Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 110 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HUỲNH NHƯ

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HUỲNH NHƯ

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 60.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THANH DƯƠNG

HÀ NỘI - 2017




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM ................................................................................................................5
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm...................................5
1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm ...............................8
1.3. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm .......................................................12
1.4. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm ...................................................12
1.5. Các loại biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm ........................................21
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..........................................26
2.1. Thực trạng nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc, nội dung phòng
ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh..............37
2.2. Đặc điểm, tình hình có liên quan đến hoạt động phòng ngừa ........................26
2.3. Thực trạng về tổ chức các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa
bàn quận 12 , Thành phố Hồ Chí Minh .................................................................37
2.4. Thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn
quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh .........................................................................46
Chương 3: TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..........................................55
3.1. Dự báo tình hình tội phạm trên địa bàn quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh..55
3.2. Tăng cường nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc, nội dung trong
phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh ..59
3.3. Hoàn thiện biện pháp phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận 12, Thành phố
Hồ Chí Minh ..........................................................................................................61
3.4. Hoàn thiện tổ chức phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận 12, Thành phố Hồ
Chí Minh ................................................................................................................73
3.5. Tăng cường nguồn lực phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận 12, Thành phố

Hồ Chí Minh ..........................................................................................................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................81
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ANQG

: An ninh quốc gia

ANTQ

: An ninh Tổ quốc

ANTT

: An ninh trật tự

BVANTQ

: Bảo vệ An ninh Tổ quốc

CA

: Công an

CAND


: Công an nhân dân

CQCA

: Cơ quan công an

CQĐT

: Cơ quan điều tra

NQ

: Nghị quyết

PNTP

: Phòng ngừa tội phạm

TA

: Tòa án

TAND

: Tòa án nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân


VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Mức độ tổng quan tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 12 (2012
– 2016)
Bảng 2.2: Cơ cấu theo phân loại tội phạm hình sự cụ thể trên địa bàn Quận
12 (2012 – 2016) .
Bảng 2.3: Thống kê tình hình tội phạm về kinh tế và môi trường trên địa bàn
Quận 12 (2012 – 2016) .
Bảng 2.4: Thống kê tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn Quận 12 (2012
– 2016) .
Bảng 2.5: Thống kê tình hình tệ nạn xã hội trên địa bàn Quận 12 (2012 –
2016) .
Bảng 2.6: Thống kê tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn Quận 12 (2012 –
2016) .
Bảng 2.7: Thống kê phạm pháp hình sự trên địa bàn 11 phường của Quận 12
(2012 – 2016) .
Bảng 2.8: Phân tích kết quả điều tra khám phá án trên địa bàn Quận 12 (2012
– 2016) .

Bảng 2.9: Phân tích công tác điều tra các vụ PPHS trên địa bàn Quận 12
(2012 – 2016) .
Bảng 2.10: Phân tích nhân thân đối tượng phạm tội về hình sự trên địa bàn
Quận 12 (2012 – 2016) .
Bảng 2.11: Phân tích nhân thân đối tượng phạm tội về kinh tế và môi trường
trên địa bàn Quận 12 (2012 – 2016) .
Bảng 2.12: Phân tích nhân thân đối tượng phạm tội về ma túy trên địa bàn
Quận 12 (2012 – 2016) .
Bảng 2.13: Phân tích nhân thân đối tượng phạm tội về TNXH trên địa bàn
Quận 12 (2012 – 2016) .
Bảng 2.14: Phân tích nhân thân đối tượng vi phạm quy tắc an toàn giao thông
trên địa bàn Quận 12 (2012 – 2016) .


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quận 12 là quận vùng ven nằm phía Tây Bắc thành phố Hồ Chí Minh, phía
Bắc giáp huyện Hóc Môn; phía Đông giáp thị xã Thuận An (quận Bình Dương),
quận Thủ Đức; phía Nam giáp quận 12, Gò Vấp, Bình Thạnh; phía Tây giáp quận
Bình Tân. Quận 12 được tách ra từ một phần của huyện Hóc Môn, chính thức được
công bố thành lập từ ngày 01/4/1997. Tổng diện tích tự nhiên là 5.274,89 ha được
chia làm 11 phường. Địa bàn Quận 12 có hai tuyến đường giao thông huyết mạch
quan trọng là Quốc lộ 22 và Quốc lộ 1 đi qua, nối các tỉnh miền Tây Nam Bộ với
các tỉnh, thành phố trong trên địa bàn quận 12 ; cùng với 11 tuyến đường liên quận,
huyện, liên phường và hơn 100 tuyến đường nhỏ với tổng chiều dài hơn 100km.
Là một trong các quận có tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh, nhiều công ty xí
nghiệp nhanh chóng được hình thành, dân nhập cư từ các tỉnh thành khác đến cư
ngụ tìm việc làm và một số lượng lớn dân cư từ các quận huyện khác trong thành
phố đến mua đất cất nhà sinh sống, từ đó kéo theo một số phức tạp về an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội: các vụ khiếu nại, khiếu kiện về đền bù, giải tỏa, tái định cư

