Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tôn Giáo Và Công Tác Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Tôn Giáo Ở Huyện Điện Biên, Tỉnh Điện Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.66 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH ĐỨC CƯỜNG

TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN,
TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH TÔN GIÁO HỌC

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH ĐỨC CƯỜNG

TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN,
TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY

Ngành: Tôn giáo học
Mã số: 8229009

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM THANH HẰNG

Hà Nội, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Tôn giáo và công tác quản lý Nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên hiện nay” là công trình
nghiên cứu của riêng cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Phạm Thanh Hằng.
Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan
khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày ……. tháng ……. năm 2019
Tác giả

Đinh Đức Cường

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến các thầy cô trong Khoa Tôn giáo học tại Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn
Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã giảng dạy và cho tôi nhiều kiến thức trong quá
trình học tập. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ PHẠM
THANH HẰNG, người đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đồng thời tôi xin cảm ơn các Ban ngành của huyện Điện Biên, tỉnh Điện
Biên đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình làm luận văn tại địa phương.
Tác giả luận văn

Đinh Đức Cường

ii



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ TÔN GIÁO
Ở HUYỆN ĐIỆN BIỆN, TỈNH ĐIỆN BIÊN .............................................. 11
1.1. Một số vấn đề lý luận về công tác quản lý Nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ................................................................................... 11
1.2. Tôn giáo ở huyện Điện Biên ............................................................ 20
Chương 2: CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN –
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...................................... 34
2.1. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở huyện Điện Biên........................................................................... 34
2.2. Bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra .................................. 53
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN,
TỈNH ĐIỆN BIÊN ......................................................................................... 61
3.1. Phương hướng .................................................................................. 61
3.2. Giải pháp .......................................................................................... 66
3.3. Kiến nghị .......................................................................................... 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80

iii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QLNN: Quản lý nhà nước

UBND: Ủy ban nhân dân

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tình hình đạo Tin Lành qua các năm ..................................... 26
Bảng 1.2. Tình hình Công giáo qua các năm .......................................... 27

v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã
hội, ra đời và phát triển từ hàng nghìn năm nay. Từ khi ra đời, tôn giáo đã trải qua
những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội,
nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân loại. Trong quá
trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có sức ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các tộc người trong một
quốc gia, theo cả hai chiều kích tích cực và tiêu cực.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh các tôn giáo lớn có tổ chức
với số lượng tín đồ đông đảo còn có các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian truyền thống.
Tôn giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, các hoạt
động của tôn giáo được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, số người theo tôn giáo
ngày càng tăng. Nhưng bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành
mạnh, tuân thủ pháp luật thì vẫn còn có hiện tượng một số người lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, thậm chí là phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Trước tình hình đó, công tác QLNN đối với
hoạt động tôn giáo càng cần phải được tăng cường, không chỉ trên tầm vĩ mô mà

còn ở các địa phương trong cả nước.
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng và
có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công tác tôn giáo trong tình hình mới. Các
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trò của
công tác này.
Điện Biên là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là một tỉnh Tây Bắc cách Hà
Nội 504km về phía Tây. Điện Biên là tỉnh duy nhất có chung đường biên giới với 2
quốc gia Lào và Trung Quốc dài hơn 400km, với 33 dân tộc sinh sống. Người theo
tôn giáo chủ yếu là Phật giáo, Công giáo và Tin Lành. Huyện Điện Biên nằm ở phía
Tây Nam tỉnh Điện Biên, phía Bắc giáp huyện Mường Lay, phía Tây và Nam giáp
Lào, phía Đông giáp huyện Điện Biên Đông, có cửa khẩu Tây Trang ngăn cách với

1


Lào, phân chia hành chính 25 xã. Đây là một trong những huyện lớn có vai trò quan
trọng của tỉnh Điện Biên.
Trong những năm qua, tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh Điện
Biên nói chung và huyện Điện Biên nói riêng tương đối ổn định, sinh hoạt tôn giáo
và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra đúng với chủ trương, chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước. Đại bộ phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo
trong tỉnh an tâm, phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.Về thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội; huyện Điện Biên đã tích cực tham gia phát triển kinh
tế - xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên,
trên địa bàn huyện Điện Biên vẫn nổi lên các vấn đề liên quan đến tôn giáo theo
hướng tiêu cực như lợi dụng tôn giáo nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc,....
Huyện Điện Biên cũng có lượng người dân tộc theo tôn giáo và công tác QLNN đối
với tôn giáo còn nhiều vấn đề đáng lưu tâm, Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình
chung của tỉnh Điện Biên đã xảy ra một số vụ việc bất ổn liên quan trực tiếp đến
vấn đề tôn giáo như vấn đề Tin Lành trong người Mông, sự vụ Mường Nhé, …. Dó

