Trước tình hình đó, các cấp ủy đảng và chính quyền địa
phương đã chỉ đạo các ban, ngành, tổ chức và công dân tăng cường công tác
PNTHTP. Trong đó, lực lượng nòng cốt là các cơ quan Công an, VKSND và TAND
huyện Củ Chi đã tăng cường phối hợp, tích cực phát hiện, điều tra, truy tố và đưa ra
xét xử kịp thời hầu hết các vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu đấu

2


tranh phòng chống tội phạm, yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương,
được quần chúng nhân dân và dư luận xã hội đồng tình ủng hộ.
Theo số liệu thống kê hình sự, đến năm 2018, số vụ và số người phạm tội trên
địa bàn huyện Củ Chi đã được kéo giảm đáng kể so với năm 2014 nhưng nhiều loại
tội phạm đang có chiều hướng gia tăng với tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng
cao. Điều này cho thấy, mặc dù, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa
bàn đã đạt được những hiệu quả nhất định, tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế thì vẫn

còn bộc lộ nhiều thiếu sót, đòi hỏi cần có những giải pháp toàn diện và hiệu quả hơn
để kiểm soát và kéo giảm tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời gian tới.
Ngoài ra, từ góc độ lý luận, PNTHTP đã được quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên
vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về PNTHTP trên địa bàn huyện Củ Chi. Do
đó, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về PNTHTP ở địa phương này chưa được nhận
thức thống nhất.
Từ tình hình trên, học viên cho rằng việc nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ
“Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí
Minh” đáp ứng được tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề PNTHTP trong thời gian qua đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học, tác giả, thể hiện qua một số công trình khoa học sau đây:
- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của TS. Phạm Văn
Tỉnh, Nxb.CAND, năm 2007;
- “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” - Sách chuyên khảo của
GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm năm 2001, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội…
- “Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng
Nai” của Lê Xuân Trường, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội năm
2017…
- “Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh”
của Trịnh Hùng, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017;
Ngoài những công trình kể trên, còn có khá nhiều bài viết về PNTHTP ở nhiều

3


góc độ, phạm vi nghiên cứu khác nhau, tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về vấn đề PNTHTP trên địa
bàn huyện Củ Chi. Do đó, nội dung nghiên cứu của Luận văn này không trùng lặp
với các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ lý luận và thực tiễn PNTHTP trên địa bàn huyện
Củ Chi, Luận văn tìm ra những giải pháp tăng cường PNTHTP trên địa bàn huyện
Củ Chi trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về phòng ngừa tình hình tội phạm;
+ Nghiên cứu thực trạng tình hình các tội phạm và phòng ngừa tình hình tội
phạm trên địa bàn huyện Củ Chi từ năm 2014 đến 2018 để tìm ra nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế trong công tác này.
+ Dự báo khả năng PNTHTP trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM; đề xuất
giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả PNTHTP trong thời gian tới trên địa
bàn này.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực trạng
PNTHTP trên địa bàn huyện Củ Chi; các giải pháp nâng cao hiệu quả PNTHTP trên
địa bàn này trong thời gian tới.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu thực trạng PNTHTP trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM
trong thời gian 5 năm (từ năm 2014 đến năm 2018).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của

4


chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về

đấu tranh phòng, chống tội phạm và tri thức khoa học chuyên ngành Tội phạm học.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu Luận văn, ở mỗi Chương, học viên sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Ở Chương 1, học viên sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, nghiên
cứu và trích dẫn tài liệu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về PNTHTP.
Ở Chương 2, học viên sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, khảo sát, để
làm rõ thực trạng PNTHTP trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM.
Ở Chương 3, học viên sử dụng phương pháp đánh giá thực trạng, dự báo tình
hình và đề ra các giải pháp PNTHTP trên địa bàn huyện Củ Chi, TP.HCM một cách
chính xác và hiệu quả.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Luận văn góp phần hoàn thiện lý luận của khoa học Tội phạm
học và bổ sung tri thức của người nghiên cứu về PNTHTP.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là nguồn tài liệu tham
khảo cho việc hoạch định chính sách PNTHTP trên địa bàn huyện Củ Chi trong thời
gian tới; cùng đó có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy về hoạt động PNTHTP.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tình hình tội phạm
Chương 2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Củ
Chi, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018
Chương 3. Dự báo và giải pháp tăng cường hiệu quả phòng ngừa tình hình tội
phạm trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm
Theo Từ điển tiếng Việt, phòng ngừa là “phòng không cho điều bất lợi, tai hại
xảy ra” [53, tr.1339]. THTP được hiểu là “toàn bộ tình hình, cơ cấu, động thái, diễn
biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai đoạn nhất định xảy
ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc toàn
thế giới trong một khoảng thời gian nhất định”.[62, tr.24]. Từ những nhận thức trên,
có thể hiểu về PNTHTP một cách khái quát như sau: Phòng ngừa tình hình tội phạm
là hoạt động phòng trước, không để cho trạng thái, xu thế phát triển của tội phạm
diễn biến theo chiều hướng tiêu cực hơn trên một địa bàn cụ thể và hướng tới triệt
tiêu hành vi phạm tội.
Ở góc độ cụ thể hơn, khái niệm “phòng ngừa tình hình tội phạm” đã được
nghiên cứu trong nhiều công trình khoa học và được hiểu theo những cách khác nhau,
điển hình như: Theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh, “Phòng ngừa tình hình
tội phạm là hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và
Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc
làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại
bỏ tình hình tội phạm” [57, tr.154]. Theo Giáo trình Tội phạm học của trường Đại
học Luật Hà Nội, “Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể
các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức
và công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các
nguyên nhân, điều kiện phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm
và tiến tới loại trừ hoàn toàn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội” [51, tr.210].
Qua nghiên cứu, học viên nhận thấy, về cơ bản, các nhà nghiên cứu đều thống
nhất chỉ ra những vấn đề cốt lõi của khái niệm PNTHTP, đó là:

6



Thứ nhất, PNTHTP là nhiệm vụ chung của toàn xã hội nên cần có sự tham gia
đóng góp tích cực của tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân.
Phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo,
chỉ huy thống nhất của các cấp ủy Đảng và chính quyền.
Thứ hai, PNTHTP là việc sử dụng tổng thể các biện pháp chính trị - tư tưởng,
kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, pháp luật, quản lý nhà nước… để kiểm soát và
tiến tới loại trừ THTP ra khỏi đời sống xã hội.
Thứ ba, PNTHTP mang tính hệ thống, đồng bộ nên đòi hỏi phải kết hợp chặt
chẽ giữa công tác phòng ngừa và đấu tranh, trong đó phòng ngừa là chính, lấy kết quả
phòng ngừa để chủ động tấn công tội phạm. Do đó, phải tiến hành đồng thời những
hoạt động phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) và phòng ngừa riêng (phòng ngừa
nghiệp vụ).
Ngoài ra, để có thể nhận thức một cách đúng đắn, toàn diện những vấn đề về
PNTHTP, học viên cho rằng cần nhận thức được nguyên nhân và điều kiện của THTP
bởi mọi hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại, tiêu vong và bản thân
THTP cũng được hiểu là “một hiện tượng xã hội, pháp lý tiêu cực...” [51, tr.14]. Theo
đó, lý luận khoa học Tội phạm học đã chỉ ra rằng: “Nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội phạm được hiểu là hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình
thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là
hậu quả của mình” [51, tr. 81]. Về mối quan hệ giữa PNTHTP và nguyên nhân, điều
kiện của THTP, TS. Đào Trí Úc đã viết: “Ở mức độ toàn xã hội, tội phạm phải được
coi là một bộ phận, một yếu tố được đặt trong mối liên hệ mật thiết với các quá trình
và các hiện tượng khác, trong đó có các hiện tượng tích cực và cả tiêu cực… Tội
phạm không chỉ xuất phát từ những quá trình sai trái, tiêu cực mà còn từ những quá
trình khác không thể coi là tiêu cực… Các quá trình xã hội là nguyên nhân của tội
phạm và là yếu tố quyết định tính chất, trạng thái, biến động của tội phạm… Nhìn
nhận tội phạm trong một tổng thể xã hội rộng hẹp khác nhau như vậy cho phép chúng
ta có sự lý giải khoa học và có cơ sở thực tiễn… để xây dựng những biện pháp đấu

tranh đồng bộ” [42, tr.80]. Như vậy, chúng ta có thể dựa trên mối quan hệ biến chứng

7


giữa nguyên nhân, điều kiện của THTP với THTP để nhận thức rằng: Để PNTHTP
nhất thiết phải ngăn chặn và loại trừ tất cả các yếu tố là nguyên nhân, điều kiện của
THTP thuộc về tất cả các mặt như: Kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng…
Với những nhận thức về khái niệm PNTHTP như đã nêu trên, học viên cho
rằng dưới góc độ khoa học có thể hiểu về PNTHTP như sau:
Phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
sử dụng tổng hợp các biện pháp nhà nước và xã hội tác động vào nguyên nhân, điều
kiện làm phát sinh tình hình tội phạm xảy ra ở một địa bàn cụ thể trong khoảng thời
gian nhất định, đồng thời tiến hành những biện pháp kịp thời phát hiện, xử lý tội
phạm theo thẩm quyền nhằm từng bước làm giảm và tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội.
Với khái niệm này, nội dung của PNTHTP đã được xác định cụ thể, bao gồm:
Các hoạt động phòng ngừa chung (phòng ngừa xã hội) và các hoạt động phòng ngừa
riêng (phòng ngừa nghiệp vụ). Trong đó, phòng ngừa chung là hệ thống các biện pháp
của Nhà nước và xã hội sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng,
văn hóa, giáo dục, pháp luật… nhằm hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện của
tình hình các tội phạm. Phòng ngừa riêng là hoạt động của các cơ quan chức năng sử
dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ để khắc phục những nguyên nhân, điều kiện
cụ thể dẫn đến việc phạm tội, phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi phạm
tội, quản lý, giáo dục đối tượng phạm tội để trở thành công dân có ích cho xã hội.
Đồng thời, khái niệm cũng đã chỉ rõ chủ thể tham gia vào hoạt động PNTHTP là tất
cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tập thể người lao động và mọi công dân.
Qua nghiên cứu các tư liệu khoa học liên quan đến vấn đề PNTHTP, học viên
nhận thấy có một số quan điểm riêng, khác biệt của người nghiên cứu so với tổng thể
chung các công trình khoa học khác, điển hình như:

- Quan điểm cho rằng không tồn tại khái niệm “phòng ngừa tình hình tội phạm”
Với bản chất là hiện tượng xã hội, sự xuất hiện, vận động và phát triển của
THTP không nằm các quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật nhân - quả. Lý luận
khoa học Tội phạm học về THTP và nguyên nhân, điều kiện của THTP đã chỉ ra rằng:

8


THTP là hiện tượng xã hội có nguồn gốc từ các quan hệ và điều kiện xã hội, phát
triển theo những sự thay đổi của các điều kiện đó. Do đó, để hạn chế và dần triệt tiêu
THTP cần thiết phải ngăn chặn và loại trừ các nguyên nhân, điều kiện của THTP đó.
Sự phù hợp của mối liên hệ nêu trên - mối liên hệ giữa hoạt động phòng ngừa và
nguyên nhân, điều kiện của THTP - với các quy luật khách quan không cho phép
chúng ta phủ nhận sự tồn tại của khái niệm “phòng ngừa tình hình tội phạm” trong
khoa học Tội phạm học.
- Quan điểm đồng nhất hai khái niệm “phòng ngừa tình hình tội phạm” và
“phòng ngừa tội phạm”
Qua nghiên cứu một số bài viết, công trình khoa học, học viên nhận thấy khái
niệm “phòng ngừa tội phạm” được sử dụng với nghĩa tương đồng với khái niệm
“phòng ngừa tình hình tội phạm” như đã phân tích nêu trên. Học viên cho rằng không
thể đồng nhất hai khái niệm “phòng ngừa tình hình tội phạm” và “phòng ngừa tội
phạm” bởi những lý do sau đây:
Trước hết, có thể dễ dàng nhận thấy cả hai thuật ngữ “phòng ngừa tình hình
tội phạm” và “phòng ngừa tội phạm” đều sử dụng từ “phòng ngừa” kết hợp với hai
thuật ngữ khác nhau là “tội phạm” và “tình hình tội phạm”. Trong khoa học Tội phạm
học, “tội phạm” và “tình hình tội phạm” không phải là hai khái niệm có nội hàm giống
nhau. Tội phạm là bản thân hiện tượng còn THTP là trạng thái và xu thế vận động
của hiện tượng đó. Tội phạm là một hành vi cụ thể xâm hại một hoặc nhiều quan hệ
xã hội được Luật hình sự bảo vệ còn THTP là tổng thể các hiện tượng tiêu cực nguy
hiểm nhất của xã hội, là hiện tượng xã hội phản ánh đầy đủ những vấn đề cơ bản nhất

liên quan đến toàn bộ tội phạm xảy ra trong xã hội đó ở phạm vi không gian và thời
gian xác định. Nói cách khác, trong Tội phạm học, tội phạm và THTP có mối quan
hệ với nhau, đó là “mối quan hệ tuân theo quy luật giữa toàn thể và bộ phận, cái
chung và cái đơn nhất, giữa hệ thống và bộ phận” [51, tr.80]. Do đó, không thể đồng
nhất tội phạm và THTP và cũng không thể đồng nhất khái niệm về “phòng ngừa tình
hình tội phạm” và “phòng ngừa tội phạm”.
Như vậy, trên cơ sở thống nhất khái niệm về PNTHTP như đã nêu trên, cho

9


phép học viên đưa ra quan điểm phản biện đối với những ý kiến khác nhau liên quan
đến thuật ngữ “phòng ngừa tình hình tội phạm” và các thuật ngữ khác có liên quan.
Mặc dù có thể ý kiến phản biện chưa thật sự sâu sắc, tuy nhiên cũng đã cho thấy sự
hiểu biết nhất định của học viên về bản chất của hoạt động PNTHTP.
1.1.2. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm
Về mặt lý luận, PNTHTP là một trong những nội dung quan trọng, chiếm vị
trí đặc biệt của lý luận về Tội phạm học, vừa là mục tiêu, là chức năng cơ bản của
Tội phạm học. Bởi, “suy cho cùng thì mục đích của khoa học về Tội phạm học chính
là để PNTHTP, để cho tội phạm không xảy ra, không gây ra các hậu quả nguy hiểm
cho xã hội” [55, tr.185].
Về mặt thực tiễn, PNTHTP là hoạt động có tính chiến lược lâu dài, hỗ trợ và
tạo điều kiện cho các hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm khác. PNTHTP tốt
tác động tích cực đến các lĩnh vực khác của quá trình xây dựng và phát triển đất nước
như kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng... Ngoài ra, PNTHTP còn mang ý
nghĩa chính trị xã hội sâu sắc bởi làm tốt công tác PNTHTP giúp giữ vững an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của mọi người dân. Đối với hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp
luật như CQĐT, VKSND, TAND, việc làm tốt công tác phòng ngừa giúp làm giảm
tải áp lực công việc, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan này, làm

tăng niềm tin của nhân dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật và chế độ XHCN.
Phòng ngừa THTP tốt cũng góp phần làm tiết kiệm sức lao động của nhân viên
nhà nước cũng như của công dân trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và giáo
dục, cải tạo người phạm tội. PNTHTP còn mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, làm giảm
các chi phí liên quan đến việc xử lý tội phạm, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà
nước, nghĩa là tiền thuế của người dân sẽ được dùng cho các công việc phúc lợi khác
thay vì dùng cho việc xử lý tội phạm.
Những phân tích cụ thể về bản chất và ý nghĩa của PNTHTP trên đây cho thấy
việc nghiên cứu về PNTHTP vừa là nhu cầu, vừa là đòi hỏi của các nhà nghiên cứu
và nhà thực tiễn trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi chỉ có tri thức khoa học