giải quyết chưa triệt để, kéo dài tiềm ẩn phát sinh phức tạp. Những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ diễn biến phức tạp. Các loại tội phạm có tổ
chức, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm kinh tế, tham nhũng, tội phạm ma
túy, tội phạm là người nước ngoài... lợi dụng các điều kiện đặc thù của thành phố
(trong đó có quận 12) để tập trung, móc nối hoạt động. Địa bàn cửa ngõ thành phố,
lượng phương tiện lưu thông đông nhưng ý thức chấp hành các quy định về trật tự
giao thông của một bộ phận nhân dân còn thấp, hệ thống biển báo, các bất cập về hạ
tầng giao thông chưa khắc phục kịp thời nên tai nạn giao thông tiếp tục phức tạp.
Trong 5 năm qua (2012 – 2016) trên địa bàn Quận 12, cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án nhân dân đã khởi tố, điều tra truy tố trung bình mỗi năm khoảng
461 vụ án với 210 bị cáo, trong đó tội phạm khởi tố, điều tra, truy tố xét xử 139 vụ
với 145 bị cáo (chiếm khoảng 30% số lượng vụ án và bị cáo), đứng thứ năm về số
lượng tội phạm xảy ra trong số 24 quận, huyện của thành phố.

1


Trước tình hình diễn biến tội phạm như vậy, các cấp Ủy đảng và chính quyền
địa phương đã chỉ đạo các ban, ngành, tổ chức xã hội và công dân tăng cường công
tác phòng ngừa tình hình tội phạm. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế và đứng trước
diễn biến tình hình tội phạm như hiện nay thì vẫn còn bộc lộ những thiếu sót, hạn
chế nhất định, dẫn đến tội phạm luôn có chiều hướng gia tăng, số lượng người bị
bắt, bị xét xử sau đó lại tái phạm chiếm tỷ lệ lớn trong số những người phạm tội gây
hậu quả to lớn đối với tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân làm ảnh hưởng
đến tâm lý lo lắng cho xã hội. Một số vụ án được phát hiện, điều tra xử lý chưa
phản ánh hết thực trạng của tội phạm trong thực tiễn.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, cần thiết phải nghiên cứu lý luận phòng ngừa
tình hình tội phạm, tìm hiểu về thực trạng nhận thức, thực trạng áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tình hình tội phạm. Từ đó, đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả phòng ngừa một cách toàn diện, có hệ thống, đem lại hiệu quả cao trong

hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm cho Công an quận 12 cũng như toàn bộ
người dân đang sinh sống tại địa phương là vấn đề mang ý nghĩa cấp thiết. Vì vậy,
tác giả chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 12, thành
phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có một số công trình khoa học nghiên cứu về phòng ngừa tình hình
tội phạm trên phạm vi của chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
như: ”Hoạt động phòng ngừa tội phạm của lực lượng Cảnh sát Quản lý hành chính
về trật tự xã hội” của TS Trần Phương Đạt, TS Trần Vĩnh tại Học viện Cảnh sát;
“Hoạt động phòng ngừa tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân dân ở cơ sở” của TS.
Vũ Xuân Trường tại Học viện Cảnh sát... Các luận văn, các công trình nghiên cứu
này được thực hiện ở các địa bàn khác nhau, các giai đoạn, các góc độ, khía cạnh
khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về phòng ngừa
tình hình tội phạm trên địa bàn quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, việc
nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận 12, Thành phố Hồ Chí
Minh, đề ra giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống

2


tội phạm trên địa bàn là rất cần thiết. Đây là một đề tài mới, không trùng lắp với các
công trình đã công bố và phù hợp với tình hình đấu tranh phòng, chống tội phạm tại
quận 12, Thành Phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực trạng phòng ngừa
tình hình tội phạm, luận văn đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích để làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội

phạm.
- Thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 12,
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012 - 2016.
- Làm rõ những hạn chế trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trên
địa bàn quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Dự báo tình hình tội phạm trên địa bàn quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình
phạm trên địa bàn quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận, thực tiển hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
trên địa bàn quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: các vấn đề lý luận chung về thực tiển hoạt động phòng ngừa
tình hình tội phạm; thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 12.
- Về không gian: khảo sát trên địa bàn Quận 12.
- Về thời gian: từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

3


Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối của
Đảng, Nhà nước ta về phòng ngừa tội phạm .
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nội dung của đề tài, luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật, các cơ quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước và ngành Công an về phòng,

chống tội phạm.
Trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu, tọa đàm trao đổi, tổng kết
thực tiễn, phương pháp thống kê số liệu, phương pháp điều tra xã hội học...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực tiễn hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm ở quận 12, luận văn đưa ra những biện pháp nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn Quận 12.
Ngoài ra, luận văn có thể được dùng làm tài liệu trong việc nghiên cứu về phòng
ngừa tình hình tội phạm phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu tại
Học viện Khoa học Xã hội nói riêng và các cơ sở đào tạo Luật nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm.
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 12.
Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 12.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm
“Công tác đấu tranh với tình hình tội phạm có hai phương hướng có tác động
chặt chẽ với nhau: phòng ngừa và việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các tội

