Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Quan Niệm Của Người Phụ Nữ Việt Nam Hiện Nay Về Hạnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 163 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ HƯƠNG TRẦM

QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
VỀ HẠNH PHÚC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC

Hà Nội - 2019


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI THỊ HƯƠNG TRẦM

QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
VỀ HẠNH PHÚC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC

Mã số: 62 31 03 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. Lê Ngọc Văn
2. TS. Hà Việt Hùng

Hà Nội - 2019




LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Bùi Thị Hương Trầm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................................1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................... 20
1.1. Đôi nét về nguồn tài liệu ................................................................. 20
1.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu hạnh phúc ............................................ 25
1.3. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc ................................... 29
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc 36
1.5. Kinh nghiệm và định hướng nghiên cứu của luận án ..................... 44
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU ................... 52
2.1. Cơ sở lý luận ................................................................................... 52
2.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................ 64

Chương 3: QUAN NIỆM CHUNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VỀ HẠNH PHÚC .. 79
3.1. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên .... 79
3.2. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội .................. 81
3.3. Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân ................................ 84

3.4. Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc .............. 86
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
VỀ HẠNH PHÚC ........................................................................................... 95
4.1. Khu vực sống và quan niệm hạnh phúc .......................................... 95
4.2. Nhóm tuổi và quan niệm hạnh phúc ............................................... 97
4.3. Tôn giáo và quan niệm hạnh phúc ................................................ 100
4.4. Dân tộc và quan niệm hạnh phúc .................................................. 103
4.5. Mức sống và quan niệm hạnh phúc .............................................. 108
Chương 5: ĐẶC ĐIỂM HÔN NHÂN VÀ QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
VỀ HẠNH PHÚC .......................................................................................... 113
5.1. Tình trạng hôn nhân và quan niệm hạnh phúc .............................. 113
5.2. Độ dài hôn nhân và quan niệm hạnh phúc .................................... 118
5.3. Đặc điểm hôn nhân, đặc điểm cá nhân và quan niệm hạnh phúc .. 129
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 137
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ....... 144
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 146
PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 157


DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 1: Thông tin người trả lời

14

Bảng 2: Phân bố mẫu phỏng vấn sâu

17

Bảng 3.1:Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự


79

nhiên xếp theo thứ tự ưu tiên của người trả lời
Bảng 3.2: Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội xếp

82

theo thứ tự ưu tiên của người trả lời
Bảng 3.3: Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân xếp theo thứ

84

tự ưu tiên của người trả lời
Bảng 4.1: Quan niệm hạnh phúc theo nhóm nông thôn - đô thị

96

Bảng 4.2: Quan niệm về hạnh phúc theo nhóm tuổi

98

Bảng 4.3: Quan niệm về hạnh phúc theo nhóm tôn giáo

101

Bảng 4.4: Quan niệm về hạnh phúc theo dân tộc

105


Bảng 4.5: Quan niệm về hạnh phúc theo mức sống

109

Bảng 5.1: Quan niệm về hạnh phúc theo tình trạng hôn nhân

114

Bảng 5.2: Quan niệm hạnh phúc theo độ dài hôn nhân

119

Bảng 5.3: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh

127

vực kinh tế - môi trường tự nhiên
Bảng 5.4: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh

130

vực gia đình - xã hội
Bảng 5.5: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực đời sống cá nhân

132


DANH MỤC BIỂU


Trang
Biểu 3.1: Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc

87

Biểu 3.2: Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc

92

chia theo giới tính
Hộp: Quan niệm hạnh phúc thay đổi theo giai đoạn phát triển của gia đình

123


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ là một nửa của nhân loại. Không có vấn đề gì liên quan đến
nhân loại mà không liên quan đến phụ nữ. Hạnh phúc không phải là một
ngoại lệ. Ở Việt Nam và trên thế giới, từ trước đến nay mặc dù có rất ít công
trình nghiên cứu riêng biệt liên quan đến quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc, nhưng đã có khá nhiều tranh luận. Đáng tiếc, những tranh luận đó
lúc đầu phần lớn là ý kiến của đàn ông. Họ đưa ra và ấn định những giá trị,
chuẩn mực khuôn mẫu ứng xử, vai trò đặc trưng cho phụ nữ và nam giới. Trải
qua những thời kỳ lịch sử rất lâu dài của các hình thái kinh tế - xã hội tiền
công nghiệp hóa, cho đến trước các cuộc cách mạng về công nghiệp, nữ tính
và nam tính là điều không một ai nghi ngờ. Nó chi phối quan niệm về hạnh
phúc gắn liền với phẩm chất giới tính mà xã hội gán cho họ.
Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc chỉ thật sự thay đổi khi chính
phụ nữ nhận thức lại về cái gọi là “nữ tính” của mình từ các làn sóng nữ quyền

