Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Quan niệm về tứ đức “Công – Dung – Ngôn – Hạnh” của người phụ nữ Việt Nam xưa và nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.92 KB, 25 trang )

Quan niệm về tứ đức “Công – Dung – Ngôn – Hạnh” của người phụ nữ Việt
Nam xưa và nay
I - MỞ ĐẦU
Tôi sinh ra và lớn lên trên một miền quê nhỏ nhắn, xinh đẹp thuộc vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Cũng giống như bất cứ ai, tôi yêu quê hương nhiều lắm,yêu
từ cái giản dị chất phác của người dân đến khoảng trời trong xanh những buổi
chiều về và cả lời ru của bà những ngày hè trưa nắng. Bà vẫn bảo tôi “con gái
phải biết ngoan ngoãn nghe lời, đoan trang thuỳ mỵ,phải có đủ Công – Dung –
Ngôn - Hạnh”. Hồi đó tôi chưa hiểu gì chỉ biết “vâng” theo lời bà dạy. Bà và tôi
là cả hai thế hệ. Bà sinh ra và được nuôi dạy theo tư tưởng phong kiến ngày xưa
còn tôi đang sống trong một xã hội hoàn toàn mới-hai xã hội khác nhau va hai
thế hệ không thể đánh đồng theo một khuôn mẫu được. Tôi vẫn đi cùng với nhịp
sống hối hả,nhưng học nhiều biết nhiều tôi lại càng có ham muốn tìm hiểu rõ
hơn “Công-Dung-Ngôn-Hạnh” mà bà nhắc nhở ngày xưa. Ai có thể hoá mình
vào trong quá khứ để thực hiện hết tất cả những quy tắc, quy định trong xã hội
trước được? Nhưng tôi vẫn muốn nhìn nhận cái khuôn hình đó - khuôn hình
“Công – Dung – Ngôn - Hạnh” trên cả hai chiều xưa và nay. Bởi vì đối với
người phụ nữ mà nói cùng với sự thay đổi của cả xã hội nấc thang đánh giá về
họ cũng đã khác. Cả một quãng thời gian dài như vậy dần những trói buộc, định
kiến xưa cũ cũng đã được cởi bỏ. Người phụ nữ ngày nay không còn giới hạn
không gian sống của mình phía sau bậc cửa mà được tự do thể hiện sức mạnh,tài
năng trí tuệ của mình. Không thể nói rằng người phụ nữ ngày nay đã đánh mất
đi vẻ đẹp ngày xưa mà “Công – Dung – Ngôn - Hạnh” của phụ nữ ngày nay đã
mang vóc dáng mới, vẻ đẹp mới –mang tầm thời đại.
II - NỘI DUNG
“Công - Dung - Ngôn - Hạnh” bao gồm cả phẩm chất, đạo đức, tài năng,
người con gái đồng thời không quên vẻ đẹp bề ngoài, lời ăn tiếng nói, dáng vẻ.
Điều đó có nghĩa rằng một người phụ nữ đẹp thì luôn luôn phải hoàn thiện mình
về mọi mặt. Mỗi người khi sinh ra từ lúc tuổi thơ cho đến khi trưởng thành đều
được cha mẹ dạy dỗ, dìu dắt, uốn nắn, luyện tập hằng ngày để trở thành một
người phụ nữ hoàn thiện với vẻ đẹp riêng của mình. Khi trưởng thành đi lấy


chồng mỗi người lại phải học cách làm vợ, làm mẹ, làm con dâu. Có lẽ rằng,
trong cuộc đời mỗi người phụ nữ đều
phải không ngừng hoàn thiện mình theo phẩm chất “Công - Dung - Ngôn
- Hạnh”. Song mỗi chúng ta đều phải hiểu “Công - Dung - Ngôn - Hạnh” là như
thế nào?