đó, vấn đề quản lý tôn giáo đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ quan
trọng của tỉnh Điện Biên nói chung và huyện Điện Biên nói riêng. Để làm tốt công
tác này đòi hỏi chúng ta phải đi từ cơ sở, từ gốc rễ. Nghiên cứu một huyện lớn như
huyện Điện Biên đóng vai trò làm hình mẫu quan trọng cho các địa bàn khác trên
toàn tỉnh từ đó tạo thành một lối quản lý hiệu lực, hiệu quả, tạo điều kiện cho các
mặt an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội –ổn định và phát triển trong khi vẫn
đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng chính đáng của
người dân.
Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn đề tài: “Tôn giáo và công tác quản lý Nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên hiện nay” để
làm luận văn Thạc sỹ Tôn giáo học.
2. Tình hình nghiên cứu
Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn có thể
được phân chia theo một số hướng cơ bản như sau:

2


Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu về công tác QLNN đối với hoạt động
tôn giáo.
Nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam nói riêng từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả. Ở nước ta, đã
có nhiều công trình nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo ở nhiều góc độ khác nhau.
Riêng về vấn đề QLNN đối với hoạt động tôn giáo, trong thời gian qua cũngđã có
khá nhiều công trình nghiên cứu.
“Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà
nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển
năm 2001 tập trung làm rõ quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo, nêu nên tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, đồng thời chỉ ra
quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về tôn giáo và công tác tôn giáo, những

nguyên tắc trong quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
“Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận – thực tiễn” của GS.TS
Đỗ Quang Hưng năm 2008. Đây là công trình nghiên cứu có tính tổng hợp và toàn
diện về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn
giáo trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng, từng bước hoàn thiện chính sách tôn
giáo ở Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu tham khảo rất cần thiết phục vụ cho các nhà
nghiên cứu và quản lý về công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay.
“Mác-Ăngghen bàn về tôn giáo” của PGS. TS Nguyễn Đức Sự chủ biên (bổ
sung năm xuất bản). Tác giả nhận định, về phương diện tôn giáo, một hình thái ý
thức tư tưởng đặc biệt, một tồn tại xã hội đa dạng, phong phú và phức tạp vốn là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như triết học, xã hội học, tôn giáo
học,… Trong cuộc đời sự nghiệp của Mác, Ăngghen không có nhiều điều kiện
nghiên cứu về tôn giáo nhưng trong một số tác phẩm của mình có những luận đề
các ông đã đề cập đến vấn đề tôn giáo đến nay vẫn được coi là những quan điểm có
tính cơ bản về phương pháp luận trong lĩnh vực nghiên cứu, nhìn nhận các hiện
tượng tôn giáo. Có thể kể đến là luận điểm về bản chất và nguồn gốc của tôn giáo,
tiến trình phát triển tôn giáo, lịch sử, vai trò xã hội của tôn giáo cũng như vấn đề

3


con người, các thể chế xã hội với tôn giáo,… luôn có tính thời sự và sống động
trong thực tiễn của nhân loại. Tác giả khẳng định đây là những vấn đề có tính vận
dụng trong thực tiễn, là ngọn đèn pha để từ đó đóng góp nhiều mặt trong đó có công
tác quản lý tôn giáo.
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam” của GS. Đặng
Nghiêm Vạn (bổ sung năm xuất bản). Ngoài việc nhắc đến và làm rõ những vấn đề
đã bàn trong cuộc trao đổi năm 1997 về vấn đề tôn giáo của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, cuốn sách còn từ góc độ kinh tế thử lý giải một số hiện
tượng tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam; làm rõ hơn về sự tôn thờ của người Công

giáo Việt Nam, về Phật pháp; bàn về tôn giáo và mê tín. Đối với công tác quản lý
tôn giáo mà nói đây là những vấn đề đáng quan tâm, làm rõ để có phương hướng
thực hiện một cách trọng điểm, chú tâm.
“Giáo trình quản lý xã hội về tôn giáo” của PGS, TS Hoàng Quốc Bảo chủ
biên- năm 2016. Giáo trình đã làm rõ đối tượng quản lý và phương pháp nghiên cứu
quản lý xã hội về tôn giáo đồng thời phân tích cách nhìn nhận của chủ nghĩa Mác –
Lênin đối với vấn đề quản lý tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng Sản Việt Nam về quản lý tôn giáo. Giáo trình cũng đi sâu tìm hiểu một
số tôn giáo ở Việt Nam từ đó nêu ra nguyên tắc, phương pháp,…đối với các hoạt
động tôn giáo ở Việt Nam.
“Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” của PGS, TS Nguyễn Thanh
Xuân chủ biên năm 2015. Cuốn sách mang đến với người đọc bức tranh khái quát
về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Đồng thời cuốn sách nói đến các
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ.
“Quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay” của PGS, TS Nguyễn Hồng Dương, Nxb Chính trị quốc gia –
sự thật, Hà Nội, 2012. Cuốn sách nêu ra và phân tích những quan điểm, đường lối
của Đảng về tôn giáo; phác họa nên bức tranh tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; đồng
thời phân tích kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam từ cái nhìn đối
sách với một số nước: Trung Quốc, Thái Lan, Xinhgapo; trên cơ sở đó, tác giả phân