do phụ nữ khởi xướng, bắt đầu từ làn sóng nữ quyền thứ nhất cuối thế kỷ XIX
sang đầu thế kỷ XX, xuất hiện ở nước Anh và phát triển mạnh ở Mỹ, đến làn
sóng nữ quyền thứ hai những năm 1960 - 1970 của thế kỷ XX, phát triển ở Anh,
Mỹ sang các nước phương Tây, và làn sóng nữ quyền thứ ba bắt đầu từ những
năm 1980 lan rộng ra toàn cầu. Kể từ đây, quan niệm về hạnh phúc trở thành
cuộc tranh luận của hai giới chứ không còn là sự áp đặt của đàn ông.
Có thể nhận thấy trong xã hội Việt Nam truyền thống, hạnh phúc từ
quan niệm của người phụ nữ về căn bản hầu như không mang mầu sắc cá
nhân mà gắn liền với hạnh phúc của gia đình, cộng đồng. Ngay cả những việc
riêng tư liên quan trực tiếp đến đời sống cá nhân của mình như chuyện hôn
nhân, người phụ nữ cũng tùy thuộc vào sự định đoạt của người khác. Nhà sử
học Nguyễn Thừa Hỷ gọi đó là những cuộc hôn nhân “phi cá nhân”. Ông viết:
1


“Đặc điểm cơ bản của hôn nhân trong xã hội Việt Nam truyền thống là tính
chất phi cá nhân, nghĩa là không chỉ là việc riêng tư của hai người nam nữ tự
nguyện đến với nhau trên cơ sở gắn bó tình cảm và giao kết xã hội. Đó là một
công việc dân sự được dàn xếp “theo quy ước” của tập thể, có ý kiến và sự công
nhận của cộng đồng (cha mẹ, gia đình, họ hàng, làng xóm)” [84, tr.162]. Chính
vì không có quyền quyết định hạnh phúc của mình cho nên trong hôn nhân,
người phụ nữ chỉ còn biết trông chờ vào sự may rủi và tin vào duyên số: “Thân
em như tấm lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?; Thân em như giếng giữa
đàng/Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”; Thân em như hạt mưa sa/Hạt
vào đài các hạt ra ruộng cày (Ca dao) [124, tr.223]
Khi đã lấy chồng, người phụ nữ tiếp tục phụ thuộc vào chồng và gia
đình nhà chồng. Họ quan niệm hạnh phúc gắn liền với việc thực hiện tốt nhất
và đẩy đủ nhất vai trò, bổn phận của người vợ, người mẹ và người con dâu
trong gia đình theo những chuẩn mực và mong đợi của người khác. Trong
suốt cuộc đời của mình, phụ nữ là người lao động, người nội trợ, chăm sóc gia

đình, hy sinh cho chồng con và gia đình nhà chồng. Hạnh phúc của họ là lấy
chồng, có nhiều con, yêu chồng, thương con, nghe theo lời dạy bảo của
chồng, cha mẹ chồng và “gánh vác giang sơn nhà chồng”.
Liệu đây có phải là một “bí ẩn nữ tính” của người phụ nữ? Bởi vì
dường như không phải chỉ có người phụ nữ Việt Nam truyền thống coi gia
đình, chồng con là niềm hạnh phúc duy nhất của mình mà hàng triệu cô gái Mỹ
vào các thập niên 50-60 của thế kỷ XX cũng ước mơ trở thành “bà nội trợ”.
Betty Friedan, người Mỹ, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Bí ẩn nữ tính” xuất
bản lần đầu tiên ở Mỹ năm 1963 đã viết: “Mơ ước duy nhất của họ [những
người phụ nữ Mỹ] là trở thành người vợ, người mẹ hoàn hảo; tham vọng lớn
nhất của họ là có năm đứa con và một ngôi nhà đẹp, cuộc chiến duy nhất của
họ là làm sao có chồng và giữ được chồng. Họ không nghĩ tới các vấn đề phi
nữ tính của thế giới bên ngoài nhà; họ muốn đàn ông đưa ra quyết định trọng
2


đại. Họ hãnh diện với vai trò phụ nữ của mình, và tự hào điền vào chỗ trống
trong mục điều tra dân số cụm từ: “Nghệ nghiệp: nội trợ” [39, tr.33].
Thực tiễn này đã và đang gây ra những tranh luận cả trong đời sống và
trong khoa học xung quanh quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Trong
nhiều thập kỷ đã qua, về mặt lý thuyết ít nhất chúng ta đã chứng kiến hai
trường phái đối lập nhau. Đó là trường phái chức năng và trường phái nữ
quyền. Trường phái chức năng (đại diện là T. Parsons) cho rằng, quan niệm
của người phụ nữ về hạnh phúc gắn liền với bản năng giới tính của họ. Các
nhà chức năng luận sáng tạo ra một thuật ngữ, một khái niệm phù hợp với
luận điểm này, đó là “thiên chức của người phụ nữ”. Theo đó, bản tính tự
nhiên của phụ nữ là sinh đẻ, nuôi con, làm việc nhà, và với họ hạnh phúc là
khi có chồng, có con và làm tốt tất cả những công việc trong phạm vi gia
đình. Hạnh phúc của người phụ nữ là “hạnh phúc của bà nội trợ”. Ngược lại,
bản tính tự nhiên của người đàn ông là hoạt động bên ngoài xã hội, và người