Trước hết là về chữ Công của người phụ nữ, theo quan niệm xưa thì đó là
tinh thần tận tuỵ lao động bếp núc, vá may “nữ công gia chánh”, sinh con, nuôi
con, phụng dưỡng bố mẹ chồng. Song quan niệm ngày nay về chữ công của
người phụ nữ tiến bộ hơn nhiều, những công việc của phụ nữ không còn bị bó
hẹp trong gia đình nữa mà được mở rộng ra cả ngoài xã hội,người phụ nữ có thể
làm bất cứ việc gì ngoài xã hội nếu họ có khả năng.
Dung: là nói về dung nhan,dáng vẻ bên ngoài của người con gái, đồng
thời cũng thể hiện vẻ đẹp tâm hồn tính cách. Mỗi người con gái đều có vẻ đẹp
riêng của mình và phải tự làm đẹp cho mình bằng kiểu tóc, cách ăn mặc, dáng đi
cho phù hợp để tạo lên một phong cách riêng của bản thân. Và người phụ nữ
đồng thời luôn làm cho tâm hồn mình trở lên đẹp, trong sáng, yêu đời… và như
vậy chúng ta sẽ luôn là người phụ nữ đẹp.
Ngôn: ở đây có nghĩa là lời nói, luôn đồng hành cùng Dung. Từ nhỏ
chúng ta đã được cha mẹ dạy phải biết “gọi dạ,bảo vâng”, lễ phép với bề trên.
Người phụ nữ phải “ăn khẽ, nói nhẹ”, nói những lời dễ nghe, tránh những lời lẽ
thô tục,cục cằn,chửi tục… Ngôn ngữ để phân biệt giữa con người và động vật,
lời nói hay, dễ nghe, dịu dàng dể phân biệt những người phụ nữ ngoan hiền, có
văn hoá với những người phụ nữ tranh chua, vô duyên. Chính vì vậy mà lời nói
cũng là một yếu tố để đánh giá vẻ đẹp của người phụ nữ.
Hanh: là đức hạnh,phẩm hạnh của người phụ nữ. Đây là vẻ đẹp bên
trong,vẻ đẹp không thể thay thế được.Người phụ nữ đẹp về nhiều mặt nhưng
không đẹp về “hạnh” thì có nghĩa là chưa đẹp,nhưng một người con gái dù chưa
hoàn thiện về một số mặt nhưng họ có phẩm chất, đức hạnh tốt thì họ vẫn là
người con gái đẹp.Có thể nói đây là vẻ đẹp quan trọng nhất để đánh giá về người
con gái.

III- QUAN NIỆM VỀ “CÔNG - DUNG - NGÔN - HẠNH” XƯA VÀ NAY
Trong xã hội xưa,dưới chế độ phong kiến,phân biệt nam, nữ một cách
định kiến rõ rệt. Địa vị, vai trò của người phụ nữ trong xã hội ấy không được coi
trọng, họ là người bị áp bức bóc lột, trói buộc nhiều nhất trong cả gia đình và xã
hội. Theo quan điểm nho giáo cho rằng phụ nữ là đối tượng khó dạy, tâm tính
hèn mọn,tri thức nông cạn… do vậy người phụ nữ phải được dạy bảo trong
khuôn phép “tam tòng, tứ đức”. Trong xã hội ngày nayquan niệm về “tứ đức”
của người phụ nữ đã thay đổi hẳn. Phụ nữ ngày càng được giải phóng ra khỏi
bức tường thành gia đình để hoà nhập vào cùng dòng chảy của xã hội. Song dù
có ở thời đại nào đi chăng nữa thì những giá trị về tứ đức "Công - Dung - Ngôn -
Hạnh" Cũng không mất đi, chỉ có điều mỗi một thời sẽ có những quan
niệm,chuẩn mực về “tứ đức” đó là khác nhau.
Trước hết là nét đẹp trong chữ Công của người phụ nữ: như chúng ta đã
biết trong xã hội truyền thống cổ xưa, sự phân công lao động chủ yếu dựa vào
giới tính, đan ông thì làm những công việc nặng nhọc và chủ yếu giao tiếp bên
ngoài còn đàn bà thì chăm lo nhà cửa phụ trách những vấn đề bên trong. Với sự
khác biệt trong phân công lao động đó nên việc truyền thụ kỹ năng mưu sinh
trong các gia đình cũng khác nhau, nhất là giữa người nam và người nữ. Làm
phận đàn bà trong xã hội phong kiến thì phải ép mình trong khuôn phép nữ lưu.