4


tích những vấn đề đặt ra và đề xuất một số khuyến nghị đối với công tác tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay.
“Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền” của GS Đỗ Quang Hưng,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2014. Điểm nổi bật của công trình không chỉ quan
tâm đến mối quan hệ Nhà nước với Giáo hội mà còn đi sâu vào khía cạnh nhà nước
pháp quyền và tôn giáo. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về luật pháp

tôn giáo ở Việt Nam hiện nay từ pháp lý đến quyền pháp nhân, thể nhân tôn giáo.
Đó là những cơ sở để xác định hai nhóm giải pháp lớn về lý luận chính sách tôn
giáo và các chính sách tôn giáo cụ thể, bao quát từ việc hoàn thiện mô hình nhà
nước thế tục và luật pháp tôn giáo, điều chỉnh mô hình và thay đổi phương thức
QLNN đối với tôn giáo.
“Quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về tôn giáo và
Công giáo – những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” của PGS,TS
Hoàng Minh Đô và PGS, TS Đỗ Lan Hiền, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2015 đã
khái quát một số nội dung cơ bản: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin về tôn
giáo và Công giáo; Quan điểm của Đảng chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn
giáo và Công giáo; Thực trạng việc thực hiện chính sách pháp luật về tôn giáo và
Công giáo ở Việt Nam; Kinh nghiệm của một số nước: Pháp, Hoa Kỳ, Liên xô
(trước đây), Trung Quốc trong việc thực hiện chính sách đối với Công giáo và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.
“Công tác tôn giáo từ quan điểm Mác – Lênin đến thực tiễn Việt Nam” của
PGS, TS Ngô Hữu Thảo, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, năm 2012 đã phân
tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin về công tác tôn giáo như: nhận thức về
công tác tôn giáo của hệ thống chính trị, nguồn gốc tôn giáo, vai trò tôn giáo và
những yêu cầu đối với người cộng sản về phương pháp nhìn nhận đúng đắn đối với
tôn giáo.
Luận án tiến sĩ “Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đế n
nay” của Bùi Hữu Dược năm 2014. Luận án nêu nên cơ sở lý luận và thực tiễn của
quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam. Đáng giá, phân tích về quá trình, kết quả

5


quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ 1975 đến nay, từ đó đưa ra khuyến
nghị, dự báo xu hướng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam
trong thời gian tới.

Luận văn tốt nghiệp đại học chính trị “Công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay” của Nguyễn Tiến Dũng năm
2012. Luận văn khái quát một số vấn đề chung về QLNN đối với hoạt động tôn
giáo, phân tích tình hình tôn giáo ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay và các hoạt động liên
quan đến tôn giáo, từ đó đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra, kiến nghị và
nêu ra một số giải pháp của công tác quản nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh
Thái Nguyên.
Luận văn thạc sĩ triết học “Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay” của Đinh Ngọc Tú năm 2013. Luận văn
đã đánh giá thực trạng tôn giáo và công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo Hà
Đông, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhắm nâng cao hiệu quả QLNN
đối với hoạt động tôn giáo địa bàn quận.
Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị - hành chính “Giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự đối với hoạt động của đạo Công
giáo trong tình hình hiện nay ở tỉnh Hà Nam” của Lê Thị Cúc năm 2012. Luận văn
trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống về lý luận cũng như thực trạng công tác
QLNN về an ninh trật tự đối với hoạt động của đạo Công giáo ở tỉnh Hà Nam, đề tài
đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả QLNN về lĩnh vực này tại địa
phương.
Luận văn thạc sĩ tôn giáo học “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo
Tin lành trên địa bàn tỉnh Bình phước hiện nay” của Phạm Thị Hằng 2015. Luận
văn trên cơ sở nghiên cứu thực trạng QLNN đối với đạo Tin lành ở tỉnh Bình
phước, luận văn đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
QLNN đối với đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh.
Luận văn tốt nghiệp đại học chính trị “Quản lý nhà nước đối với đạo Công
giáo tại địa bàn tỉnh Nghệ An – thực trạng và giải pháp” của Trần Hải Hà năm