đàn ông chỉ cảm thấy hạnh phúc khi tạo dựng nên sư nghiệp cho bản thân và
kiếm tiền nuôi sống vợ con, gia đình. Phụ nữ và nam giới có vai trò khác nhau
nhưng “bổ sung” cho nhau. Sự kết hợp giữa nam và nữ, vợ và chồng tạo nên
một gia đình hoàn hảo, ở đó người chồng đóng vai trò “công cụ”, người vợ
đóng vai trò “biểu cảm” (T. Parons). Quan niệm này đã hình thành từ rất lâu
trong lịch sử, tạo nên những giá trị và khuôn mẫu ứng xử vững bền được cả
người dân và người lãnh đạo xã hội đồng tình. Nó chính là cơ sở xã hội để
hình thành nên quan điểm chức năng luận trong lý thuyết xã hội học về vai trò
của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Quan niệm chức năng luận này không hề bị thách thức gì trong các xã
hội nông nghiệp châu Á và cả xã hội phương Tây trong thời kỳ đầu của quá
trình công nghiệp hóa (trong đó có nước Mỹ). Nhưng với quá trình công
nghiệp hóa, nhiều giá trị nhân văn mới về tự do, dân chủ, bình đẳng, về quyền
con người đã hình thành trong lòng các nước phương Tây. Đây là cơ sở xã hội
3


để hình thành trường phải nữ quyền thay đổi quan niệm về hạnh phúc của
người phụ nữ. Người ta xem xét lại cái gọi là “thiên chức giới tính của phụ
nữ”. Các nhà nữ quyền là những người đầu tiên lên tiếng về sự không thỏa
đáng của khái niệm này. Đối với các nhà nữ quyền, nữ tính không bao gồm tất
cả những vai trò mà xã hội gán cho người phụ nữ ngoài hai đặc điểm không
thay đổi là sinh đẻ và cho con bú. Những vai trò còn lại như làm việc nhà,
chăm sóc trẻ em, người già, người ốm… là những công việc mà cả phụ nữ và
nam giới đều có thể làm được và có thể chuyển hóa cho nhau tùy hoàn cảnh.
Kết quả nghiên cứu của các nhà nữ quyền về đời sống gia đình ở Mỹ và các
nước phương tây khác đã đưa ra những kết luận ngược lại với quan điểm chức
năng về cảm nhận của người phụ nữ đối với công việc nội trợ trong gia đình.
Đó không phải là cảm nhận hạnh phúc như người ta gán cho họ mà là sự buồn
chán khi phải nuôi con nhỏ, làm việc nhà, đó là cảm giác bị cầm tù khi chỉ

sống quanh quẩn trong bốn bức tường của ngôi nhà với những công việc lặp
đi lặp lại từ ngày này sang ngày khác. Gavron, H. (1966) đã sử dụng khái
niệm “người vợ bị giam cầm” để mô tả và phân tích những người mẹ trẻ
thuộc tầng lớp trung lưu và tầng lớp lao động cảm nhận về sự bất hạnh của
mình trong hôn nhân. Tác giả đi đến kết luận rằng, mặc dù có một số cặp vợ
chồng trẻ chia sẻ công việc gia đình (đó là loại gia đình mà sau này Young và
Willmott (1975) gọi là “gia đình đối xứng -symmetrical family”, còn lại hầu
hết những người vợ khác cảm thấy hôn nhân là một thứ cạm bẫy (traped) và
là nơi bị giam hãm (imprisoned) dẫn theo Lê Ngọc Văn [66].
Ngày nay quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc đã có nhiều thay
đổi, nhưng cuộc tranh luận về hạnh phúc vẫn còn tiếp diễn trên phạm vi toàn
thế giới, từ các nước phương Tây sang các nước phương Đông, từ các nước
phát triển sang các nước đang phát triển. Các nước Phương Tây đã có lịch sử
nghiên cứu 50 năm về phụ nữ và hạnh phúc và đã đạt được các bước đi dài. Ở
Việt Nam, cuộc tranh luận này dường như chỉ mới bắt đầu. Hơn thế nữa,
những quan niệm khác nhau về hạnh phúc không dừng lại ở phạm vi các
4


