Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng tôn giáo ở Hà Tây trong tình hình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.99 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***




THÂN THỊ GIANG



TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
Ở HÀ TÂY TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85


Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGÔ NGỌC THẮNG











HÀ NỘI - 2008

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***





THÂN THỊ GIANG




TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
Ở HÀ TÂY TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC










HÀ NỘI – 2008

2


MỤC LỤC
Mở đầu 2
Chƣơng 1. Một số vấn đề chung về tín ngƣỡng, tôn giáo và công tác quản
lý nhà nƣớc đối với hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo 6
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo 6
1.1.1. Khái niệm về niềm tin, tín ngưỡng và dân gian 6
1.1.2. Bản chất nguồn gốc và tính chất của tôn giáo 11
1.1.3. Đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam 16
1.2. Nguyên nhân tồn tại và nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 23
1.2.1. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội 23
1.2.2. Những nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội 26
1.3. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tín ngưỡng, tôn giáo và một
số vấn đề nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với tín

ngưỡng, tôn giáo 31
1.3.1. Quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta về tín ngưỡng, tôn giáo 32
1.3.2. Chính sách của Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo trong quá trình
đổi mới 38
Chƣơng 2. Thực trạng hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo và công tác quản
lý nhà nƣớc đối với hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo ở tỉnh Hà Tây 44
2.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tình hình kinh tế xã hội tỉnh Hà Tây 44
2.2. Quá trình hình thành, du nhập và phát triển chung của các tín ngưỡng, tôn
giáo ở Hà Tây 45
2.2.1. Các tín ngưỡng dân gian 46
2.2.2. Quá trình hình thành, du nhập, tồn tại và phát triển của các tôn giáo 48
2.3. Thực trạng hoạt động của các tôn giáo ở Hà Tây 51
2.3.1. Thực trạng hoạt động của các tôn giáo có tư cách pháp nhân 52
2.3.2. Hoạt động của tôn giáo chưa được công nhận 58

3
2.4. Công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo trên địa bàn
tỉnh Hà Tây trong tình hình hiện nay 59
2.4.1. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo đã được
công nhận 59
2.4.2. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tôn giáo chưa
được công nhận 64
2.5. Một số vấn đề đang đặt ra hiện nay trong công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Hà Tây 65
Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp nhằm tăng cƣờng công tác
quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo trên địa
bàn tỉnh Hà Tây trong giai đoạn hiện nay 68
3.1. Phương hướng 68
3.1.1. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, tổng kết việc thực
hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo góp phần

cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ
trương chính sách trước mắt và lâu dài đối với tín ngưỡng, tôn giáo 68
3.1.2. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác tôn giáo 70
3.1.3. Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực tôn giáo 70
3.1.4. Tăng cường vai trò của Mặt trận các cấp trong công tác vận động tín
đồ, chức sắc tôn giáo 71
3.1.5. Kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo các cấp 71
3.1.6. Nâng cao chất lượng dội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo 71
3.2. Một số giải pháp tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo ở Hà Tây trong tình hình hiện nay 72
3.2.1. Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của
hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo 72
3.2.2. Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính
trị ở cơ sở 73
3.2.3. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo 73
Kết luận 75
Danh mục tài liệu tham khảo 77
Phụ lục 82

4


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đê tài
Sự thật lịch sử ngày càng chứng minh tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện
tượng xã hội có sức sống lâu bền trong đời sống tinh thần của con người. Cho
đến nay, dù ở quốc gia có chế độ chính trị như thế nào thì tôn giáo vẫn tồn tại
như một hiện tượng xã hội khách quan. Tuy nhiên, thái độ đối với tôn giáo ở mỗi
thời kỳ lịch sử, mỗi quốc gia, mỗi giai cấp và từng con người không như nhau.

Việc nhận thức, thái độ, chính sách và cách giải quyết vấn đề tôn giáo
tốt xấu, đúng sai có ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định chính trị - xã hội
của mỗi nước.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác
nhau và có chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước.
Công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay chỉ có
thể thành công trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, đồng thời phải xuất
phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước và gắn với đặc điểm của thời đại hiện nay.
Tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, trước hết đòi hỏi Đảng phải đổi
mới tư duy, nhìn nhận và đánh giá đúng những vấn đề lý luận và thực tiễn,
trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo đang và sẽ có nhiều biểu hiện mới, đa
dạng, phức tạp, cần giải quyết đúng đắn.
Ở nước ta hiện nay, quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo không có mục tiêu nào khác là, trên cơ sở thoả mãn những nhu cầu
tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh của quần chúng, chống địch lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để đi ngược lại lợi ích căn bản của nhân dân, làm cho việc
tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện và được đảm bảo bởi pháp luật.
Việc quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo góp phần tích