6



2009. Luận văn nêu khái quát về đặc điểm tỉnh Nghệ An, làm rõ thực trạng hoạt
động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh, từ đó đề ra phương hướng, giải pháp và
một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng
của Việt Nam: 25 năm nhìn lại” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội năm 2016. Công trình gồm các bài nghiên cứu về cơ sở và
thực tiễn của đường lối, quan điểm đổi mới về tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng Cộng
sảnViệt Nam từ năm 1990 đến nay; đánh giá hiệu quả của chính sách tôn giáo, tín
ngưỡng trong thời kỳ đổi mới đối với đời sống xã hội nói chung và đời sống tôn
giáo ở Việt Nam nói riêng; cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng và tôn giáo trong thời gian tới.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam trong bối cảnh
mới” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
năm 2018. Công trình gồm các bài nghiên cứu tập trung phân tích những xu hướng
và động thái mới trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng trên thế giới hiện nay dưới tác
động mạnh mẽ của hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó
nêu bật sự tác động của những xu hướng và động thái mới trong đời sống tôn giáo,
tín ngưỡng trên thế giới, sự hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư
nói riêng đến đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay; và đưa ra những
khuyến nghị, giải pháp có tính khả thi cho việc tiếp tục hoàn thiện chính sách và
pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng cũng như nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo của
Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về tôn giáo ở tỉnh Điện Biên.
Luận án tiến sĩ “Vấn đề đạo Tin Lành trong đồng bào dân tộc Hmông và Dao
ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam” củaNguyễn Khắc Đức năm 2011 nghiên
cứu sự xâm nhập, phát triển của đạo Tin Lành tỏng dân tộc Hmông và Dao ở các
tỉnh miền núi phía Bắc (trong đó có Điện Biên), từ đó đề xuất kiến nghị nhằm đưa

7



đạo Tin Lành hoạt động theo hướng ổn định, tuân thủ pháp luật, đảm bảo tính hiệu
lực của chính sách đối với tôn giáo này trên địa bàn nghiên cứu.
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 11&12 “Tôn giáo và đời sống gia đình, bản
làng của người Mông” của PGS, TS Nguyễn Quang Hưng năm 2016 nghiên cứu tôn
giáo trong đời sống tinh thần của người Mông, từ đó nhấn mạnh tôn giáo là hạt
nhân của văn hóa.
Bài viết tạp chí của Lê Bá Trình đăng ngày 01 tháng 11 năm 2018 trên
website: tapchimattran.vn về “Sinh hoạt tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số các tỉnh miền núi phía bắc hiện nay”. Trong bài viết, tác giả nghiên cứu tình hình
tôn giáo ở đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía bắc trong đó có tỉnh Điện Biên
(chủ yếu tình hình Phật giáo, Công giáo, Tin lành) chỉ ra những tác động của các
tôn giáo để tìm giải pháp vừa phát huy các giá trị dân tộc, ngăn chặn và đấu tranh có
hiệu quả với các âm mưu, hành động lợi dụng những vấn đề tôn giáo, dân tộc để
chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bài viết của Lê Vui trên website của giáo xứ Sa Pa về “ Tình hình tôn giáo ở
Tây Bắc thực trạng và giải pháp” ngày 06 tháng 06 năm 2019. Bài viết nói về tình
hình tôn giáo ở các tỉnh Tây Bắc (Lào Cai, Điện Biên,…) từ đó đưa ra các biện
pháp, những việc cần hành động để ổn định tôn giáo, đấu tranh chống lợi dụng tôn
giáo chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chống phá Đảng và nhà nước.
Bài viết của Nguyễn Trường Giang trên trang baodienbienphu.info.vn “Nâng
cao hiệu quả công tác tôn giáo trong tình hình mới” ngày 03/08/2017 đã thống kê sơ
bộ số lượng người theo tôn giáo tại tỉnh Điện Biên. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra
những việc Cấp ủy, chính quyền đã làm được nhằm nâng cao công tác quản lý tôn
giáo trên địa bàn tỉnh. Từ đó chỉ ra những khó khăn trong công tác quản lý và đưa ra
những giải pháp để công tác quản lý tôn giáo đạt hiệu quả hơn.
Tổng quan có thể thấy các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều
khía cạnh khác nhau, về cả phương pháp luận và cơ sở lý luận cũng như thực tiễn
của vấn đề quản lý nhà nước đối với công tác tôn giáo. Các công tình đã đặt tôn