“tranh luận” mà quan trọng hơn, nó được thể hiện bằng các hành động trong
đời sống thực tiễn.
Nhìn lại các nghiên cứu về phụ nữ, ta sẽ không xa lạ gì với những
nghiên cứu về sự bất hạnh như ly hôn, bạo lực, bất bình đẳng, trầm cảm...
Những nghiên cứu về hạnh phúc lại ít nhiều bị thờ ơ. Con người thường dễ kể
về những căng thẳng, đau khổ, lo lắng hơn là chia sẻ cách họ thụ hưởng hạnh
phúc như thế nào. Nói chung, con người trải nghiệm các cảm giác tiêu cực
một cách sẵn sàng và mãnh liệt hơn so với cảm giác tích cực. Dường như,
chiến lược tồn tại của con người thường là hướng đến ngăn chặn rủi ro hơn là
tìm kiếm hạnh phúc.
Rất khó để tìm thấy một tiêu đề hay một tên đề tài trọn vẹn cho một

nghiên cứu riêng về quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Có lẽ quan
điểm “phi cá nhân” về hạnh phúc đã chi phối chủ đề nghiên cứu này? Điểm
qua các công trình nghiên cứu có liên quan đến quan niệm của người phụ nữ
về hạnh phúc, có thể thấy một xu hướng nổi bật là quan niệm hạnh phúc chỉ
được đề cập đến trong các chủ đề về hạnh phúc gia đình, cộng đồng và xã hội.
Chẳng hạn, Ở Việt Nam, xuất hiện các bài viết đề cao vai trò của người phụ
nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình như: “Vài nét bàn về
hạnh phúc gia đình ở Việt Nam” [71]; “Gia đình hạnh phúc”, “Bảo vệ hạnh
phúc gia đình”, “Xây dựng gia đình hạnh phúc” [69]; “Quan niệm về hạnh
phúc gia đình thời kỳ đổi mới” [98].
Có thể nhận thấy, nghiên cứu khoa học về hạnh phúc ở Việt Nam nói
chung và về người phụ nữ nói riêng còn để lại quá nhiều khoảng trống cả về
lý thuyết và thực tiễn. Thế giới đã bước vào giai đoạn hậu hiện đại hóa với
mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống và mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi
người, trong đó phụ nữ là một nửa nhân loại. Vậy, người phụ nữ quan niệm
như thế nào về hạnh phúc? Vì sao hình thành các tranh luận khác nhau, thậm
chí đối lập nhau về hạnh phúc? Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc có
5


thay đổi theo thời gian hay không? Vì sao thay đổi hoặc không thay đổi? Có
sự khác biệt trong quan niệm của phụ nữ thuộc các nhóm xã hội khác nhau về
hạnh phúc hay không? Vì sao có sự khác biệt hay không khác biệt? Những
câu hỏi này chỉ có thể được trả lời thông qua các nghiên cứu xã hội học thực
nghiệm. Đề tài: “Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh
phúc” là một nỗ lực của tác giả góp phần làm sáng tỏ quan niệm của người
phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, qua đó cung cấp những luận cứ
khoa học góp phần nâng cao hạnh phúc của người phụ nữ và kiểm chứng tính
đúng đắn của các lý thuyết xã hội học có liên quan qua trường hợp Việt Nam.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quan niệm của người
phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc; trên cơ sở đó cung cấp những luận
cứ khoa học nhằm nâng cao hạnh phúc của người phụ nữ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc.
- Nhận diện quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc.
- Phân tích điểm tương đồng và khác biệt trong quan niệm của người
phụ nữ ở các nhóm xã hội khác nhau về hạnh phúc.
- Cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá
trị hạnh phúc trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung và những
chính sách đặc thù cho phụ nữ nói riêng.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc.
6


3.2. Khách thể nghiên cứu
Người phụ nữ tại các điểm nghiên cứu.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung, vấn đề nghiên cứu: Quan niệm của người phụ nữ
Việt Nam hiện nay về hạnh phúc được xem xét trên ba lĩnh vực chính: quan
niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên;
quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực gia đình - xã hội; và quan
niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực đời sống cá nhân.
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: Luận án sẽ phân tích bộ số liệu
của đề tài độc lập cấp quốc gia: “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan niệm,
thực trạng và chỉ số đánh giá” do PGS.TS Lê Ngọc Văn làm chủ nhiệm, thực

hiện từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2018. Với tư cách là thành viên và là thư
ký đề tài, tác giả luận án đã được chủ nhiệm cho phép gắn các nội dung phục
vụ riêng cho luận án vào trong bộ công cụ của đề tài (phiếu hỏi, hướng dẫn
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm) để thu thập thông tin. Bên cạnh đó, chủ
nhiệm đề tài cũng tạo điều kiện để tác giả luận án thực hiện riêng các phỏng
vấn sâu trong thời gian khảo sát thực địa để phục vụ luận án. Luận án chính là
một sản phẩm đào tạo của đề tài cấp Nhà nước.
Đề tài độc lập cấp quốc gia điều tra tại 05 tỉnh, thành phố đại diện cho
05 vùng địa lý, mỗi tỉnh lựa chọn 01 phường và 01 xã. Cụ thể như sau:
Vùng Đồng bằng sông Hồng: Ninh Bình
Vùng Tây Bắc Bộ: Sơn La
Vùng Tây Nguyên: Đắc Lắc
Vùng Đông Nam Bộ: Tp. Hồ Chí Minh
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: An Giang