Mặc dù có một số người cùng học tập,làm ruộng, buôn bán như đàn ông nhưng
hầu hết tất cả những người phụ nữ vẫn phải học “nữ công gia chánh”, học canh
gửi thêu thùa… Bởi quan điẻm đó nên tất cả các cô gái dù là thiên kim tiểu thư
cành vàng lá ngọc hay chỉ là một cô gái quê mùa cũng phải học nữ công gia
chánh, giáo dục kỹ năng may vá thêu thùa và thu xếp việc gia đình là nội dung
quan trọng nhất trong giao dục phụ nữ dưới thời phong kiến.
Trong xã hội xưa một mớ nhữg tư tưởng và phong tục tập quán hà khắc
mà bọn phong kiến ra sức duy trì: bắt phụ nữ chỉ biết phục tùng, giam hãm họ
trong những công việc gia đình vụn vặt, không đươc tham gia các hoạt động xã
hội, không được học hành. Người phụ nữ trong xã hội xưa không có chút quyền
bình đẳng nào, chế độ “nam quyền” đã làm cho số phận người phụ nữ ngày càng

éo le hơn. Song không chỉ vậy mà những công việc của người phụ nữ cũng
không được coi trọng “những công việc về nội trợ của người đàn bà không đang
kể nữa so với lao động sản xuất của người đàn ông - lao động sản xuất của
người đàn ông là tất cả ;công việc nội trợ của người đàn bà chỉ là sự đóng góp
không đáng kể” (Ăngghen-Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà
nước).
Ngày nay người phụ nữ được biết đến không chỉ với tư cách là người
vợ,người mẹ và làm những công việc nội trợ trong gia đình mà người phụ nữ đó
làm chủ đất nước, làm chủ chính mình tham gia vào quá trình sản xuất và các
hoạt động xã hội, đó là những người phụ nữ “giỏi việc nước đảm việc nhà”.
Trong xã hội nào cũng vậy,những chức năng cũng như những phẩm chất
của người phụ nữ không thể thay đổi, song mỗi xã hội lại có những chuẩn mực
khác nhau. Trong xã hội ngày nay tuy nền kinh tế đang phát triển mạnh,nhiều
công nghệ mới tiến bộ ra đời phục vụ đời sống của con người như người phụ nữ
không cần đẻ mà vẫn có thể có con bằng cách thụ thai trong ống nghiệm, việc
nấu ăn cũng co nhiều dịch vụ mang đến tận nhà hoặc cơm ngoài hàng, ngoài
quán hay việc may vá giờ cũng không cần thiết nữa vì quần áo may sẵn rất
nhiều… Song là một người phụ nữ,làm một người vợ, làm một người mẹ thì
không thể bỏ những thiên chức đó của mình cho dù ở bất cứ thời đại nào. Tuy
rằng ngày nay quan niệm về những công việc gia đình của người phụ nữ không
còn khắt khe như trong xã hội ngày xưa nữa.
Trong gia đình vai trò của người vợ vô cùng to lớn và vĩ đại.Gia đình có
sáu chức năng thì hầu như chức năng nào cũngcó mặt của người phụ nữ: đẻ con,
nuôi con, chăm sóc bố mẹ, tề gia nội trơ, quản lý kinh tế. Vì vậy phần lớn mọi
người cho rằng hạnh phúc gia đình,sức khoẻ của con cái, sự an lạc của chồng
nhất nhất đều do người phụ nữ tạo ra.