5
cực vào tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân - dù có đạo hay không có đạo -
dưới sự lãnh đạo của Đảng để đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta tới
thắng lợi hoàn toàn. Nói cách khác, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết
giữa đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo với đồng bào không có tín ngưỡng, tôn
giáo, giữa đồng bào theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau luôn là mục đích,
nhiệm vụ cơ bản của quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
Hà Tây là tỉnh có nhiều tôn giáo với gần 300.000 người là tín đồ các
tôn giáo chiếm khoảng 13% dân số toàn tỉnh. Nhìn chung hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo của các cá nhân, tổ chức tôn giáo trên địa bàn diễn ra tương

đối bình thường tuân thủ chính sách pháp luật. Nhiều cá nhân, tổ chức tôn
giáo có các hoạt động tích cực góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,
củng cố xây dựng chính quyền và đồng hành cùng dân tộc trong sự nghiệp
phát triển chung của địa phương.
Tuy nhiên, mấy năm gần đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong
đó có nguyên nhân từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự can thiệp của các
thế lực thù địch làm cho hoạt động của một số tổ chức, cá nhân tôn giáo có
nhiều diễn biến phức tạp. Do đó, đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý
Nhà nước trên lĩnh vực này.
Vì lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề: "Tăng cường công tác
quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Hà Tây trong tình
hình hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội
khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam nói riêng từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả. Ở
nước ta có nhiều công trình nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo ở nhiều góc
độ khác nhau. Có thể khái quát nội dung những công trình nghiên cứu đó theo
một số hướng cơ bản.

6
Thứ nhất: Tìm hiểu vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo.
Thứ hai: Mối quan hệ tôn giáo với một số lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Thứ ba: Quản lý Nhà nước đối với các tôn giáo.
Thứ tƣ: Khai thác các giá trị văn hoá, đạo đức của các tôn giáo.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết, chuyên đề đăng trên các tạp chí như Tạp
chí Triết học, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Tạp chí Xây dựng Đảng, Tạp chí
Cộng sản và các luận văn, luận án. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu
đánh giá, xem xét vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trên nhiều phương diện khác

nhau nhưng chưa có công trình nào đi sâu tìm hiểu công tác quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực này trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
3. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích: Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, luật pháp của Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về công tác tôn giáo, đề tài tìm hiểu thực trạng
công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Hà Tây,
qua đó nêu lên phương hướng và một số giải pháp về vấn đề này.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề chung về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản
lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
- Khái quát thực trạng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản
lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
- Trên cơ sở đó, đề xuất, kiến nghị phương hướng và một số giải pháp
nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong tình hình hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

7
* Đối tượng: Luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng công tác quản lý
Nhà nước về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và giải pháp nhằm tăng cường
công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
* Phạm vi nghiên cứu: Tác giả luận văn có đi khảo sát thực tế nắm
tình hình tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Hà Tây giai đoạn 2000 - 2006
và từ đó có những kiến nghị giải pháp tăng cường công tác quản lý Nhà nước
về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh.

8
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu: Luận văn này được viết dựa trên cơ sở tìm hiểu lý

luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường
lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo,
những công trình nghiên cứu của các tác giả khác nhau, các luận văn, luận án
có nội dung phù hợp.
* Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn có sử dụng một số
phương pháp như: Lịch sử - logic, phân tích, điều tra, tổng hợp, so sánh,
chứng minh, các phương pháp này được lựa chọn sử dụng phù hợp với từng
nội dung cụ thể.
6. Đóng góp của luận văn
* Về khoa học: Luận văn làm rõ thực trạng công tác quản lý Nhà nước
về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Hà Tây, qua đó bước đầu
đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà
nước về vấn đề này.
* Về thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên
cứu công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn
tỉnh Hà Tây.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương, 10 tiết.
Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác
quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản
lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở tỉnh Hà Tây.