7


- Phạm vi về thời gian: Phạm vi thời gian được nói ở đây là khoảng thời
gian mà đối tượng nghiên cứu đang vận hành. Nói một cách cụ thể, đề tài cần
nghiên cứu quan niệm và thực tế hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam ở thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Tuy nhiên, muốn thấy được hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam
hiện nay thì tất yếu cần phải so sánh với mẫu hình của nó trong các xã hội
nông nghiệp cổ truyền trước đó. Như vậy, trong một chừng mực nào đó, luận
án sẽ mở rộng phạm vi về thời gian qua việc thực hiện các nghiên cứu hồi cố
(cũng có thể qua các tài liệu lịch sử, các dấu ấn để lại qua văn hóa dân gian,
các tác phẩm văn học, nghệ thuật, v.v…) về hạnh phúc của người phụ nữ Việt
Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.
4. Câu hỏi nghiên cứu

- Người phụ nữ hiện nay quan niệm như thế nào về hạnh phúc?
- Người phụ nữ ở những nhóm xã hội khác nhau có quan niệm khác
nhau về hạnh phúc?
- Yếu tố nào tác động rõ nhất đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc?
5. Giả thuyết nghiên cứu, biến số và khung phân tích
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Theo quan niệm của người phụ nữ, hạnh phúc là có thu
nhập ổn định, gia đình hòa thuận và có sức khỏe tốt.
Giả thuyết 2: Người phụ nữ ở những nhóm xã hội khác nhau có sự
tương đồng nhiều hơn khác biệt trong quan niệm về hạnh phúc.
Giả thuyết 3: Yếu tố mức sống có tác động rõ nhất đến quan niệm của
người phụ nữ về hạnh phúc.

8


5.2. Biến số
- Biến độc lập:
Yếu tố cá nhân: tuổi, học vấn, giới tính, tôn giáo, khu vực, mức sống, việc
làm, tài sản, sức khỏe, tình trạng hôn nhân.
Yếu tố xã hội: sự tham gia, các mối quan hệ thân hữu, sự cân bằng cuộc
sống và công việc.
Yếu tố tự nhiên: các vấn đề môi trường, các vấn đề đô thị hóa.
- Biến can thiệp: Điều kiện kinh tế - xã hội của 05 địa bàn nghiên cứu;
quan điểm, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm mục tiêu đảm bảo hạnh
phúc cho phụ nữ.
- Biến phụ thuộc: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về
hạnh phúc được đo trên ba khía cạnh: quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực
kinh tế-môi trường tự nhiên; quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình-xã
hội; quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân.

5.3. Khung phân tích

9


Điều kiện kinh tế - xã hội đất nước và địa phương

Đặc điểm cá nhân: khu vực
nông thôn - đô thị, nhóm tuổi,
tôn giáo, dân tộc, mức sống

Đặc điểm hôn nhân: tình trạng
hôn nhân, độ dài hôn nhân

QUAN
NIỆM
CỦA
NGƯỜI
PHỤ NỮ
VỀ HẠNH
PHÚC

Quan niệm hạnh phúc
trong lĩnh vực kinh tếmôi trường tự nhiên
Quan niệm hạnh phúc
trong lĩnh vực gia
đình-xã hội
Quan niệm hạnh phúc
trong đời sống cá nhân


Hệ thống chính sách và các quy định pháp luật

10

Định
hướng
giải
pháp


6. Cơ sở lý luận, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận, phương pháp luận
Luận án ứng dụng một số lý thuyết sau:
- Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết này nhìn nhận sự phát triển của mỗi cá nhân trong sự phát
triển của một hệ thống. Trong hệ thống này bao gồm rất nhiều yếu tố và
chúng luôn tương tác với nhau tạo thành thể thống nhất.
Cho dù hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của con người, nhưng nó lại
dựa trên những yếu tố khách quan - cơ sở tạo nên sự cảm nhận hạnh phúc - đó
là mức độ thỏa mãn của con người trong các mối quan hệ với môi trường
sống xung quanh. Đó là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi
trường của chính bản thân cá nhân con người. Như vậy, cảm nhận hạnh phúc
của người phụ nữ vốn có quan hệ không thể tách rời với ba môi trường sống
đã nêu và lý thuyết hệ thống là cơ sở giúp tìm được mẫu số chung, giúp trả lời
câu hỏi người phụ nữ hiện nay quan niệm như thế nào về hạnh phúc, nhìn một
cách tổng thể.
- Lý thuyết bậc thang nhu cầu của Maslow
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một
trong những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn. Trong
thời điểm đầu tiên của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của con

người theo 5 cấp bậc:
Nhu cầu cơ bản (basic needs)
Nhu cầu về an toàn (safety needs)
Nhu cầu về xã hội (social needs)
Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)
Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)
11