phạm, việc bảo đảm không thoát khỏi hình phạt, giáo dục lại, cải tạo những người
phạm tội. Các biện pháp pháp lý-hình sự của cuộc đấu tranh với tình hình tội phạm
được đưa lên hàng đầu trong những trường hợp chuẩn bị và thực hiện các tội phạm
cụ thể. Việc phòng ngừa ở nghĩa đen, tức là việc khắc phục hoặc làm vô hiệu các
nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm trước khi nó gây ra việc thực hiện tội
phạm đóng vai trò cơ bản, quan trọng trong công tác đấu tranh với tình hình tội
phạm”[47, tr.153].
Phòng ngừa tình hình tội phạm là vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng
được đặt ra sau khi tìm hiểu đặc điểm, tính chất tình hình tội phạm và các nguyên
nhân – điều kiện tình hình tội phạm. Về thuật ngữ, các nhà khoa học Việt Nam đã
sử dụng hai thuật ngữ “phòng ngừa tội phạm” và “phòng ngừa tình hình tội phạm”.
Lý luận và thực tiễn cho thấy, “phòng ngừa tội phạm” không có chỉ giới hạn ở mức
độ phòng ngừa tội phạm cụ thể (cái riêng). Ngược lại, “phòng ngừa tình hình tội
phạm” cũng không có nghĩa chỉ giới hạn ở mức độ phòng ngừa chung toàn bộ tình
hình tội phạm (cái chung) mà không kết hợp với phòng ngừa tội cụ thể. Thật ra, hai
cách diễn đạt này đều thể hiện phòng ngừa tội phạm ở tất cả các mức độ: tình hình
tội phạm nói chung, loại tội phạm và từng tội phạm cụ thể. Mục đích chung của
phòng ngừa tình hình tội phạm là hạn chế và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã
hội, không phân biệt loại tội phạm (hoặc tội phạm) nào.
Từ trước đến nay, đấu tranh chống tội phạm được tiến hành theo phương
châm: nhanh chóng và kịp thời phát hiện tội phạm, không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, tránh làm oan người vô tội, trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội,
hình thành thói quen phản ứng tích cực và hưởng ứng của Nhà nước và xã hội đối
5


với tội phạm. Do đó, phòng ngừa tình hình tội phạm chính là một trong những nội
dung quan trọng và chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận về tội phạm học. Nghiên
cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm chính là nghiên cứu cơ sở, nền tảng và điểm
xuất phát để tiếp tục nghiên cứu những nội dung khác trong lý luận tội phạm học.

Cho nên, phòng ngừa tình hình tội phạm vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của
tội phạm học, vừa là mục tiêu, chức năng cơ bản của tội phạm học. Hơn nữa, suy
cho cùng thì mục đích của ngành khoa học về tội phạm học chính là để phòng ngừa
tình hình tội phạm, để cho tội phạm không xảy ra, không gây ra các hậu quả nguy
hiểm cho xã hội [46, tr.185].
Theo Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật Hà Nội, “Phòng
ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể các biện pháp kinh tế,
chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều
kiện phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ
hoàn toàn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”[39, tr.210].
GS.TS Võ Khánh Vinh khẳng định,“Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ
thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước –
xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô
hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ
tình hình tội phạm” [47, tr.154].
Hiện nay các nhà nghiên cứu trong lực lượng CAND quan niệm rằng:
“PNTP là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã hội nhằm khắc phục nguyên
nhân và điều kiện của tình trạng phạm tội làm giảm tội phạm. PNTP là tư tưởng chỉ
đạo trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bao gồm các hình thức và biện pháp
được thực hiện nhằm ngăn ngừa không để tội phạm xảy ra, nếu tội phạm xảy ra thì
phải hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tác hại...” [9, tr.506]. Như vậy, theo quan
điểm này thì PNTP bao gồm các hoạt động để phát hiện và khắc phục nguyên nhân,
điều kiện của tình trạng tội phạm từ đó tiến hành các biện pháp nhằm ngăn ngừa
không để tội phạm xảy ra, hạn chế đến mức thấp nhất tác hại khi tội phạm xảy ra.

6


Từ nhận thức lý luận trên đây cùng với thực tiễn công tác phòng, chống tội

phạm có thể đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm như sau: “Phòng ngừa
tình hình tội phạm là việc tiến hành đồng bộ có hệ thống các biện pháp khác nhau
của Nhà nước và xã hội nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
từng bước hạn chế làm giảm tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”.
Như vậy, phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm trước hết là việc làm rõ
nguyên nhân và điều kiện của tội phạm trên phạm vi toàn xã hội từ đó áp dụng các
biện pháp nhằm xoá bỏ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến phạm tội, xoá bỏ nguồn
gốc phát sinh tội phạm. Đồng thời tiến hành quản lý giáo dục đối với những người
có điều kiện khả năng phạm tội nhằm không để họ tiếp tục thực hiện tội phạm, làm
giảm tình hình tội phạm tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Việc xây dựng chương trình phòng ngừa tình hình tội phạm cũng cần phải
thực hiện trên cơ sở các đặc điểm kinh tế, tâm lý, xã hội và các đặc điểm truyền
thống của từng địa phương; cần mang tính kế hoạch, thường xuyên có sự chỉ đạo
chặt chẽ của Nhà nước, Đảng và các tổ chức xã hội khác.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm
Phòng ngừa tình hình tội phạm nhằm loại bỏ các tác động tiêu cực của nó đối
với xã hội và hạn chế làm giảm tới mức thấp nhất xảy ra tội phạm trong xã hội.
Việc thực hiện tốt phòng ngừa tình hình tội phạm góp phần thực hiện nghiêm chỉnh
và đầy đủ các Nghị quyết, Chỉ thị, đường lối và Chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Phòng ngừa tình hình tội phạm tốt còn góp phần huy động sức mạnh tổng
thể, đồng bộ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, làm giảm sự gia tăng của tội
phạm và vi phạm pháp luật. Tạo trạng thái tâm lý ổn định, bình an trong quần chúng
nhân dân, an toàn cho cộng đồng và dân cư, làm tăng niềm tin, hy vọng của quần
chúng nhân dân vào nền pháp chế Xã hội chủ nghĩa, tạo sự ổn định có trật tự pháp
luật, không rối loạn, qua đó nâng cao sự tín nhiệm vào khả năng, hiệu quả hoạt
động của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án. Thực hiện tốt phòng ngừa tình
hình tội phạm thông qua việc thực hiện các chương trình quốc gia phòng chống tội