giáo vào thực tiễn của từng địa phương để nêu lên những thực trạng của vấn đề

8


quản lý nhà nước đối với tôn giáo và từ đó đề ra các giải pháp để giải quyết các khó
khăn trong quản lý tôn giáo. Các công trình này sẽ là nguồn tài liệu để tham khảo và
học tập cho luận văn này. Trên địa bàn Điện Biên, vì nhiều lý do khác nhau nên
hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo vẫn
chưa có nghiên cứu cụ thể. Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy vọng sẽ làm
sáng tỏ hơn về vấn đề QLNN đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Điện
Biên, tỉnh Điện Biên hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu về tình hình, đặc điểm tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh
Điện Biên; phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong công tác QLNN đối
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Điện Biên, từ đó đề xuất một số giải pháp
và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo
trên địa bàn huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề chung về công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo
và tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
- Đánh giá thực trạng, rút ra bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra trong
công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu là tôn giáo và công tác QLNN đối với hoạt động tôn
giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
* Phạm vi nghiên cứu:

Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu tôn giáo và công tác QLNN đối
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu từ năm 2008 đến nay.

9


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc tôn giáo; đồng thời xuất phát từ thực tiễn tình
hình QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Điện Biên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã
sử dụng các phương pháp chuyên ngành như tổng hợp và phân tích, khái quát hoá,
thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, …. Các phương pháp nghiên cứu này
đều nhằm hướng tới phân tích thực trạng của hoạt động quản lý tôn giáo ở huyện
Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về QLNN đối với hoạt
động tôn giáo; đưa ra khái quát mang tính lý luận từ thực tiễn công tác QLNN đối
với hoạt động tôn giáo ở Điện Biên
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo nhằm định hướng xây
dựng chủ trương, biện pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở
huyện Điện Biên và các huyện trong và ngoài tỉnh Điện Biên - có tình hình tôn giáo
tương tự với huyện Điện Biên.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIỆN,
TỈNH ĐIỆN BIÊN
1.1. Một số vấn đề lý luận về công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo
1.1.1. Khái niệm “công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo”
Công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo là một vấn đề quan trọng luôn
được ưu tiên trong hoạt động quản lý của nhà nước. Để hiểu rõ hơn về QLNN đối
với hoạt động tôn giáo, trước hết ta cần hiểu về các khái niệm.
 “Quản lý”: Nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về quản lý
dựa theo mục tiêu và góc độ nghiên cứu, tuy nhiên hiểu một cách đơn giản, quản lý
là sự tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý thông qua các công cụ
nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
 “Quản lý nhà nước" là một dạng của quản lý xã hội đặc biệt, mang tính
quyền lực của nhà nước để điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ
nhân dân, duy trì ổn định và phát triển của xã hội. Theo nghĩa rộng, QLNN gồm 3
chức năng cơ bản là Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp do các cơ quan Nhà nước
được phân công thực hiện. Theo nghĩa hẹp, QLNN là dạng quản lý xã hội mang
quyền lực Nhà nước để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo
quy định của pháp luật.
 “Tôn giáo” là một thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước
ngoài vào từ cuối thế kỷ XIX. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Tất cả mọi tôn giáo

chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người, của những lực lượng
bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu nhiên trần thế” (tác
phẩm "Chống Đuyrinh") [2, Tr.437]. Trong tác phẩm của mình, C.Mac đã khẳng

11


định “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”
[3, Tr.569]. Qua đó có thể thấy, tôn giáo là sản phẩm của con người nên tôn giáo là
một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản ánh tồn tại xã hội đã sản sinh ra nó. Tôn
giáo là sản phẩm của một xã hội con người, do đó tôn giáo là một hiện tượng xã hội.
Xét bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội vừa thể hiện sự phản kháng trước
những đau khổ, bất hạnh của con người, vừa biểu thị sự bất lực của con người trước
sức mạnh của tự nhiên và xã hội.
Khoản 5, Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14), đã đưa ra
định nghĩa về tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống
quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ
chức.” Như vậy, khi nói đến một tôn giáo hoàn chỉnh bao gồm: tôn giáo là đại diện
cho một cộng đồng người có chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí; có hệ
thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi; có tổ chức hoạt động từ Giáo hội xuống cơ sở khá
chặt chẽ.
 “Hoạt động tôn giáo” theo Khoản 11 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số
02/2016/QH14: “Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn
giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo”. Truyền bá tôn giáo (còn gọi là truyền đạo) là
việc tuyên truyền những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của tôn giáo. Sinh hoạt tôn giáo
(còn gọi là hành đạo) là việc bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý giáo luật, lễ
nghi tôn giáo. Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo (còn gọi là quản đạo) nhằm thực
hiện quy định của giáo luật, hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy
trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.