Luận án nghiên cứu sử dụng lý thuyết này để phân tích và lý giải trong
mối tương quan giữa nhu cầu và quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ.
Cũng có khi quan niệm thúc đẩy nhu cầu và có khi quan niệm hạn chế nhu
cầu. Đặt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện
nay, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc thể hiện trong mối liên hệ
chặt chẽ với việc đáp ứng các nhu cầu như thế nào.
Cụ thể, lý thuyết nhu cầu của Maslow được vận dụng để giải thích sự
thay đổi quan niệm của người phụ nữ Việt Nam về hạnh phúc qua các thời kỳ
lịch sử khác nhau và sự khác biệt trong quan niệm của người phụ nữ thuộc
các nhóm xã hội khác nhau. Những thay đổi và khác biệt này phản ánh sự
thỏa mãn nhu cầu của người phụ nữ ở các cấp độ khác nhau. Gỉa thuyết ở đây
là phụ nữ trong xã hội truyền thống đề cao việc thỏa mãn các nhu cầu kinh tế
- vật chất, các mối quan hệ gia đình, họ hàng, cộng đồng; trong khi phụ nữ
trong xã hội hiện đại ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu sinh tồn, quan hệ bên
trong gia đình, hộ hàng, cộng đồng, còn thỏa mãn nhu cầu trong các mối quan
hệ xã hội, và nhu cầu được thể hiện mình… Tương tự như vậy, hạnh phúc
theo quan niệm của phụ nữ thuộc các nhóm nghèo, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số… nghiêng về thỏa mãn nhu cầu cơ bản về kinh tế - vật chất và quan
hệ gia đình, trong khi phụ nữ ở khu vực thành phố, phụ nữ có trình độ học vấn
cao, phụ nữ nhóm kinh tế khá giả… có thể sẽ đề cao các giá trị hạnh phúc
thuộc về thỏa mãn nhu cầu quan hệ xã hội và cống hiến bản thân cho xã hội…

6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp này bao gồm việc sưu tầm và sử dụng các kết quả nghiên
cứu đã có, các số liệu thống kê, các tài liệu có liên quan... Phương pháp phân
tích thứ cấp giúp cho luận án sử dụng các nguồn dữ liệu đã có theo quan điểm
của riêng mình. Nhưng điều quan trọng hơn là các nguồn tài liệu thứ cấp còn
giúp cho những người thực hiện đề tài biết được lịch sử vấn đề nghiên cứu,
12


trong đó các tác giả đi trước đã làm được gì, những gì họ chưa làm được,
những gì họ đã làm nhưng chưa đủ, cần phải bổ sung, hoàn thiện. Các tài liệu
thứ cấp cũng giúp tác giả luận án có được cái nhìn mang tính lịch sử - so sánh
để phát hiện sự khác biệt về hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay với hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam ở các xã hội nông nghiệp cổ
truyền trước đó. Tóm lại, việc điểm lại các nghiên cứu và tài liệu đã có sẽ giúp
tác giả luận án biết được rằng cần bắt đầu từ đâu và cần đi tiếp như thế nào.
6.2.2. Phương pháp phân tích số liệu thống kê có sẵn
Như đã đề cập tới ở phần phạm vi không gian nghiên cứu, luận án sẽ sử
dụng số liệu của đề tài cấp Nhà nước “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan
niệm, thực trạng và chỉ số đánh giá” để phân tích quan niệm và các yếu tố tác
động tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc của người phụ nữ. Qua
đó, cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá trị
hạnh phúc trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung và những chính
sách đặc thù cho phụ nữ nói riêng.
Cơ sở số liệu:
Đề tài “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan niệm, thực trạng và chỉ số
đánh giá” là một nhiệm vụ quan trọng mà Chính phủ đã giao cho Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì, Lê Ngọc Văn làm chủ nhiệm, thực hiện trong

30 tháng (từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2018). Đề tài tiến hành điều tra khảo sát
theo phương pháp điều tra định lượng và điều tra định tính.
Điều tra định lượng: Tiến hành điều tra 2.500 phiếu theo phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên tại 05 tỉnh/thành. Tuy nhiên, vì luận án chỉ tìm hiểu
quan niệm của người phụ nữ nên sẽ tiến hành lọc mẫu, chỉ chọn ra người trả
lời là nữ để có được thông tin một cách trực tiếp: người phụ nữ tự đưa ra quan
niệm của chính bản thân mình về hạnh phúc. Chính vì thế mẫu phân tích của
luận án còn 1.443 phiếu.
13


Đặc điểm mẫu phân tích:
Bảng 1: Thông tin người trả lời
Số lượng

Tỉ lệ (%)

Nông thôn

644

44,6

Đô thị

799

55,4

Dưới 40


674

46,8

40-59

622

43,2

60 trở lên

145

10,0



791

54,9

Không

649

45,1

1013

420

70,7
29,3

260
738
436

18,1
51,5
30,4

1205
115

91,3
8,7

367
590
277

29,7
47,8
22,5

Khu vực sống

Nhóm tuổi


Theo tôn giáo

Dân tộc
Kinh
Dân tộc khác
Mức sống
Khá
Trung bình
Nghèo
Tình trạng hôn nhân
Kết hôn
Độc thân
Độ dài hôn nhân
1-10 năm
11-30 năm
31 năm trở lên

Nguồn: Số liệu xử lý của luận án

14


Điều tra định tính: thực hiện 192 cuộc tọa đàm, phỏng vấn sâu, thảo
luận nhóm đại diện cho các nhóm xã hội.
Phương pháp phân tích số liệu:
Trên cơ sở số liệu gốc, tác giả tiến hành lọc người trả lời là nữ để phân
tích theo mục đích, nội dung nghiên cứu của luận án bằng chương trình SPSS.
Các phân tích tần suất (frequency), phân tích nhị biến (crosstabs), hồi quy
logistic sẽ được sử dụng.