7



phạm; tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham
gia phòng ngừa tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội, vận động gia đình, bạn bè, con
cháu cùng thực hiện…góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tích cực tác
động đến các đối tượng thành viên trong gia đình, lôi cuốn mọi người tham gia
phòng ngừa tình hình tội phạm và các tội phạm khác.
Phòng ngừa tình hình tội phạm mang đậm ý nghĩa chính trị xã hội, làm tốt
công tác phòng ngừa giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
tài sản của xã hội, công dân, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của mọi
người dân.
Làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc. Hạn
chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về kinh tế do tình hình tội phạm gây ra trong
xã hội kể cả những thiệt hại gián tiếp mà Nhà nước, xã hội phải chi trả để khắc phục
hậu quả do tội phạm để lại; tiết kiệm ngân sách Nhà nước, sức lao động của các
nhân viên Nhà nước, của công dân trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và
giáo dục cải tạo người phạm tội cũng như trong việc giải quyết các vấn đề có liên
quan đến tội phạm.
Thông qua hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình
tội phạm nói riêng, Nhà nước có thể kiểm soát được mảng tối của đời sống xã hội là
tình hình tội phạm, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời
tăng hiệu quả trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp
luật.
1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm
1.2.1. Mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm
”Phòng ngừa tình hình tội phạm là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp,
tuy nhiên từ những lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Đảng ta và từ
thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm chúng ta có thể tin tưởng sẽ đấu tranh
thắng lợi với các loại tội phạm và loại trừ nó ra khỏi đời sống xã hội trong tương lai.
Hơn nữa, phòng ngừa không để xảy ra tội phạm còn là yêu cầu đòi hỏi của Nhà

nước và mỗi người dân để đảm bảo cuộc sống yên vui, hạnh phúc” [33, tr.415].

8


Như vậy, mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm được đặt ra tùy thuộc vào
điều kiện của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ, giai đoạn cụ thể. Trong tình hình hiện nay
ở nước ta để chỉ đạo cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, Đảng ta đã ban hành
Chỉ thị số 48/CT/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới” trong đó đã chỉ rõ: “Trong thời
gian tới công tác phòng chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm,
nhất là các loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo môi trường lành mạnh
phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc
và bình yên của nhân dân”. Xuất phát từ nhận thức con người sinh ra vốn có bản
chất hướng thiện và đều có thể trở thành công dân có ích. Việc họ làm sai, làm trái
là xuất phát từ những nguyên nhân và điều kiện xã hội nhất định. Nếu loại trừ các
nguyên nhân và điều kiện này thì con người sẽ không bị sa vào thế giới của tội
phạm. Mặt khác, nên tạo ra những điều kiện xã hội lành mạnh thì người phạm tội
hoàn toàn có thể cải tạo, rèn luyện trở thành người lương thiện [21, tr.209].
1.2.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm
Phòng ngừa tình hình tội phạm là một loại hoạt động thực tiễn xã hội có
những đặc điểm đặc thù của mình. Cách thức tổ chức và hoạt động của hệ thống đó
phải được xây dựng theo những nguyên tắc nhất định[47, tr.157]. Hoạt động đó
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc cơ bản sau:
1.2.2.1. Nguyên tắc pháp chế XHCN
Nguyên tắc pháp chế XHCN thể hiện ở chỗ hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm nói chung và việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa phải có cơ sở pháp
luật, phải phù hợp với các quy định của pháp luật. Trong quá trình tiến hành các
hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm các chủ thể tuân thủ nghiêm chỉnh các
quy định của pháp luật.

Phòng ngừa tình hình tội phạm ở mức độ này hoặc mức độ khác đều mang
tính quyền lực nhà nước. Hoạt động này nhằm thực hiện nhiệm vụ chung mà xã hội
và Nhà nước đặt ra vì lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, không bất cứ lý do nào mà
việc tổ chức và hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình

9


tội phạm nói riêng có thể thoát ly khỏi các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Ngược lại, chỉ có thực hiện đúng các quy định của pháp luật, phòng ngừa tình hình
tội phạm mới đảm bảo mục đích của nó là phục vụ lợi ích xã hội, Nhà nước và công
dân [45, tr.238].
1.2.2.2. Nguyên tắc dân chủ Xã hội chủ nghĩa:
Dân chủ là một trong những đặc điểm nổi bật thể hiện bản chất của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc dân chủ quán xuyến toàn bộ các loại hình hoạt
động của Nhà nước và xã hội.
Nội dung của nguyên tắc dân chủ thể hiện ở việc lôi cuốn đông đảo quần
chúng nhân dân lao động, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức
kinh tế thuộc mọi thành phần và toàn xã hội tham gia vào hoạt động phòng ngừa
tình hình tội phạm. Nguyên tắc đó đòi hỏi phải phát huy tinh thần chủ động, tính
tích cực, sáng tạo của mọi chủ thể tham gia vào hoạt động phòng ngừa, để tạo ra
một hoạt động rộng lớn của xã hội [47, tr 158].
Do đó, trong phòng ngừa tình hình tội phạm cũng phải tuân thủ các nội dung
của nguyên tắc dân chủ. Nó đòi hỏi phải đảm bảo sự tham gia đông đủ của các tầng
lớp xã hội và cá nhân vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, mọi người đều
có quyền phát huy sáng kiến, vai trò của mình tham gia vào việc tổ chức và hoạt
động phòng ngừa đó. Mặt khác, không một cơ quan, tổ chức nào có khả năng độc
lập giải quyết toàn bộ nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm, đây là công việc
chung của toàn xã hội, của các cơ quan Nhà nước, của mọi công dân.
1.2.2.3. Nguyên tắc nhân đạo Xã hội chủ nghĩa:

Nhân đạo là sự thể hiện thái độ có thiện chí, có sự cảm thông, có tình yêu
thương sâu sắc của con người đối với con người, sự tận tụy phục vụ lợi ích, đem lại
tự do và hạnh phúc cho con người.
Nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi các biện pháp phòng ngừa được xây dựng và áp
dụng trong thực tiễn không được hạ thấp nhân phẩm, danh dự, các quyền cơ bản của
con người mà phải hướng đến việc định hướng hành vi, lối sống cho họ theo hướng
hòa nhập với xã hội, làm những việc có ích cho xã hội. Nguyên tắc này còn đòi hỏi

10


hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm phải kết hợp hài hòa, đúng mức độ biện
pháp cưỡng chế với thuyết phục theo hướng tăng cường sự thuyết phục, giáo dục
[47, tr. 158].
Nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa tình hình tội phạm, về bản chất là
hoạt động mang tính nhân đạo, vì con người, nó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của xã hội, Nhà nước và công dân. Hơn nữa, phòng ngừa tình hình tội phạm xảy ra
cũng có nghĩa là không để cho các thành viên của xã hội phải gánh chịu hậu quả do
hành vi phạm tội phạm gây ra. Mặt khác, tổ chức và hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm phải có hiệu quả. Hiệu quả càng cao thì tính nhân đạo càng được đảm
bảo.
1.2.2.4. Nguyên tắc khoa học và tiến bộ của hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ các biện pháp phòng ngừa, tổ
chức hệ thống phòng ngừa, các chủ thể phòng ngừa phải được xây dựng có cơ sở
khoa học [47, tr.158]. Trong phòng ngừa tình hình tội phạm phải ứng dụng các
thành tựu của khoa học và công nghệ trong việc xây dựng các biện pháp phòng
ngừa, các biện pháp phòng ngừa luôn phải đảm bảo cho mọi người có cơ hội phát
triển bình đẳng, không được phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, thái độ chính
trị, phải có cơ sở lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh với

tình hình tội phạm nói chung và tội phạm nói riêng, mang tính chất đồng bộ, có hệ
thống, đạt hiệu quả cao.
1.2.2.5. Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm giữa các chủ thể
Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ hoạt động phòng ngừa giữa các chủ thể đòi hỏi
hoạt động phòng ngừa phải đặt trong một cơ chế phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, có
sự điều hành thống nhất giữa các cơ quan chuyên trách và không chuyên trách, giữa
các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế mà mọi công dân,
giữa trung ương với địa phương. Hình thức, nội dung và phạm vi hoạt động phòng

11


ngừa cần phải được xác định thống nhất giữa các chủ thể hoạt động phòng ngừa
[47, tr.158].
Phòng ngừa tình hình tội phạm nhằm loại bỏ các tác động tiêu cực của nó đối
với xã hội và hạn chế, làm giảm tới mức thấp nhất xảy ra tội phạm trong xã hội do
các chủ thể phòng ngừa khác nhau thực hiện. Do vậy, phòng ngừa tình hình tội
phạm chỉ có thể đạt hiệu quả nếu đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ hoạt động phòng
ngừa giữa các chủ thể phòng ngừa, đồng bộ giữa các biện pháp khác nhau trong hệ
thống đó. Để thực hiện nguyên tắc này, trước hết phải đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt
đối của Đảng, phải có chương trình, kế hoạch được xây dựng một cách khoa học,
quá trình áp dụng phải đồng bộ, có sự chỉ đạo thống nhất, tập trung.
1.2.2.6. Nguyên tắc phân hóa hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
Nội dung cơ bản của nguyên tắc phân hóa hoạt động phòng ngừa thể hiện ở
chỗ hệ thống phòng ngừa phải được tổ chức tương ứng với các quy luật và đặc điểm
của tình hình tội phạm và người phạm tội, các biện pháp phòng ngừa phải phù hợp
với từng lĩnh vực, phòng ngừa, đối tượng và địa điểm phòng ngừa; việc phòng ngừa
cá nhân phải được tiến hành trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về cá nhân [47, tr.158].
Trong phòng ngừa tình hình tội phạm để đạt hiệu quả cao thì phải tuân thủ nguyên

tắc hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung.
1.3. Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm
- Nghiên cứu, xác định rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội
Để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm đòi hỏi các cơ quan chức năng phải xác
định chính xác những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm xây dựng chiến lược
phòng ngừa phù hợp. Những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm hiện nay bao
gồm:
+ Sự tác động bởi những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị
trường, bên cạnh những mặt ưu điểm cũng bộc lộ nhiều mặt trái trở thành những
nguyên nhân làm phát sinh tội phạm, đó là:
Mặt trái nền kinh tế thị trường hình thành lối sống hưởng thụ xa hoa, truỵ lạc
của một bộ phận người trong xã hội.
12


Tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường đã làm xuống cấp nhiều mặt về
văn hoá, đạo đức, lối sống làm mất đi truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
Nền kinh tế thị trường đẩy mạnh tốc độ phân tầng xã hội, tạo ra sự phân hoá
giàu nghèo sâu sắc, một bộ phận giàu lên nhanh chóng trong đó có một số người
làm giàu bất chính từ đó dẫn đến phạm tội, mặt khác không ít người không có tư
liệu sản xuất phải ra thành phố, thị xã làm thuê kiếm sống bị tác động bởi những
hiện tượng tiêu cực dễ dẫn đến phạm tội.
+ Tác động trực tiếp, toàn diện của những hiện tượng xã hội tiêu cực do chế
độ cũ để lại.
+ Hậu quả của chế độ thực dân, đế quốc cùng với chiến tranh kéo dài trong
nhiều năm đã phá hoại cơ sở vật chất, hình thành lối sống hưởng thụ, tư tưởng tham
lam, ích kỷ, sa đoạ truỵ lạc trong một bộ phận nhân dân.
+ Tư tưởng trọng nam, coi thường phụ nữ; những tác động tiêu cực, tàn dư của
chế độ xã hội cũ còn tồn tại lâu dài tác động vào đời sống xã hội làm nảy sinh các
hiện tượng tiêu cực trong đó có tội phạm

+ Sự thâm nhập ảnh hưởng của tội phạm, tệ nạn xã hội của các quốc gia khác.
+ Những sơ hở, thiếu sót trong các mặt công tác quản lý của Nhà nước, các
cấp, các ngành bao gồm: sơ hở thiếu sót trong quản lí con người, quản lí văn hoá,
quản lí nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự ...
+ Những thiếu sót trong giáo dục đạo đức, lối sống, nâng cao trình độ văn hoá
của người dân
+ Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, việc thực thi pháp luật kém hiệu quả,
một số chính sách về kinh tế, xã hội chậm đổi mới tạo sơ hở cho tội phạm hoạt
động phát triển. Đặc biệt là pháp luật về phòng ngừa tội phạm còn thiếu, sự chưa
tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật Quốc tế và pháp luật của các nước
trong khu vực cũng là một kẽ hở để tội phạm lợi dụng hoạt động. Sự chậm đổi mới
chủ trương chính sách về kinh tế xã hội và pháp luật đã bộc lộ những sơ hở khiến cho
một số đối tượng lợi dung để hoạt động phạm tội.
13


+ Công tác đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan chức năng nói chung
và của ngành công an nói riêng còn bộc lộ nhiều yếu kém, thiếu sót; thể hiện
trên các mặt:
Trình độ nghiệp vụ, pháp luật của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn dẫn đến hữu khuynh né tránh, thậm chí có một số cán bộ biến chất, tiếp tay
cho tội phạm, buông lỏng công tác đấu tranh trấn áp tội phạm.
Mối quan hệ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa thực sự đồng bộ, thiếu
thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, giáo dục, cải tạo phạm
nhân. Hoạt động trao đổi thông tin giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật còn chưa tốt.
Số vụ phát hiện, điều tra ít hơn so với thực tế tội phạm xảy ra, tội phạm ẩn còn
nhiều.
Hoạt động điều tra, xử lý tội phạm chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao, xử lý
chưa nghiêm minh.
Hệ thống tổ chức bộ máy, phân công chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan bảo vệ

pháp luật và trong nội bộ từng cơ quan chưa thực sự khoa học, hiệu quả vận hành chưa cao.
+ Công tác quản lý Nhà nước về an ninh trật tự còn bộc lộ nhiều sơ hở. Công
tác giáo dục cải tạo chưa xoá bỏ được tư tưởng phạm tội của các đối tượng, số đối
tượng phạm tội trở lại còn nhiều.
+ Phong trào quần chúng tham gia đấu tranh chống tội phạm ở một số nơi
chưa chực sự mạnh mẽ, chưa hiệu quả. Chưa phát huy được sức mạnh của quần
chúng trong công tác giáo dục, cải tạo và tái hoà nhập cộng đồng cho người
phạm tội.
- Nghiên cứu, soạn thảo đề ra các chủ trương, giải pháp, biện pháp thích hợp
nhằm từng bước xoá bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm
Tuỳ thuộc vào nguyên nhân, điều kiện cụ thể của tình trạng phạm tội trên các
lĩnh vực để soạn thảo đề xuất các biện pháp đấu tranh xoá bỏ nguyên nhân, điều
kiện của tội phạm cho phù hợp, bao gồm:
- Các giải pháp phát triển kinh tế.
14


- Các giải pháp về hoàn thiện hệ thống pháp luật.
+ Phòng ngừa tội phạm kết hợp với thực hiện các chính sách xã hội phù hợp
với các địa phương cụ thể.
+ Nhà nước phải xây dựng chương trình quốc gia phòng chống tội phạm nói
chung, đảm bảo các yêu cầu, nội dung sau:
Xác định rõ mục tiêu, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, sử dụng đồng bộ hệ thống,
các biện pháp phòng ngừa, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cấp, các
ngành, của công dân.
+ Mỗi cấp, mỗi ngành phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để xây
dựng và tổ chức chương trình hành động cụ thể phòng chống tội phạm.
+ Mỗi công dân phải nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong công
tác phòng ngừa tội phạm.