10


về PNTHTP mới mang lại cho họ sự hiểu biết thấu đáo và toàn diện những vấn đề có
liên quan trong lý luận để vận dụng vào thực tiễn. Về điều này, TS. Đào Trí Úc đã
khẳng định: “Trong lĩnh vực quan trọng là đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ con
người, bảo vệ những giá trị cao quý của xã hội ta thì sự nhận thức phải là sự nhận
thức khoa học.” [51, tr.73].
1.2. Nội dung phòng ngừa và các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm
1.2.1. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm
- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo: Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội”. Phòng ngừa THTP là một hoạt động mang tính Nhà nước
và xã hội nên nó cũng nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung
của nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện ở chỗ mọi hoạt động PNTHTP cũng như hoạt
động của các chủ thể tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm đều được đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với lý luận khoa học chủ đạo là chủ nghĩa
Mác – Lênin kết hợp với Tư tưởng Hồ Chi Minh làm nền tảng tư tưởng. Với vai trò
là tổ chức chính trị lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra các chủ trương,

đường lối định hướng cho hoạt động phòng chống tội phạm nói chung theo từng giai
đoạn, từng thời kỳ phát triển của đất nước; từng bước hoàn thiện, cả tổ chức bộ máy
các cơ quan đấu tranh phòng chống tội phạm. Để thực hiện được vai trò lãnh đạo của
mình, ngoài việc đề ra các chủ chương, đường lối, Đảng còn hiện thực hóa những chủ
trương đường lối đó qua hoạt động cụ thể của từng Đảng viên.
- Nguyên tắc pháp chế XHCN: Mặc dù mục đích của hoạt động PNTHTP là
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài
sản hợp pháp của nhân dân… nhưng không phải vì thế mà hoạt động phòng ngừa có
thể được thực hiện bằng mọi phương pháp, cách thức khác nhau bất chấp quy định
của pháp luật, miễn đạt được mục đích đề ra. Hoạt động PNTHTP cần tuân thủ nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung của nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi hoạt
động PNTHTP phải có cơ sở pháp luật, phải phù hợp với các quy định của Hiến pháp,
các Bộ luật, Luật… Để đảm bảo nguyên tắc này, đòi hỏi các chủ thể phòng ngừa (đặc

11


biệt là cơ quan bảo vệ pháp luật) phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định pháp luật,
không được lạm dụng pháp luật để làm sai đường lối, chính sách, pháp luật. Bên cạnh
đó, pháp luật cũng phải được phổ biến, tuyên truyền trong nhân dân để người dân
hiểu và làm theo đúng các quy định của pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả giám
sát của nhân dân đối với các hoạt động PNTHTP của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Nguyên tắc dân chủ: Thực tiễn cũng cho thấy muốn hoạt động PNTHTP đạt
hiệu quả cao phải có tham gia của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Điều
này chỉ đạt được khi mọi người được dân chủ bàn bạc, phát huy sáng kiến, sáng tạo,
đặc biệt là từng công dân phải được tham gia theo đúng cơ chế: “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”. Để làm được điều này thì trong PNTHTP cũng phải thực sự
lấy dân làm gốc, phải thật sự tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Bên cạnh đó, các cơ quan Đảng, chính quyền, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải
thật sự được củng cố trong sạch, vững mạnh là chỗ dựa vững chắc để nhân dân phát

huy quyền làm chủ của mình trong PNTHTP. Ngoài ra, để các tầng lớp nhân dân tích
cực tham gia phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc cần phải làm tốt công tác
tuyên truyền, vận động từ đó hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; đặc biệt
phải làm để dân tin, dân phục, dân yêu, dân tự nguyện tham gia vào công cuộc đấu
tranh PNTHTP.
- Nguyên tắc nhân đạo: Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc xuyên suốt quá
trình và toàn bộ hoạt động PNTHTP. Nguyên tắc nhân đạo vừa thể hiện sự mong
muốn của xã hội, đồng thời vừa thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, đó là bằng
mọi biện pháp không để cho bất cứ thành viên nào trong xã hội đi vào con đường
phạm tội. Nguyên tắc nhân đạo trong PNTHTP đòi hỏi các biện pháp phòng ngừa
được xây dựng và áp dụng trong thực tiễn không được hạ thấp nhân phẩm, danh dự,
các quyền cơ bản của con người mà phải hướng đến việc định hướng hành vi, lối sống
cho họ theo hướng hòa nhập với xã hội, làm những việc có ích cho xã hội. Nguyên
tắc này còn đòi hỏi hoạt động PNTHTP phải kết hợp hài hòa, đúng mức độ biện pháp
cưỡng chế với thuyết phục theo hướng tăng cường sự thuyết phục, giáo dục. Tuy
nhiên, các chủ thể phòng ngừa đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải chú