9
Chƣơng 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường công
tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn Hà
Tây trong tình hình hiện nay.
Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN NGƢỠNG,
TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO

1.1. Khái niệm và đặc điểm của tín ngƣỡng, tôn giáo
Hoạt động của con người bao giờ cũng nhằm theo đuổi nhu cầu, lợi ích
nhất định và bị chi phối bởi niềm tin vào khả năng hiện thực hoá nhu cầu, lợi
ích đó. Niềm tin, do vậy trở thành động lực thôi thúc con người vượt qua mọi
khó khăn, thử thách để tiến tới mục tiêu.
1.1.1. Khái niệm niềm tin, tín ngưỡng và tín ngưỡng dân gian
* Niềm tin:
Xã hội, như C.Mác đã chỉ ra, là tổng hoà các mối quan hệ giữa người
với người. Niềm tin giữa con người với con người được nảy sinh trong thực
tiễn sản xuất, trong đấu tranh cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội là cội nguồn nuôi
dưỡng những mối quan hệ đó. Nhờ niềm tin, con người có được sự thôi thúc
nội tâm để vươn tới cái mà mình hy vọng. Như vậy, niềm tin là một hiện
tượng tâm - sinh lý. Nó xuất hiện từ nhu cầu cần thiết xác lập mối quan hệ
giữa người với người cũng như mối quan hệ giữa người và vật trong quan hệ
với người khác. Tuỳ thuộc vào các mối quan hệ khác nhau, có các loại niềm
tin với tính chất và vai trò khác nhau.
Có loại niềm tin nảy sinh vì mục đích trao đổi, chia sẻ cho nhau những
nhu cầu, những khả năng có hay có thể dựa vào để đạt yêu cầu nào đó.
Lại có loại niềm tin từng thuộc là loại niềm tin được hình thành trên cơ
sở bên này có thể thấy ở bên kia cái mà mình có khả năng dựa vào để đạt mục

10
tiêu mà mình mong muốn. Trong trường hợp này, người tin ở vị trí tuỳ thuộc
vào đối tượng mình tin. Do vậy, đối tượng tin ít nhiều mang trong mình một
sự hy vọng đối với người mới.
Khi thẩm thấu sâu vào cuộc sống của cá nhân tin, của con người có

niềm tin về cái gì đó, niềm tin đó trở thành tâm thức mang tính thường trực ở
chủ thể mang niềm tin. Chính từ đây ra đời loại niềm tin mang tầm lý tưởng
tự giác, tự nguyện cao trong việc tuân thủ các hành động do chi phối của loại
niềm tin này không hoàn toàn vụ lợi, thậm chí, vì nó mà chủ thể mang niềm
tin có thể hy sinh tất cả. Trong tình huống nhất định, nhờ niềm tin vô thức,
chủ thể của nó có thể thực hiện những hành động bi hùng.
Niềm nin là một mối quan hệ (giữa người và người, giữa người và lực
lượng siêu nhiên, giữa người và vật). Nó ít nhất bao gồm: người tin, đối tượng
được tin. Đối tượng được tin có thể rất đa dạng: là những con người cụ thể;
những vật thể được coi như là cái có sức mạnh giúp đỡ hoặc làm hại con
người, những con người được đời gán cho những sức mạnh siêu nhiên.
Người có đức tin tin rằng, những năng lực của đối tượng tin là có thật,
nó là chỗ dựa của họ trong mọi trường hợp mà họ cần đến. Nếu đó là lực
lượng có hại, thì năng lực có hại của chúng cũng được tin là đúng và có thật.
Vì vậy, con người phải thiết lập mối quan hệ hài hoà, hữu ái với chúng để
khỏi gây khó khăn cho mình.
Niềm tin mà con người theo đuổi có nhiều loại khác nhau. Có niềm tin
khoa học, niềm tin tiền khoa học và niềm tin phi khoa học. Tín ngưỡng là một
trong số những niềm tin khoa học, phi khoa học đó.
* Tín ngưỡng:
Trong khuôn khổ của đề tài, tác giả không bàn luận sâu về niềm tin nói
chung, mà tập trung chú ý vào việc làm rõ niền tin gắn liền với tín ngưỡng,
dân gian. Tiếp cận với vấn đề từ phương diện đó, niềm tin là điểm xuất phát
của mọi tín ngưỡng. Lòng tin, sự ngưỡng vọng của con người vào một lực