 “Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo”: Từ các khái
niệm trên, khái niệm về công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo cũng được hiểu
theo hai nghĩa. Nghĩa rộng: là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền Lập pháp,
Hành pháp, Tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật để tác
động, điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ
chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của
chủ thể quản lý. Nghĩa hẹp: là một dạng quản lý xã hội mang tính chất nhà nước; là

12


chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước; là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh các quá
trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn
ra theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, đó là sự quản lý của nhà nước đối
với hoạt động của các tín đồ, chức sắc trong việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo
luật, lễ nghi tôn giáo; quản lý nơi thờ tự, đồ dùng việc đạo, cơ sở vật chất xã hội của
các tôn giáo.
1.1.2. Khách thể và chủ thể của công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là quá trình tác động, điều
hành, điều chỉnh của các cơ quan hành pháp để các hoạt động tôn giáo diễn ra theo
đúng quy định của pháp luật. Có thể thấy, QLNN đối với hoạt động tôn giáo bao
gồm các yếu tố: đối tượng quản lý (khách thể quản lý), chủ thể quản lý.
Trước hết, đối tượng (khách thể) của QLNN đối với hoạt động tôn giáo bao
gồm các tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc và các cơ sở vật chất phục
vụ hoạt động tôn giáo như cơ sở tôn giáo, cơ sở vật chất khác và các đồ dùng phục
vụ hoạt động tôn giáo.
Tổ chức tôn giáo, tại Khoản 12 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số
02/2016/QH14: “Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu

hành của một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước
công nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo”. Tổ chức tôn giáo thường bao
gồm cơ cấu tổ chức (cơ quan quyền lực – giáo quyền) từ trung ương đến cơ sở, hệ
thống nơi thờ tự, tu viện, các trường đào tạo chức sắc, cùng với hội đoàn tôn giáo và
nguồn tài chính duy trì các hoạt động tôn giáo,…Việt Nam có nhiều tổ chức tôn
giáo khác nhau. Mỗi tôn giáo đều có hệ thống tổ chức bộ máy khác nhau. Hệ thống
tổ chức, bộ máy của tổ chức tôn giáo được quy định trong hiến chương, điều lệ, các
quy định của tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận.
Tín đồ tôn giáo, tại Khoản 6 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số
02/2016/QH14: “Tín đồ người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa

13


nhận”. Khi tham gia hoạt động tôn giáo, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành
các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ
hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo. Đồng thời, tín đồ
có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không
cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
theo đúng quy định của pháp luật.
Nhà tu hành, tại Khoản 7 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số
02/2016/QH14: “Nhà tu hành là tín đồ xuất gia, thường xuyên thực hiện nếp sống
riêng theo giáo lý, giáo luật, nghi lễ và tổ chức”.
Chức sắc, tại Khoản 8 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14:
“Chức sắc là tín đồ được tổ chức tôn giáo phong phẩm hoặc suy cử để giữ phẩm vị
trong tổ chức”. Các chức sắc tôn giáo có sự thống nhất ba mặt: công dân, hành đạo
và đại diện. Về mặt công dân, là người chuyên việc đạo, bình đẳng trước pháp luật
về nghĩa vụ và quyền lợi như các công dân khác. Mặt hành đạo, được Giáo hội đào
tạo, tấn phong, bổ nhiệm giữ các phẩm trật khác nhau trong chức vị thánh và chức

vị phẩm quyền (tùy theo từng tôn giáo). Chức sắc tôn giáo có uy quyền khác nhau
tùy theo phẩm trật, năng lực hành đạo. Mặt đại diện, ở những mức độ khác nhau
cho tổ chức giáo hội trong mối quan hệ đối nội và trong quan hệ đạo – xã hội. Ba
mặt nói trên thống nhất trong con người chức sắc tôn giáo nhưng không đồng nhất;
mặt công dân là số một, các mặt khác là số hai, đặc biệt là mặt hành đạo. Ở Việt
Nam, quyền và nghĩa vụ của chức sắc tôn giáo được quy định trong Luật tín
ngưỡng, tôn giáo mới nhất. Trong quan hệ với tín đồ họ là những người nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng và có uy tín trong tín đồ tôn giáo. Trong quan hệ với Nhà nước
và các tổ chức khác đặc biệt là tổ chức tôn giáo nước ngoài, họ là người đại diện
cho tổ chức tôn giáo để giải quyết các công việc có liên quan đến tôn giáo.
“Cơ sở tôn giáo” tại Khoản 14 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số
02/2016/QH14 gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh nhất, thánh đường, trụ sở của
tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo. Cơ sở tôn giáo có sự