Theo truyền thống từ xưa đến nay, người vợ là người nội trợ, lo toan
việc bếp núc. Đây chính là nghệ thuật quan trọng nhất để có một gia đình hạnh
phúc. Nếu như trong xã hội ngày xưa công việc nội trợ là công việc chính của
người phụ nữ thì trong xã hội hiện đại này khi mà con người đang hối hả chạy

theo những công nghệ mới,chỉ chú tâm làm những công việc xã hội và đã có rất
nhiều người phụ nữ không còn chú tâm nhiều đén việc nội trợ nữa, họ chỉ cầu kì
nấu ăn khi có dịp lễ tết hay tiệc tùng còn những ngày thường do bận việc nên
việc nấu những món ăn ngon cho người thân không được quan tâm nhều lắm, họ
thường nấu những món ăn có thể quen thuộc hoặc đơn giản, nhanh gọn. Đặc biệt
ở các thành phố lớn ai ai cũng bận rộn với công việc mưu sinh, thường các gia
đình chỉ gặp nhau trong bữa cơm tối, cơm trưa chồng hoặc vợ ăn cơm ở cơ quan
hoặc cơm quán… Rồi trong xã hội ngày nay người con gái chú tâm học rat
nhiều thứ nhưng riêng việc nội trợ bếp núc thì họ không chú tâm. Chính vì vậy
mà tài bếp núc của họ không được khoé như những người con gái ngày xưa. Bữa
ăn hàng ngày không có gì là to tát, nhưng nó có thể là yếu tố làm cho gia đình
đầm ấm, hạnh phúc hơn và cung có thể là nguyên nhân làm cho không khí gia
đình nguội lạnh theo thời gian. Như vậy công việc nội trợ bếp núc của người
phụ nữ của xã hội nào cũng rất cần thiết, “cơm có lành canh mới ngọt”người phụ
nữ phải thực hiện đúng thiên chức của mình thì gia đình mới đầm ấm và hạnh
phúc. Người chồng là trụ cột trong gia đình, hang ngày họ phải làm việc rất vất
vả và sau mỗi ngày làm việc mệt mỏi ấy khi về đén nhà đựoc nghỉ ngơi trong
một không khí gia đình thoải mái, vui vẻ, ấm cúng, được đoàn tụ cùng người
thân tron mâm cơm gia đình thì mọi mỏi mệt sẽ được xoá tan. Cách chăm sóc
chồng của ngươi phụ nữ “con đường ngắn nhất là con đường xuyên qua dạ dầy
của người đàn ông”(thành ngữ). Ngày nay nhờ có khoa học tiến bộ, đã giảm rất
nhiều việc bếp núc cho người phụ nữ.
Như chúng ta đã biết, xã hội tồn tại dựa trên hai cơ sở là tái sản xuất ra
của cải vật chất và tái sản xuất ra con người. Làm mẹ là một thiên chức đặc biệt
của người phụ nữ và chỉ họ mới có thiên chức ấy. Lênin đã đưa ra một nhận
định triết lý “Người phụ nữ nào cũng biết rằng đẻ ra là rất đau nhưng không bất
cứ một người phụ nữ binh thường nào lại khước từ việc sinh đẻ”. Trong xã hội
xưa, người phụ nữ có vị trí không hơn một nô lệ, là một thứ tài sản có thể
chuyển nhượng, cầm cố, chức năng cơ bản nhất của ngưòi phụ nữ là phải sinh
cho nhà chồng những đứa con trai để nối dõi tông đường bởi vì “một trai mới

coi là có, mười con gái có cũng như không”. Vì quan niệm “trọng nam khinh nữ”
ấy mà trước kia không ít người phụ nữ phải chịu cảnh “chồng năm thê bảy
thiếp”. Ngày nay, măc dù quan niệm vẫn còn ảnh hưởng nhưng không còn khăc
nghiệt như ngày xưa nữa, đã có rất nhiều gia đình không có con trai nhưnng gia
đình vẫn hạnh phúc, con cá trưởng thành ngoan ngoãn. Sinh con ra đã khó
nhưng để nuôi dạy con trưởng thành,sống tốt ngoan ngoãn lại càng khó hơn.