12


ý tới hiệu quả của việc áp dụng và thực hiện các biện pháp chính sách nhân đạo để
loại trừ tội phạm chứ không phải để tội phạm lợi dung hoạt động.
- Nguyên tắc phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các biện pháp
PNTHTP: Họat động PNTHTP bao giờ cũng mang tính xã hội nên nó là trách nhiệm
của toàn xã hội nhưng đồng thời mỗi lực lượng, mỗi ngành, mỗi cấp lại có chức năng
nhiệm vụ khác nhau, nội dung, đối tượng phòng ngừa khác nhau, suy cho cùng đều
nhằm mục đích để phòng ngừa tội phạm. Do đó, trong hoạt động PNTHTP phải có
sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp, sử dụng tổng hợp sức mạnh của nhiều lực
lượng, nhiều biện pháp, phương tiện. Tuy nhiên, cần phải xác định trách nhiệm cụ
thể, rõ ràng cho từng lực lượng, có như vậy mới tránh được sự chồng chéo, tránh

được tình trạng đùn đẩy trách nhiệm. Nguyên tắc phân công, phối hợp chặt chẽ giữa
các lực lượng, các biện pháp PNTHTP đòi hỏi hoạt động PNTHTP phải đặt trong một
cơ chế phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, có sự điều hành thống nhất giữa các cơ quan
chuyên trách và không chuyên trách, giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội,
các tổ chức kinh tế và mọi công dân, giữa trung ương với địa phương.
- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ: Điều kiện, hoàn cảnh xã hội luôn có thay
đổi, kéo theo sự thay đổi của THTP tại một địa bàn cụ thể. Điều đó đòi hỏi hoạt động
PNTHTP cũng phải được tiến hành phù hợp với sự thay đổi đó mới đảm bảo hiệu quả
của công tác phòng ngừa. Bên cạnh đó, PNTHTP là hoạt động của toàn xã hội bao
gồm nhiều lực lượng tham gia với rất nhiều các biện pháp, do đó đòi hỏi hoạt động
phòng ngừa phải được tiến hành một cách khoa học. Chính vì vậy, trong PNTHTP,
việc áp dụng nguyên tắc khoa học và tiến bộ trong áp dụng các biện pháp PNTHTP
là rất cần thiết. Để thực hiện nguyên tác này, các hoạt động PNTHTP phải luôn được
cải tiến, được áp dụng các thành tựu khoa học mới, trang thiết bị mới, hiện đại. Ngoài
ra, các chủ thể cần phải nghiên cứu đưa ra được các quy trình, phương pháp khoa
học, tiến bộ đảm bảo cho việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa diễn ra một cách
phù hợp, tiết kiệm và hiệu quả nhất.
Tất cả các nguyên tắc cơ bản trên tạo thành một hệ thống tư tưởng vững chắc
cho tổ chức và hoạt động của hệ thống phòng ngừa tình hình tội phạm. Việc tuân thủ

13


nghiêm và nhất quán các nguyên tắc đó trong thực tiễn sẽ đảm bảo hiệu quả cao của
hoạt động PNTHTP trên địa bàn cụ thể.
1.2.2. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm
Thứ nhất, tiến hành các hoạt động tạo ra những biến đổi, những tác động làm
biến mất những nguyên nhân và điều kiện của THTP.
Các hoạt động tạo ra những biến đổi, những tác động làm biến mất những
nguyên nhân và điều kiện của THTP bao gồm: Xóa bỏ môi trường không thuận lợi

cho sự hình thành những đặc điểm tâm lý cá nhân tiêu cực trong nhân thân người
phạm tội; xóa bỏ tình huống, hoàn cảnh phạm tội; khắc phục nhanh những sơ hở,
thiếu sót yếu kém trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội về mọi mặt, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra xã hội; thực hiện
các chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa – giáo dục, giúp đỡ các thành viên trong cộng
đồng xã hội phát triển.
Thứ hai, phát hiện, ngăn chặn, xử lý đối với tội phạm và người phạm tội, đảm
bảo không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan, sai.
Việc ngăn chặn hành vi phạm tội chính là nội dung của PNTHTP vì có sự tác
động đến đối tượng trước khi thực hiện hành vi phạm tội, làm cho tội phạm không
xảy ra, không gây ra hậu quả, thiệt hại cho các quan hệ xã hội. Ngăn chặn là hoạt
động mang tính tức thời, cấp bách, khi đối tượng đang có ý đồ, âm mưu và chuẩn bị
thực hiện hành vi phạm tội. Trong những trường hợp tội phạm đã xảy ra trong thực
tế thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là cần thiết. Tác dụng
PNTHTP phát huy ngay khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, tiến hành đúng các thủ
tục tố tụng và áp dụng các hình phạt hợp lý. Trung tâm của nội dung này là sự hoạt
động có hiệu quả của hệ thống các cơ quan có thẩm quyền trong việc điều tra, khởi
tố, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
1.3. Các chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa và biện pháp phòng
ngừa tình hình tội phạm
1.3.1. Các chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, chủ thể là “đối tượng gây ra hành động trong