14


thống nhất giữa bốn mặt: vật chất, tôn nghiêm, trụ sở và sinh hoạt cộng đồng. Mặt
vật chất, đó là những địa điểm được xây dựng bằng vật liệu khác nhau, theo những
mô hình kiến trúc khác nhau, thể hiện niềm tin của từng tôn giáo. Mặt tôn nghiêm,
là nơi bái vọng, ngưỡng mộ, biểu hiện tình cảm và đức tin tôn giáo, nơi diễn ra
những nghi lễ tôn giáo quan trọng. Mặt trụ sở, là nơi diễn ra hoạt động hành chính
của đạo. Mặt sinh hoạt cộng đồng, là nơi diễn ra các lễ hội tôn giáo, nơi sinh hoạt
các hội đoàn tôn giáo…Trong các mặt trên, tôn nghiêm là mặt chi phối.
Cơ sở vật chất khác như khuôn viên (tạo nên cảnh quan kiến trúc văn hoá
môi trường), ruộng, đất, nhà chung, trường học, cơ sở từ thiện,... những cơ sở vật
chất kỹ thuật này có hai mặt cơ bản. Một mặt là tài sản của giáo hội, là nơi diễn ra
các hoạt động của tổ chức tôn giáo, của giáo hội cơ sở... Một mặt được Nhà nước
bảo hộ bằng cách cấp các văn bản mang giá trị pháp lý, được giáo hội giao trách
nhiệm quản lý hay giao quyền sử dụng các cơ sở thuộc quyền sở hữu của giáo hội.

Đồ dùng việc đạo bao gồm: kinh, sách, tượng, bài vị, tranh ảnh, cờ trống,…;
trong đó mỗi đồ dùng có vai trò, vị trí khác nhau tùy theo lễ nghi của từng tôn giáo.
Đồ dùng việc đạo có chung một đặc điểm là sự thống nhất và đồng nhất giữa tính
vật chất và tính biểu đạt. Mặt vật chất, các đồ dùng được tạo nên bởi các chất liệu
khác nhau dưới dạng vật chất cụ thể. Mặt biểu đạt, mỗi đồ dùng biểu đạt một nội
dung nào đó và cái được biểu đạt chỉ được hiện hữu khi đồ dùng được sử dụng vào
một nội hoạt động tôn giáo cụ thể theo một lễ nghi nào đó. Trong các đồ dùng việc
đạo thì kinh sách, tượng, bài vị là quan trọng nhất.
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được thực hiện bởi cơ quan
QLNN các cấp (chủ thể quản lý) nhằm huy động sức mạnh của cộng đồng tín
ngưỡng, tôn giáo để đạt mục đích của chủ thể cầm quyền đặt ra.
Trong đó Chính phủ thống nhất QLNN về hoạt động tôn giáo, toàn quyền
quyết định các vấn đề có liên quan trên phạm vi cả nước. Chính phủ sử dụng quyền
hành pháp để thi hành pháp luật và chấp hành các Nghị quyết của Quốc hội, đồng
thời chủ động tham gia vào quá trình lập pháp về các vấn đề có liên quan đến tôn
giáo; sử dụng quyền lập quy để ra các văn bản dưới luật nhằm thực hiện và thống

15


nhất QLNN về các hoạt động tôn giáo. Các cơ quan thuộc Chính phủ, Ban Tôn giáo
Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ có chức năng chính là QLNN về hoạt động tôn giáo
trong phạm vi cả nước, là đầu mối phối hợp với các ngành về công tác tôn giáo và
liên hệ với các tổ chức tôn giáo.
Ban Tôn giáo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan chuyên môn
thuộc Sở Nội Vụ - UBND, chịu trách nhiệm trước UBND thực hiện chức năng
QLNN về các hoạt động tôn giáo theo pháp luật của Nhà nước trong phạm vi địa
phương. Ban Tôn giáo chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động
của Sở Nội vụ; đồng thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban
Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ.

Phòng Tôn giáo hoặc phòng có chức năng quản lý công tác tôn giáo là cơ
quan chuyên môn, tham mưu, giúp UBND huyện QLNN về lĩnh vực công tác tôn
giáo trên địa bàn huyện, thành phố. Phòng Tôn giáo hoặc phòng có chức năng quản
lý công tác tôn giáo chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của
Uỷ ban nhân dân huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn
nghiệp vụ của Ban Tôn giáo tỉnh hoặc Sở có chức năng quản lý công tác tôn giáo.
Ở cấp độ của một luận văn Thạc sỹ, luận văn xin tập trung nghiên cứu
QLNN đối với hoạt động tôn giáo của cơ quan quản lý tôn giáo cấp huyện; cụ thể là
Phòng tôn giáo huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
1.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo
 Mục tiêu QLNN về hoạt động tôn giáo
Thứ nhất, QLNN đối với hoạt động tôn giáo trước hết phải bảo đảm được
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo
được diễn ra bình thường theo đúng quy định của pháp luật Nhà nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền tự do tín ngưỡng là một trong những quyền cơ bản
của con người. Tại Điều 24, Chương II, Hiến pháp 2013 quy định: "1. Mọi người có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn
giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín

16


ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật".
Thứ hai, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những mặt
tích cực của tôn giáo như tính hướng thiện, từ bi; khắc phục được những hạn chế,
tiêu cực của tôn giáo đối với sự phát triển của xã hội. Nhà nước tạo điều kiện cho tổ
chức, cá nhân tôn giáo tham gia cùng Nhà nước giải quyết những vấn đề của xã hội.
Tuy nhiên, trong QLNN về hoạt động tôn giáo, cần phân biệt rõ giữa hoạt động tôn

giáo thuần tuý với hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo chống lại chế độ xã hội chủ
nghĩa để đề ra những biện pháp quản lý phù hợp.
Thứ ba, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải thực hiện được mục tiêu
đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn
giáo, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu, đoàn kết dân tộc, đoàn kết đồng bào có tôn giáo
và không có tôn giáo luôn là ưu tiên hàng đầu của Đảng.
Thứ tư, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải đảm bảo tăng cường vai trò
của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo, góp phần phát triển văn
hóa, xã hội. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội, được nhà
nước quản lý. Mọi hoạt động tôn giáo đều phải tuân thủ theo quy định của Nhà
nước; các hành vi khiến tổ chức tôn giáo chống lại sự quản lý của nhà nước là bất
hợp pháp và bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
 Nguyên tắc cơ bản trong QLNN đối với hoạt động tôn giáo
QLNN đối với hoạt động tôn giáo nhằm bảo đảm cho hoạt động tôn giáo
diễn ra bình thường trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, vì lợi ích chung,
trong đó có cả lợi ích của đồng bào có đạo và lợi ích của các Giáo hội.
QLNN về hoạt động tôn giáo có một số nguyên tắc chính sau:
Một là, đảm bảo cho mọi công dân được bình đẳng trước Hiến pháp và pháp
luật. Đây là nguyên tắc thể chế dân chủ trong hoạt động của Nhà nước ta: Nhà nước
đảm bảo quyền tự do tôn giáo hay không tôn giáo của công dân và công dân (dù là
tín đồ tôn giáo hay không phải là tín đồ tôn giáo) bình đẳng trước pháp luật, được

17


hưởng quyền lợi và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân. Từ cơ sở này, tín
đồ được tự do hành đạo trên cơ sở thực hiện nghĩa vụ công dân.
Hai là, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Công dân có quyền theo hoặc không theo bất kì một tôn giáo nào. Tôn giáo là một

nhu cầu tinh thần của con người, không ai có quyền áp đặt hoặc tước bỏ nhu cầu đó.
Tuy nhiên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn phải được đặt trong khuôn khổ của
luật pháp, của sự quản lý của nhà nước nhằm đảm bảo không có bất kỳ cá nhân
hoặc tổ chức nào lợi dụng quyền này để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất
nước, kích động bạo lực, chia rẽ dân tộc, gây rối trật tự công cộng…
Ba là, nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá trị
văn hoá. Niềm tin tôn giáo được thể hiện thông qua sinh hoạt vật chất của con
người: lễ nghi, trang phục…; được thể hiện thông qua các công trình kiến trúc, kinh
sách…, đồng thời đó cũng là sản phẩm của văn hóa. Trải qua quá trình phát triển,
các giá trị này dần kết hợp, hòa quyện với các truyền thống dân tộc. Sự tồn tại của
tôn giáo là động lực cho sự phát triển và bảo tồn các giá trị văn hóa. Tuy nhiên, bên
cạnh những giá trị văn hoá đích thực vẫn còn những hiện tượng phản văn hoá trong
các tôn giáo, những hủ tục, mê tín dị đoan… Công tác quản lý của nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo phải vừa giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa loại bỏ những hiện
tượng phản văn hoá trong sinh hoạt tôn giáo.
Bốn là, đảm bảo sự thống nhất, hài hoà lợi ích cá nhân, cộng đồng và lợi ích
quốc gia, xã hội. Đối với tín đồ các tôn giáo, nhu cầu tôn giáo của họ được nhà
nước coi trọng và tạo mọi điều kiện để họ thực hiện những hành vi tôn giáo của
mình. Tuy nhiên,m đứng trước nhiều nhu cầu khác đòi hỏi tín đồ phải giải quyết hài
hoà, thoả đáng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung của xã hội.
Năm là, những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín
đồ phải được đảm bảo. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và của nhân
dân được khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân,

18



×