Phân tích tần suất (frequency): cung cấp thông tin chung về quan niệm
hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Phân tích nhị biến (crosstabs): kiểm nghiệm mối quan hệ giữa từng yếu
tố độc lập đến hạnh phúc của người phụ nữ. Hệ số Khi-bình phương (chisquare) được sử dụng để xem xét những yếu tố đó có mức độ quan hệ như thế
nào đến hạnh phúc của người phụ nữ, các biến số đó có ý nghĩa về mặt thống
kê không?.
Phân tích hồi quy logistic: phân tích hồi quy là sự phân tích mối quan
hệ phụ thuộc của một biến số (gọi là biến phụ thuộc) vào các biến số khác
(gọi là biến độc lập hoặc biến giải thích). Trên cơ sở khung lý thuyết đã được
xây dựng, tất cả các biến số được giả định có liên quan về mặt lý thuyết với
hạnh phúc của người phụ nữ (đã phân tích nhị biến) sẽ được đưa vào mô hình
hồi quy đa biến. Phân tích hồi quy cho phép xác định được những yếu tố tác
động thực sự đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Nếu chỉ dừng lại
ở phân tích nhị biến, một số biến số có thể tác động đồng thời đến quan niệm
của người phụ nữ về hạnh phúc. Nói một cách cụ thể hơn, phân tích hồi quy
logistic giúp tác giả luận án nhận diện rõ hơn sự khác biệt/tương đồng trong
quan niệm của người phụ nữ thuộc các nhóm xã hội khác nhau.

15


6.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Bên cạnh phương pháp phân tích số liệu của đề tài cấp nhà nước, tác
giả sẽ thực hiện riêng các phỏng vấn sâu bởi có nhiều lý do khiến các câu hỏi
định lượng không thể có được đầy đủ những thông tin mà luận án cần thu
thập. Luận án sẽ tiến hành phỏng vấn sâu 50 người phụ nữ đảm bảo cơ cấu về
độ tuổi, dân tộc, học vấn, tôn giáo, mức sống, vùng miền… Cụ thể:
Tỉnh Sơn La: 10 phỏng vấn sâu
Tỉnh Ninh Bình: 10 phỏng vấn sâu
Thành phố Hồ Chí Minh: 10 phỏng vấn sâu

Tỉnh An Giang: 10 phỏng vấn sâu
Tỉnh Đắc Lắc: 10 phỏng vấn sâu
Luận án thực hiện phương pháp nghiên cứu case study bởi đặc trưng
của hạnh phúc là mang tính chủ quan, là một quá trình dựa trên trạng thái
tương đối ổn định, dài lâu, không phải là trạng thái tinh thần, tình cảm viên
mãn hay hứng thú nhất thời, bất chợt. Nội dung các cuộc phỏng vấn sâu sẽ tập
trung nghiên cứu tình huống để xác định điểm mốc thời gian mà người phụ nữ
cảm thấy hạnh phúc. Từ điểm mốc này, các sự kiện/yếu tố liên quan sẽ được
khai thác để tìm hiểu quan niệm và yếu tố tác động tới quan niệm hạnh phúc
của người phụ nữ.
Luận án chọn mẫu phỏng vấn sâu theo phương pháp có chủ đích và
phân chia theo năm tiêu chí chính: khu vực, nhóm tuổi, mức sống, tôn giáo,
dân tộc. Một số tiêu chí khác như trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, độ dài
hôn nhân được lồng ghép trong 5 tiêu chí chính vừa nêu.

16


Bảng 2: Phân bổ mẫu phỏng vấn sâu
Nhóm tuổi
Mức sống
Dân tộc
Tổng
<40 40-59 >=60 Giàu TB Nghèo Thiểu số Kinh
Nông thôn
1
1
1
1
1