+ Nhà nước, chính quyền các cấp phải thường xuyên kiểm tra, tạo đều kiện về
vật chất và tinh thần nhằm duy trì và đẩy mạnh công tác phòng chống tội phạm.
- Tổ chức tiến hành các hoạt động phòng ngừa tội phạm
Các cấp, các ngành các tổ chức xã hội căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể
của mình để xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Chính quyền các cấp tổ chức triển khai thực hiện chương trình phòng ngừa tội
phạm nhằm khắc phục nguyên nhân, điều kiện của tội phạm ở mỗi cấp (Trung
ương, tỉnh, thành phố, quận huyện, xã phường).
Các bộ, ngành triển khai chương trình phòng ngừa tội phạm nhằm khắc phục
những nguyên nhân, điều kiện của tội phạm có liên quan đến hoạt động của mình.
Từng hộ gia đình, mỗi các nhân trực tiếp tham gia hoạt động phòng ngừa tội phạm.
- Tổ chức tiến hành các hoạt động phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm
Các cơ quan chức năng có nhiệm vụ tiến hành phát hiện, điều tra, xử lý tội
phạm theo quy định của pháp luật có trách nhiệm: chủ động phối kết hợp với các

15


lực lượng có liên quan kịp thời phát hiện các thông tin về tội phạm và có liên quan
đến tội phạm; tổ chức điều tra làm rõ các hành vi phạm tội, con người kẻ phạm tội,
làm rõ những vấn đề cần chứng minh theo yêu cầu của pháp luật, phục vụ xử lý tội
phạm; các cơ quan truy tố, xét xử cần căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm
tội để xử lí đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội.
1.4. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm
Chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm là toàn bộ các cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội và các công dân ở những mức độ và quy mô khác nhau đang tiến
hành lãnh đạo, lập kế hoạch các biện pháp phòng ngừa tội phạm, quản lý những
biện pháp phòng ngừa hoặc trực tiếp thực hiện, hoặc đảm bảo cho việc thực hiện nó.
Những lực lượng này có những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định, chịu trách nhiệm

pháp lý thực hiện những nhiệm vụ được giao [50, tr. 60].
1.4.1. Chủ thể lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 đã khẳng
định: "Đảng cộng sản Việt Nam đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động của các
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là lực lượng lãnh đạo
nhà nước và xã hội " 27, tr. 137. Với vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng
cộng sản Việt Nam luôn luôn chú trọng đến công tác phòng, chống tội phạm đặc
biệt là PNTP ở địa bàn cơ sở để bảo vệ vững chắc ANQG và TTATXH. Rõ ràng
vấn đề PNTP là một nội dung quan trọng trong hoạt động của các tổ chức Đảng.
Trong cương lĩnh hành động của Đảng cộng sản Việt Nam cũng như trong các Nghị
quyết Đại hội Đảng các cấp đều khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc tổ
chức hoạt động đấu tranh PNTP.
Đảng lãnh đạo toàn diện về mọi mặt hoạt động PNTP của lực lượng Công an
bằng việc đề ra đường lối chủ trương chính sách vv... phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội. Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh góp
phần phòng ngừa chung tình trạng phạm tội tại địa bàn cơ sở.
16


Với tư cách là chủ thể hoạt động PNTP, các tổ chức Đảng cộng sản Việt
Nam thường xuyên chú trọng tổ chức các hoạt động PNTP một cách hệ thống đồng
bộ và toàn diện, các cấp ủy Đảng theo dõi kiểm tra việc thực hiện các Nghị quyết
của Đảng về các lĩnh vực lãnh đạo chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội để
góp phần phòng ngừa chung tình trạng phạm tội. Thường xuyên nghe báo cáo về
tình hình tội phạm và công tác tổ chức PNTP, kiểm tra đôn đốc nhắc nhở các cơ
quan, nhà nước, tổ chức xã hội thực hiện PNTP để kịp thời chỉ đạo cho phù hợp với
tình hình thực tế ở địa bàn cơ sở trong từng giai đoạn của cách mạng, khắc phục tư
tưởng quan liêu xa rời thực tế.
1.4.2. Chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm

Quá trình phòng ngừa tội phạm bao gồm từ khâu ban hành các quy định của
pháp luật đến khâu triển khai thực hiện các quy định của pháp luật, bao gồm các
chủ thể ban hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm và chủ thể triển khai thi
hành các quy định pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm.
1.4.2.1 Chủ thể ban hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm
Quốc hội, theo Điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001, Quốc hội là cơ
quan quyền lực duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, Quốc hội là chủ thể phòng
ngừa tình hình tội phạm có vai trò trong việc ban hành các luật điều chỉnh hoạt động
phòng ngừa tình hình các tội phạm (Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng
hình sự,...). Ngoài ra, Quốc hội còn có vai trò trong việc kiểm tra giám sát hoạt
động của các cơ quan Nhà nước, của cán bộ nhằm phòng ngừa các hành vi phạm tội
và tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung; được cụ thể hóa ở một số nội dung
sau:
- Quốc hội làm luật, hoàn thiện pháp luật để điều chỉnh hiệu quả các quan hệ
xã hội, góp phần ngăn ngừa lợi dụng pháp luật phạm tội.
- Kiểm tra giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, của cán bộ để phòng
ngừa tiêu cực và phạm tội.
- Tuyên truyền phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật
và tham gia quản lý nhà nước.
17


- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, có quyền yêu cầu các cá nhân,
cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan thực hiện những biện pháp cần thiết để chấm dứt
hành vi trái phép luật đó.
Hội đồng nhân dân, Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003 quy định:
“Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”.
Hội đồng nhân dân thực hiện toàn bộ quyền lực nhà nước, đảm bảo việc tuân
thủ các đạo luật, việc bảo vệ trật tự nhà nước và xã hội, các quyền lực và lợi ích hợp
pháp của công dân [47, tr.171]. Vai trò phòng ngừa tội phạm của Hội đồng nhân

dân được cụ thể hóa ở một số nội dung:
- Quyết định những chủ trương, biện pháp kinh tế xã hội quan trọng để phát
huy tiềm năng của địa phương, để không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân địa phương, từ đó có tác dụng phòng ngừa tình hình tội phạm.
- Quyết định các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm ở địa phương.
- Kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương để phòng
ngừa tiêu cực và phạm tội.
1.4.2.2. Chủ thể triển khai, thi hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm
Chủ thể triển khai thi hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm
Chính phủ, UBND các cấp, các cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan tiến
hành tố tụng, các tổ chức và các cá nhân, công dân.
Chính phủ, vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm của Chỉnh phủ thể hiện
như sau:
- Xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo
dục trong phạm vi quốc gia, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân, từ đó có tác dụng phòng ngừa tình hình tội phạm.
- Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội, Chính phủ tổ chức
thực hiện các chính sách, biện pháp để củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, trật tự an toàn xã hội; tổ chức và thực hiện các biện pháp
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm phạm, các vi phạm pháp luật.

18


- Lãnh đạo hoạt động phòng chống tội phạm quốc gia (thông qua Ban chỉ đạo
quốc gia phòng chống tội phạm, cơ quan chuyên môn của Bộ tư pháp, Thanh tra
nhà nước chuyên ngành); thực hiện hoạt động phòng chống tội phạm; xây dựng các
chương trình quốc gia phòng chống tội phạm.
Ủy ban nhân dân các cấp, vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm của Ủy ban
nhân dân các cấp thể hiện như sau:

- Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo
dục, ở địa phương để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhân dân, từ đó có tác
dụng phòng ngừa tình hình tội phạm.
- Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Tùy cấp hành
chính mà Ủy ban nhân dân các cấp có vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm, cụ thể
như sau: xây dựng chương trình, kế hoạch và lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm ở địa phương; phát động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự;
quản lý hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng, đặc biệt đối với những người có nhân thân xấu,
phối hợp với các cơ quan hữu quan giám sát giáo dục người phạm tội tại cộng đồng.
Các cơ quan hành chính nhà nước chuyên môn, các cơ quan hành chính nhà
nước bao gồm các bộ, sở, phòng,... từ trung ương đến địa phương. Tùy vào chức
năng, nhiệm vụ của mình, các chủ thể này tiến hành hoạt động triển khai, thi hành
pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm trong phạm vi toàn quốc hay trong từng
địa phương nhất định. Cụ thể, các cơ quan tư pháp thuộc Bộ tư pháp thực hiện
nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm thông qua các hoạt động sau:
- Đưa ra sáng kiến lập pháp, tham gia vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật;
- Thông qua công tác thi hành án thực hiện phòng ngừa tình hình tội phạm;
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân, nhằm nâng cao ý thức pháp
luật của nhân dân để họ tự giác thực hiện đúng pháp luật;
- Tham gia nghiên cứu, bổ sung vào lý luận về phòng ngừa tình hình tội
phạm;

19


- Tổ chức phối hợp cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện các nhiệm
vụ phòng ngừa tội phạm.
Các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa
án.

+ Cơ quan Công an trong phạm vi thẩm quyền của mình các cơ quan công an
thực hiện việc phân tích thực trạng tình hình tội phạm, các khuynh hướng của tình
hình tội phạm và thông báo về những vấn đề mà các cơ quan đó không có thẩm
quyền giải quyết cho các tổ chức Đảng, các Hội đồng nhân dân, cơ quan kiểm sát.
Cơ quan Công an là một trong những cơ quan tham gia chính vào việc phối hợp và
kế hoạch hóa tổng thể việc phòng ngừa [47, tr.174].
Công an là cơ quan được giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh và phòng ngừa
tình hình tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bộ phận công an
làm công tác quản lý khu vực đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa cá
nhân. Với sự giúp đỡ của các điểm bảo vệ trật tự ở các khu công nghiệp, khu tập
thể, khu dân cư… bộ phận công an khu vực làm sáng tỏ và khắc phục các nguyên
nhân và điều kiện của tội phạm ở địa bàn đảm nhiệm, trong đó lưu ý về hoàn cảnh,
lối sống của các gia đình có thể tạo ra tình huống phạm tội; tiến hành công tác
phòng ngừa, giáo dục hằng ngày đối với những người có lối sống và hành vi có khả
năng phạm tội phạm.
+ Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp. Hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm của Viện kiểm sát
được đánh giá rất cao. Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình VKS sử dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật; giám
sát việc tuân thủ pháp luật của cơ quan Điều tra, Tòa án, cơ quan Thi hành án. Đặc
biệt giám sát việc thực hiện các biện pháp và chương trình phòng ngừa tội phạm tại
các cơ quan này; phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm pháp luật của bất cứ
chủ thể nào và có biện pháp xử lý thích hợp.

20


×