Ngưòi mẹ có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục con cái. Là người mẹ,
phụ nữ luôn dành tình cảm cho con mình bằng sức hấp dẫn lạ thường. Sự cảm
hoá của người mẹ đối với con bằng tình mẫu tử luôn chắp cánh cho con cái
vươn tới, bay xa vào sự tốt đẹp củ cuộc đời. Người phụ nữ sống cho con vì con
hơn là đòi hỏi vì với họ “chỗ ướt mẹ nằm,chỗ ráo nhường con”. Vì vậy mà mỗi
người mẹ luôn luôn phải hoàn thiện mình để luôn là tấm gương sáng cho con cái
noi theo.
Ngoài những công việc gia đình,chăm sóc con cái những người phụ nữ
luôn có nghĩa phải chăm sóc bố mẹ chồng. Trong xã hội xưa con dâu luôn phải
cung phụng bố mẹ chồng một cách tuyệt đối, bố mẹ có nói sai thế nào thì vẫn
phải nghe. Ngày nay quan hệ mẹ chồng nàng dâu không còn như xưa nưa, cuộc
sống độc lập của bố mẹ chồng với con cái đã làm cho địa vị của người phụ nữ
không phải chịu nhiều quy tắc của bố mẹ chồng nữa mà người phụ nữ có thể là
chủ mọi công việc trong gia đinh.Song nghĩa vụ chăm sóc bố mẹ chồng thì
người phụ nữ luôn phải thực hiện một cách đầy đủ, đặc biệt đó không chỉ là
nghĩa vụ mà đó còn là tình cảm cũng như lòng biết ơn đối với bố mẹ.
Như vậy, có thể nói rằng trong gia đình người phụ nữ có vai trò rất quan
trọng “người phụ nữ được ví như chiếc điều hoà trong gai đình” làm cho không
khí gia đình trở lên ấm cúng trong mùa đông và mát dịu về mùa hè. Như Vonte
đã từng nói “dù là vua chúa hay người dân cày, kẻ nào sống yên ổn dưới mái ấm
của mình là hạnh phúc”. Mỗi chúng ta không thể coi những công việc gia đình
là vụn vặt bởi chính từ những việc lam đó nếu người phụ nữ hoàn thành được
trách nhiệm của mình thì sẽ tạo dựng được một gia đình hạnh phúc còn không
thì sẽ ngược lại. Gia đình là một tế bào của xã hội, gia đình đầm ấm không chỉ

đem lại niềm vui cho mỗi thành viên trong gia đình mà còn góp phần làm cho xã
hội ổn định và văn minh hơn. Chính vì vậy mà trong mỗi công việc của gia đình
không thể thiếu bàn tay của người phụ nữ và vai trò của người phụ nữ đã được
nhà thơ Thế Hùng khẳng định qua bài thơ “Vợ ơi”:
“Em đi vắng
Nhà hoang tàn giá lạnh
Con mải chơi quên bố bữa cơm chiều
Mở tủ lạnh thấy toàn là đá
Bếp chỏng trơ toàn những nồi niêu”.
Phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay không chỉ “đảm việc nhà” mà còn
“giỏi việc nước”, trải qua rất nhiều những năm tháng khổ cực của chiến tranh,
chính từ trong những đau khổ đó người phụ nữ đã xây dựng được hình tượng
người phụ nữ Việt Nam thật cao đẹp. Các lễ giáo phong kiến cố thắt chặt họ vào
cỗ xe “ tam tòng, tứ đức” nhưng vẫn không ngăn cản được phụ nữ Việt Nam
“ghé vai gánh vác sơn hà”. Trong chiến tranh người phụ nữ cũng không thua
kém gì người đàn ông, họ cũng ra mặt trận, cũng cầm súng chiến đấu với một
khí phách bất khuất yêu đời ngay trong cả khó khăn:
“Em đứng hiên ngang giữa đất trời
Giữa vòng gươm súng ,nụ cười tươi
Giữa thành phố Bác thương yêu ấy
Rạng cả quê hương,một nụ cười”
(Rạng cả quê hương một nụ cười
Nguyễn Thi Lý)
Rồi nhân dân Việt Nam đầu thế kỉ 3 đã suy tôn mẹ tổ vùng Dâu - bà Man
Nương làm phật mẫu vì Man Nương đã có công chống hạn, đem nươc vào ruộng
đồng cho dân cày cấy … Tất cả những người phụ nữ Việt Nam ấy đã đem sức
minh vào công cuộc giải phong và xây dựng đất nước.