5
Đô thị
1
1
1
1
1
5

Ninh
Bình
Sơn La

Nông thôn
Đô thị

1

Đắc Lắc

Nông thôn
Đô thị

1
1

Tp. Hồ
Chí
Minh
An

Giang

1

Nông thôn
1

Nông thôn
Đô thị
Tổng

1
6

1

1
1
1

Đô thị

1
1

1
1
1
1


1
6

1
1
7

1
1
1
1

5
5

1
1

5
5

1

1

1

5

1


1

1

5

1
8

1
1
7

1
5

5
5
50

1
6

1

1
1

1

5

Kinh nghiệm cho thấy, người học vấn cao thường có nhiều hiểu biết
việc điều tra, cho nên họ thường dễ dàng tiếp nhận các câu hỏi và thường cho
những trả lời chính xác; người thuộc tầng lớp trung bình thường đưa ra những
câu trả lời thường không thật chính xác lắm; người nhút nhát thường không
dám trả lời vì sợ sai; người có quá khứ phức tạp thường dè dặt; đối với người
tự tin thì người nghiên cứu rất khó tìm câu trả lời chuẩn xác; đối với người
bông đùa, khôi hài thì người nghiên cứu thường thu được những câu trả lời có
độ tin cậy thấp; còn người ba hoa thường hay đưa vấn đề đi lung tung. Khó
nắm bắt nhất là những người có bản lĩnh tự tin thái quá, vì họ rất kín kẽ, biết
cách dấu kín một cách nhất quán mọi suy nghĩ, nếu người nghiên cứu không
có kinh nghiệm "cài các bẫy logic", thì rất khó tìm được câu trả lời ở những
người này [82]. Chính vì thế, trước mỗi đối tượng được chọn để phỏng vấn,
người nghiên cứu cần có những cách tiếp cận phỏng vấn khác nhau. Phương
pháp tiếp cận tâm lý học cũng sẽ được áp dụng để thu thập những thông tin
cần thiết cho nghiên cứu.


Nguồn: đã trích dẫn

17


6.2.4. Phương pháp xử lý thông tin
- Thông tin thu thập được từ thực tế bao gồm: báo cáo tình hình kinh tế
xã hội tại các địa bàn nghiên cứu, các file ghi âm phỏng vấn sâu và báo cáo
điền dã tại thực địa.
- Các file ghi âm sẽ được gỡ băng trên Word.
- Luận án sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để xử lý thông tin định lượng.

- Các thông tin định lượng và định tính sẽ được kết hợp hợp lý trên cơ
sở khoa học để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Các phân tích định lượng được
phân tích trên mối quan hệ nhân quả. Các phân tích định tính sẽ hỗ trợ để giải
thích, làm rõ số liệu.
7. Điểm mới của luận án
- Trên thế giới hiện nay, rất nhiều nghiên cứu về hạnh phúc đã được
thực hiện nhưng ở Việt Nam, lĩnh vực này ít được đề cập tới. Đến thời điểm
hiện tại, ở Việt Nam chỉ có thể kể tên 05 nghiên cứu trực tiếp về hạnh phúc
nói chung và chưa có nghiên cứu riêng nào về hạnh phúc của người phụ nữ
(điều này sẽ được làm rõ trong phần tổng quan tài liệu). Vì vậy, kết quả của
luận án sẽ góp phần nhận diện quan niệm về hạnh phúc từ góc nhìn của người
phụ nữ.
- Tại Việt Nam, mới chỉ có một số ít công trình nghiên cứu về hạnh
phúc. Những công trình sử dụng mô hình hồi quy đa biến để phân tích các yếu
tố tác động tới hạnh phúc còn ít ỏi hơn. Bằng việc sử dụng mô hình hồi quy
đa biến trong phân tích bộ số liệu của đề tài cấp nhà nước đầu tiên về bộ chỉ
số hạnh phúc của người Việt Nam, tác giả luận án hy vọng rằng sẽ xác định
được những yếu tố thúc đẩy hoặc hạn chế hạnh phúc của người phụ nữ. Qua
đó, cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá trị
hạnh phúc trong các chính sách phát triển và gợi mở những hướng nghiên cứu
tiếp theo.
18


8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
8.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án góp phần xây dựng nhận diện và hoàn thiện hơn khái niệm
“Hạnh phúc” từ góc nhìn của người phụ nữ.
- Thông qua việc vận dụng các lý thuyết để phân tích, giải thích kết quả
điều tra thực nghiệm quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh

phúc, luận án góp phần kiểm định mức độ phổ biến, tính đúng đắn của 02 lý
thuyết (lý thuyết hệ thống và lý thuyết bậc thang nhu cầu của Maslow) trong
bối cảnh của xã hội Việt Nam.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả của luận án sẽ mang đến những nhận thức mới có tính hệ
thống về quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, và đó
là những bằng chứng quan trọng cho việc hoạch định chính sách hoặc triển
khai những biện pháp can thiệp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của
người phụ nữ nói riêng và những chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung.
- Trên thế giới hiện nay, việc nghiên cứu về hạnh phúc đã trở thành một
ngành khoa học thực thụ nhưng ở Việt Nam, lĩnh vực này dường như vẫn
đang bị bỏ trống. Tác giả luận án hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu sẽ góp
phần nhỏ trong việc đặt nền móng cho quá trình hình thành một chuyên ngành
khoa học xã hội về hạnh phúc trong tương lai ở Việt Nam.
- Luận án là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích trong quá trình nghiên
cứu, giảng dạy các bộ môn xã hội học gia đình, giới và phát triển…
9. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung luận án gồm 5 chương (20 tiết).

19


×