14


quan hệ đối lập với đối tượng bị hành động là khách thể” [61, tr.394]. Nói cách khác,
chủ thể có thể là cá nhân hay tổ chức tiến hành các hoạt động nhận thức, cải tạo thế
giới và có thể phân chia thành nhiều loại chủ thể khác nhau dựa trên đặc điểm, tính
chất của các hoạt động. Từ đó, chúng ta có thể hiểu rằng: Chủ thể thực hiện hoạt động

PNTHTP được hiểu là tất cả những người và tổ chức tham gia hoạt động phòng ngừa
tội phạm một cách thường xuyên và có hệ thống. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ
của mình, mỗi chủ thể tham gia PNTHTP với những vai trò khác nhau. Trong
PNTHTP, các chủ thể tham gia vào hoạt động này bao gồm:
- Các tổ chức của Đảng cộng sản Việt Nam: Đảng cộng sản Việt Nam giữ vai
trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam, trong đó có quá
trình tiến hành hoạt động PNTHTP trong phạm vi cả nước và ở từng địa phương. Vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong PNTHTP thể hiện ở những nội dung
sau: Định hướng công tác phòng ngừa tội phạm ở mỗi giai đoạn cách mạng, thể hiện
qua các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng; lãnh đạo toàn diện, trực tiếp nhiều mặt đối với
cơ quan chuyên trách, phòng chống tội phạm; kiểm tra, giám sát để kịp thời uốn nắn
nhằm khắc phục những sai sót, khuyết điểm trong hoạt động phòng ngừa tội phạm.
- Quốc hội, HĐND các cấp: Quốc hội, HĐND các cấp là cơ quan quyền lực
của Nhà nước ở Trung ương và địa phương. Trong phạm vi thẩm quyền, Quốc hội,
HĐND các cấp ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về những vấn đề PNTHTP
và các vi phạm pháp luật khác; kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật trong các
hoạt động PNTHTP của các cơ quan, tổ chức xã hội; quyết định các chủ trương, biện
pháp về kinh tế xã hội quan trọng góp phần xóa bỏ các nguyên nhân, điều kiện của
THTP; đồng thời đưa ra các biện pháp PNTHTP hiệu quả.
- Chính phủ, UBND các cấp: Chính phủ và UBND các cấp có vai trò quan
trọng trong hoạt động PNTHTP, bởi vì đây là các cơ quan quản lý, tổ chức, điều hành,
phối hợp, đảm bảo điều kiện cần thiết cho phòng ngừa. Vai trò của các cơ quan này
trong PNTHTP thể hiện ở các hoạt động: Xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục gắn liền với nhiệm vụ PNTHTP; xây dựng các
chương trình, kế hoạch phòng chống tội phạm (cấp quốc gia hay ở địa phương), phát

15


động quần chúng tham gia bảo vệ ANTT; tổ chức, hướng dẫn các chủ thể khác nhau

tiến hành phòng ngừa hiệu quả theo một kế hoạch thống nhất; thanh tra, kiểm tra,
giám sát hoạt động phòng ngừa của các cơ quan do mình quản lý, kịp thời sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác
PNTHTP.
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật: Hệ thống các cơ quan này bao gồm: Công an,
TAND, VKSND, các cơ quan thuộc Bộ tư pháp… Các cơ quan này có chức năng
chung là đấu tranh chống tội phạm và tham mưu cho các cấp ủy Đảng và chính quyền
đề ra các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Vai trò của các cơ quan này được thể hiện như sau: Nghiên cứu, phân
tích THTP, xác định nguyên nhân, điều kiện của THTP đó, soạn thảo, đề xuất các
biện pháp phòng ngừa; sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật và
các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ theo chức năng của mình để trực tiếp tiến hành
PNTHTP; làm lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt trận phòng, chống tội phạm
đồng thời hướng dẫn các tổ chức xã hội, quần chúng nhân dân trong phòng ngừa tội
phạm. Mỗi chủ thể trong hệ thống các cơ quan chuyên trách nói trên còn có các chức
năng, nhiệm vụ riêng biệt trong phòng ngừa tội phạm, cụ thể: Cơ quan Công an tham
gia với vai trò là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt trận bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội với lợi thế về lực lượng, phương tiện nghiệp vụ trong phòng
ngừa tội phạm.VKSND các cấp tiến hành PNTHTP theo chức năng, nhiệm vụ của
mình, đó là thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, ngay từ khi tiếp
nhận tin báo, tố giác về tội phạm.TAND các cấp tham gia PNTHTP thông qua hoạt
động xét xử và quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Các cơ quan thuộc Bộ
tư pháp tham gia PNTHTP thông qua việc đưa ra những dáng kiến pháp luật, trực tiếp
tham gia vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật hình sự,
TTHS và thi hành án hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác PNTHTP.
- Các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tập thể
lao động: Các tổ chức chính trị - xã hội được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ

16



nghĩa Việt Nam thừa nhận gồm: Mật trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên như:
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội phụ nữ,
Đoàn thanh niên… Các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp như Hội luật gia, Hội
nhà báo… Tập thể lao động là tập hợp những người lao động có quan hệ với nhau về
công việc trong phạm vi sử dụng lao động nhất định. Tùy thuộc vào chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn của mình mà mỗi tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội
– nghề nghiệp, tập thể lao động có những nét đặc thù riêng, có nội dung và biện pháp
tham gia vào hoạt động PNTHTP khác nhau, chủ yếu là góp phần vào việc thực hiện
các nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội của tổ chức mình; kịp thời phát hiện những sai
sót trong quản lý kinh tế, xã hội của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, đưa
ra đề nghị khắc phục có tính chất thuyết phục, Các hoạt động này giúp nhà nước kịp
thời ngăn chặn những hiện tượng phạm tội, làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện của
THTP tại địa phương.
- Cá nhân: Là lực lượng đông đảo, trực tiếp sinh sống, lao động, học tập trên
những địa bàn nhất định, sự tham gia của các cá nhân trong công tác PNTHTP có vai
trò rất quan trọng, thông qua những đóng góp nhất định của mỗi người như: Thực
hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp, tích
cực tham gia hoạt động PNTHTP; tích cực, chủ động phát hiện mọi hoạt động của tội
phạm và thông báo cho các cơ quan chức năng; tham gia nhiệt tình vào công tác giáo
dục, cảm hoá các đối tượng có liên quan đến hoạt động phạm tội tại cộng đồng dân
cư; phối hợp tham gia, giúp đỡ các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trên địa bàn cá
nhân đó sinh sống, làm việc.
1.3.2. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, biện pháp được hiểu là “cách làm, cách thức tiến
hành, giải quyết một vấn đề cụ thể” [61, tr.161]. Như vậy, có thể hiểu biện pháp
PNTHTP là cách làm của các chủ thể để tác động vào nguyên nhân, điều kiện làm
phát sinh THTP xảy ra ở một địa bàn cụ thể trong khoảng thời gian nhất định, đồng
thời kịp thời phát hiện, xử lý tội phạm theo thẩm quyền nhằm từng bước làm giảm và

tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Theo đó, PNTHTP có thể được tiến

17


hành bằng hệ thống các biện pháp khác nhau, trong đó có các biện pháp phòng ngừa
chung và các biện pháp phòng ngừa riêng.
Các biện pháp phòng ngừa chung (còn gọi là các biện pháp phòng ngừa xã
hội) là những biện pháp phòng ngừa gắn liền với việc giải quyết các nhiệm vụ chung
của xã hội, được thực hiện trong quá trình xây dựng và phát triển mọi mặt của đời
sống xã hội nhằm thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm. Những biện
pháp này gắn liền với các hoạt động của Nhà nước, của xã hội như hoạt động phát
triển kinh tế - xã hội; hoạt động tổ chức quản lý xã hội; hoạt động chính trị, tư tưởng,
văn hóa, giáo dục, hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật… nên được
gọi tên theo lĩnh vực hoạt động đó của xã hội như: Biện pháp kinh tế - xã hội; biện
pháp chính trị - tư tưởng; biện pháp tổ chức, quản lý xã hội; biện pháp văn hóa - giáo
dục; biện pháp pháp luật...
Các biện pháp phòng ngừa riêng (còn gọi là các biện pháp phòng ngừa nghiệp
vụ) là những biện pháp mang tính đặc trưng chuyên môn của từng ngành, từng lực
lượng để tập trung PNTH nói chung, phòng ngừa từng nhóm tội phạm cũng như
phòng ngừa tội phạm cụ thể. Đây là những biện pháp có tính chuyên môn, nghiệp vụ
rõ rệt tác động vào con người cụ thể có nguy cơ thực hiện tội phạm nhằm ngăn chặn
hoạt động phạm tội của họ.
Giữa hai nhóm biện pháp phòng ngừa tội phạm trên luôn có mối quan hệ tương
hỗ lẫn nhau, trong đó các biện pháp phòng ngừa xã hội tạo nền tảng thực tiễn cho
hoạt động phòng ngừa riêng, đồng thời tiến hành các biện pháp phòng ngừa riêng để
giải quyết tốt những vấn đề cụ thể sẽ nâng cao hiệu quả công tác PNTHTP nói chung.
1.3.2.1. Các biện pháp phòng ngừa chung
- Biện pháp kinh tế - xã hội: Thực tiễn cho thấy, THTP là kết quả của nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân sâu xa từ yếu tố tiêu cực thuộc về lĩnh vực

kinh tế - xã hội như: Nền kinh tế kém phát triển, tình trạng thừa lao động, thiếu việc
làm, mức thu nhập thấp, không ổn định, đời sống bấp bênh của một bộ phận người
dân trong xã hội và khoảng cách giàu, nghèo ngày càng lớn… đã làm cho nhiều người
mong muốn làm giàu bằng mọi giá dẫn đến sa vào con đường phạm tội. Vì vậy, để