Trong bom đạn những người phụ nữ việt nam đã có khả năng viết lên
những trang sử vàng chói lọi về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc.
Ngày nay xã hội càng phat triển người phụ nữ càng được giải phóng thoát ra

khỏi bức tường gia đình để hoà nhập vào xã hội. Họ có thể làm mọi việc, học
nhiều thứ để góp phần vào phát triển xã hội, làm rạng rỡ đất nước ta. Văn kiện
Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ 9 đã nêu lên mục tiêu phấn đấu đạt chuẩn mực
“Người phụ nữ việt Nam yêu nước, có tri thức, có sức khoẻ, năng động, sáng tạo,
có lối sống văn hoá,có lòng nhân hậu,quan tâm đến lợi ích xã hội vàcộng đồng”.
Như vậy nếu như ngày xưa những công việc ngoại (bên ngoài xã hội) do
đàn ông đảm nhiệm, người phụ nữ chỉ đảm nhận những công việc nội (trong
nhà) không được tham gia những công việc của đất nước thì đén nay người phụ
nữ đã thật sự được giải phóng trong cả gia đình và cả gia đình và xã hội. Ngoài
những công việc của một người vợ, một người mẹ,một người con dâu mà người
phụ nữ phải làm thì họ còn có nhiệm vụ,trách nhiệm của một người công dân.
Ngày nay phụ nữ học rộng biết nhiều không khác gì nam giới cả, ngoài công
việc gia đình thì có thể nói công việc chính của họ là tham gia vào hoạt động sản
xuất của xã hội, người ta thống kê số liệu là phụ nữ chiếm 48% trong tổng số
hơn 37 triệu lực lượng lao động xã hội.
Gần 20 năm đổi mới đất nước, với quan điểm đặt con người vào vị trí
trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, mọi tiềm năng trong mỗi cá
nhân và cả cộng đồng trong đó có phụ nữ được khơi dậy. Trên các lĩnh vực hoạt
động xã hội phụ nữ đã phay huy cao độ khả năng của mình với xu hướng ngày
càng có nhứng đóng góp quan tọng vào sự phát triển của đất nước. Phụ nữ tham
gia đông đảo ở nhiều ngành sản xuất của đất nước như:ngành thương mại, giáo
dục, y tế, tin dụng và tài chính, văn hoá xã hội… hay trong các hoạt động thể
dục thể thao ngày càng ghi nhận thành tích đóng góp đáng kể của người phụ nữ
trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Trong hoạt động văn hoá chúng ta đã có rất nhiều nữ nghệ sĩ nhân dân, nữ nghệ
sĩ ưu tú và trong hoạt động thể thao như bóng đá điền kinh… nữ đã đạt rất nhiều
huy chương các loại tại các giải khu vực và quốc tế.
Phụ nữ còn được giải phóng trong cả hoạt động chính trị,nếu trước kia
việc nước chỉ do đàn ông lo thì giờ phụ nữ đã tham gia vào các cấp uỷ đảng,
chính quyền, đoàn thể từ trung ương đến địa phương,cơ sở với số lượng ngày

càng tăng. Với những cương vị trọng trách đó, người phụ nữ đang cống hiến
ngày càng nhiều cho sự phát triển của đất nước.
Song ngày nay khi xã hội càng phát triển,nhiều loại dịch vụ phục vụ nhu
cấu sinh hoạt các gia đình (quần áo may sẵn, món ăn làm sẵn...), song không vì
thế mà người con gái quên đi những điều mà mình cần có như biết khâu vá, đơm
khuy, khâu những đường sứt chỉ, sửa quần áo cho chồng con, nấu cơm ngon
canh ngọt hằng ngày. Khi đồng tiền lấn át đòi hỏi con người phải năng động dồn
nhiều sức lực vào công việc kiếm tiền và tồn tại, có những phụ nữ mải mê chạy
theo danh lợi ma quên đi những thiên chức của mình, rồi đến một lúc nào đó họ
được ở trên đỉnh cao của sự nghiệp nhưng lại thiếu những hạnh phúc bình dị
nhất của cuộc sống đời thường. Và như vậy người phụ nữ đó có cao sang bao
nhiêu mà không có một gia đình đầm ấm, hạnh phúc thì có lẽ chính họ lại là
người bất hạnh nhất.