18


PNTHTP, trước mắt và lâu dài phải tập trung xử lý các vấn đề về kinh tế, xã hội bằng
các biện pháp tích cực như: Xây dựng những cơ chế hợp lý để phát triển kinh tế, mở
rộng sản xuất, kinh doanh; tạo thêm việc làm cho người lao động; cải cách tiền lương,
nâng cao mức sống, cải thiện điều kiện sinh hoạt, đời sống cho người dân, nhất là đối
với những hộ nghèo, những bà con ở vùng sâu, vùng xa, gặp khó khăn về kinh tế.
- Biện pháp chính trị - tư tưởng:Đây là biện pháp tác động vào ý thức, tư
tưởng, tâm lý của con người nhằm nâng cao ý thức giác ngộ chính trị, tăng cường sự
hiểu biết của người dân về tác hại của tội phạm, nâng cao ý thức về trách nhiệm công
dân để họ tự giác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc tích cực sử dụng các biện
pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức chính trị, xây dựng tư tưởng phòng, chống các
hành vi phạm tội là rất cần thiết, vì sẽ giúp cho mọi người, trong đó có cả những đối
tượng sẵn có tâm lý phạm tội nhận thức được những vấn đề sai trái của hành vi phạm
tội mà ngăn ngừa được những hành vi lệch chuẩn, không đi vào con đường phạm tội.
- Biện pháp tổ chức – quản lý xã hội: Sơ hở trong tổ chức và quản lý xã hội
là điều kiện thuận lợi cho việc hình thành ý thức, động cơ phạm tội; tình trạng quản
lý lỏng lẻo hoặc không quản lý xã hội tạo điều kiện cho tội phạm nảy sinh. Những
yếu tố tiêu cực đó tồn tại trong xã hội là những nhân tố thuận lợi để tội phạm tồn tại
và phát triển. Chính vì vậy, cần phải khắc phục ngay những yếu kém trong tổ chức và
quản lý xã hội thông qua các biện pháp như: Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy, cơ cấu
lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở những cơ quan, đơn vị hoạt động kém hiệu
quả; khắc phục tình trạng bố trí cán bộ quản lý bị hạn chế về năng lực, trình độ chuyên
môn, yếu kém về phẩm chất đạo đức trong các cơ quan nhà nước; gấp rút đào tạo, bồi

dưỡng và sử dụng những cán bộ có kiến thức và có kinh nghiệm về quản lý kinh tế,
quản lý xã hội; tăng cường công tác quản lý tài sản, quản lý con người; đổi mới hệ
thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính
trị từ Trung ương đến địa phương; tăng cường công tác phối hợp, phát huy sức mạnh
tổng hợp của các cơ quan chức năng trong việc phát hiện, xử lý các vụ phạm tội nhằm
nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm.
- Biện pháp văn hóa - giáo dục: Văn hóa và trình độ học vấn có ảnh hưởng rất

19


lớn đến sự hình thành hành vi phạm tội. Một bộ phận người dân, đặc biệt là tầng lớp
thanh, thiếu niên do bị ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng văn hóa phong kiến hoặc văn
hóa ngoại lai cộng với trình độ học vấn thấp hoặc thiếu sự quan tâm, giáo dục của gia
đình, nhà trường nên đã hình thành tư tưởng thích hưởng thụ, lối sống thực dụng, từ
đó dẫn đến những hành vi lệch chuẩn và sa vào tệ nạn xã hội. Do đó, để PNTHTP cần
không ngừng nâng cao trình độ văn hóa cho người dân; thu hút người dân vào các
hoạt động văn hóa, vui chơi giải trí bổ ích, lành mạnh; đảm bảo phổ cập trình độ học
vấn cho người dân ở mức cao nhất có thể để họ có đủ kiến thức, hiểu biết đúng đắn
về các giá trị cốt lõi của đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần; chú trọng đưa vào
các chương trình học tập của học sinh, sinh viên những nội dung giáo dục về giá trị
văn hóa, đạo đức, lối sống, ý thức tuân thủ pháp luật… Các đoàn thể, tổ chức xã hội
cần tổ chức nhiều hình thức khác nhau để tuyên truyền, giáo dục các kiến thức về các
tệ nạn xã hội, vận động các thành viên trong tổ chức mình cam kết không tham gia
các tệ nạn xã hội.
- Biện pháp pháp luật: Pháp luật đóng vai trò rất quan trọng trong PNTHTP.
Ý nghĩa trong PNTHTP của pháp luật không chỉ thể hiện ở quá trình xây dựng và
hoàn thiện hệ thống luật pháp mà còn thể hiện ở tính khả thi của nó. Một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh, khả thi sẽ được tuân thủ và thực hiện một cách triệt để. Các
trách nhiệm pháp lý, trong đó có trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội

được quy định một cách rõ ràng, cụ thể, đúng mức sẽ giúp các cơ quan, người có
thẩm quyền áp dụng pháp luật có được cơ sở pháp lý vững chắc để xử lý nghiêm minh
những hành vi vi phạm và tội phạm, đảm bảo tính thống nhất của pháp chế XHCN,
từ đó sẽ có tác dụng phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng. Vì vậy, xây dựng và
hoàn thiện pháp luật theo hướng Nhà nước pháp quyền; tổ chức thi hành pháp luật
một cách nghiêm chỉnh và triệt để, đảm bảo pháp chế XHCN; các cơ quan chức năng,
người có thẩm quyền thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm trong công
tác phòng, chống tội phạm là phương hướng căn bản và lâu dài cho PNTHTP.
1.3.2.2. Các biện pháp phòng ngừa riêng
Những biện pháp phòng ngừa riêng đối với THTP là những biện pháp do các

20


×