Như vậy, có thể nói rằng phụ nữ Việt Nam ngày nay không còn bị bó
buộc trong khuôn phép gia đình nữa mà họ đã được tự do tham gia vào các hoạt
động xã hội. Với những vị trí và vai trò ngày càng được nâng cao trong cả gia
đình và ngoài xã hội người phụ nữ đã được giải phóng. Một xã hội muốn tồn tại
và phát triển thì không thể thiếu những đóng góp của người phụ nữ.
Vẻ đẹp tiếp theo của người phụ nữ là “Dung”, đây là vẻ đẹp hình thể cũng
như tâm hồn của người phụ nữ, mỗi một thời sẽ có những quan niệm về vẻ đẹp
của người phụ nữ khác nhau.
Trong xã hội xưa người phụ nữ được quan niệm là đẹp khi người phụ nữ
ấy có dáng người mảnh mai, nhẹ nhàng, yểu điệu, thắt đáy lưng ong rất phù hợp
với xã hội xưa khi mà người phụ nữ chỉ ở trong nhà làm những công việc gia
đình và phải phụ thuộc vào người đàn ông. Nhưng trong xã hội ngày nay những
quan niệm ấy đã thay đổi nhiều, người phụ nữ đẹp khi có một hình thể khoẻ
khoắn, sức khoẻ tốt, có như vậy họ mới gánh vác được những công việc gia đình
và cả ngoài xã hội.
“Dung” ở đây cũng có nghĩa là vẻ đẹp nhan sắc của người phụ nữ, vẻ đẹp
này được ví như những bông hoa nhiều sắc nhưng hương rất đa dang và phong

phú. Tuy nhiên mỗi con người sinh ra không phải ai cũng đẹp như ai. Có những
những người phụ nữ có một nhan sắc hoàn hảo, họ có thể trở thành hoa hậu, hoa
khôi, á hậu… song lại có rất nhiều phụ nữ tị ti về sắc đẹp của mình, nhưng
thành ngữ đã có một câu rất hay “không có người phụ nữ xấu chỉ có người phụ
nữ không biết làm đẹp cho mình” . Như vậy những người phụ nữ đã đẹp rồi thì
sẽ làm cho mình càng đẹp hơn về mọi mặt, còn những người phụ nữ chưa đẹp ta
có thể đi thẩm mỹ, hay chọn cho mình một cách ăn mặc, kiểu tóc…cho phù hợp,
phải tự biết làm đẹp cho mình chứ không nên tự ti.
Trứơc hết vẻ đẹp ngoại hình phụ thuộc rất nhiều vào cách ăn mặc, ông
cha ta đã có câu “người đẹp vì lụa”, tức là sự phong phú về màu sắc, chất liệu
vải vóc cũng như hình dáng, kích thước của các loại quần áo thật muôn hình
muôn vẻ, trong lĩnh vực này người ta cũng dễ bị sa vào việc đi tìm vẻ đẹp hình
thức. Song mỗi cái đẹp đều có nội dung của nó và xét đến cùng thì cách ăn mặc
nào cũng là biểu hiện của tâm hồn bên trong. Và mỗi chúng ta phải tự biết cách
ăn mặc như thế nào cho phù hợp với mình.
Vào mỗi thời kì xã hội khác nhau có những quan niệm về cách ăn mặc
khác nhau. Người con gái ngày xưa cách đây một thế kỉ được quan niệm là đẹp
khi cô ấy có tóc đuôi gà, răng nhuộm đen, guốc mộc, áo tứ thân. Cách ăn mặc

×