11
lượng siêu nhiên nào đó - một lực lượng siêu thực, hư ảo, vô hình là nội hàm
cơ bản của tín ngưỡng, trong đó có tín ngưỡng dân gian. Đối với người có tín
ngưỡng, lực lượng siêu nhiên là có thật, đang tác động vào cuộc sống của họ.
Để thuận lợi trong cuộc sống, tránh mọi tai ương, họ tôn thờ, sùng bái lực

lượng siêu nhiên ấy.
Lòng tin ở một lực lượng siêu nhiên, sự sợ hãi sẽ bị trừng phạt hay hy
vọng sẽ được che chở, niềm tin rằng mình sẽ được giải thoát khỏi mọi tai
ương, trắc trở là hạt nhân ban đầu của tín ngưỡng. Niềm tin đó còn tồn tại
chừng nào con người chưa làm chủ được tự nhiên, xã hội, và bản thân. Khi
con người còn gặp những bất hạnh, những may rủi, còn muốn thoát khỏi mọi
nỗi ràng buộc đau khổ trên cõi đời, thì họ còn dựa vào đấng siêu nhiên, tối
cao, huyền bí nào đó.
Khi tiếp cận với vấn đề khả năng nhận thức của con người, từ giác độ
phương pháp luận cơ bản, Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng đứng về bản lĩnh, về sứ
mệnh lịch sử, tư duy của con người là tối cao và vô hạn. Nhưng tính tối cao
và vô hạn đó lại được thể hiện và thực hiện ở những con người cụ thể và trong
thời kỳ lịch sử nhất định. Đối với mỗi con người cụ thể, trong thời kỳ lịch sử
nhất định đó, tư duy của họ không có gì đáng được gọi là tối cao và vô hạn cả.
Từ đó cho phép chúng ta khẳng định rằng, chỉ trong sự tiến triển tới vô hạn,
con người mới nhận thức và giải thích đầy đủ mọi vấn đề mà hiện thực tự
nhiên và xã hội đặt ra; mới có thể hoàn toàn làm chủ được tự nhiên, làm chủ
được xã hội và làm chủ bản thân mình. Trên con đường tiến tới cái vô hạn đó,
tầm hạn hẹp của con người trên tất cả các vấn đề nêu trên là không thể tránh
khỏi. Đó là cơ sở khách quan cho sự tồn tại lâu dài của tín ngưỡng. Nhưng,
cũng có cơ sở để khẳng định rằng, cùng với sự phát triển tiến bộ của khoa học
và thực tiễn xã hội, đối tượng của tín ngưỡng sẽ ngày càng là những hiện
tượng tinh tế, phức tạp hơn, tính giản đơn, sơ khai của đối tượng tin sẽ giảm
đi tương ứng.
* Tín ngưỡng dân gian:

12
Cho đến nay, chưa có một định nghĩa tương đối hoàn chỉnh nào về khái
niệm này. Nhiều lắm, một số nhà khoa học mới chỉ nêu lên vài nhân tố cấu
trúc của tín ngưỡng dân gian, một số hình thức biểu hiện và hiện diện cơ bản

của nó (đạo thờ cúng tổ tiên, thờ thành hoàng làng ).
Để góp phần đưa ra một quan điểm sơ khai nào đó về khái niệm này,
phải chăng chúng ta cần đặt nó trong mối quan hệ với một khái niệm chung
hơn: Văn hoá dân gian. Bởi vì, là một nhân tố cấu thành của văn hoá, cho nên,
tín ngưỡng dân gian cũng có thể và cần được xem như là một yếu tố, một bộ
phận văn hoá dân gian. Từ quan niệm đó, nếu văn hoá dân gian (folklore)
được hiểu là loại hình văn hoá được ra đời nhờ sự sáng tạo của chính nhân
dân, thì tín ngưỡng dân gian cũng có thể xem là loại hình tín ngưỡng tôn giáo
do chính nhân dân - trước hết, những người lao động - sáng tạo ra trên cơ sở
những tri thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm tính từ cuộc sống
thường nhật của bản thân mình.
Nêu ra quan điểm như vậy về tín ngưỡng dân gian không có nghĩa là để
rồi đi tới quan niệm bên cạnh tín ngưỡng dân gian, có tín ngưỡng bác học
theo đúng nội dung khoa học của từ đó. Mọi tín ngưỡng tôn giáo, theo bản
chất của nó, đều là sự phản ánh hư ảo, sai lạc đối với hiện thực. Không có loại
tôn giáo nào là khoa học theo nghĩa nghiêm túc của từ đó. Song, tầm "lý luận
hoá", "khái quát hoá", "hệ thống hoá" của các tín ngưỡng, tôn giáo lại có mức
độ, trình độ rất khác nhau và được thực hiện bởi những lớp người có trình độ
trí tuệ không như nhau: Khi xét dưới giác độ một hình thái ý thức xã hội, tôn
giáo là loại tín ngưỡng được xây dựng hình thành cả một hệ thống lý luận
tương đối hoàn chỉnh, có cả một quan niệm tương đối nhất quán với logic nội
tại (tất nhiên, logic đó có thể chứa đựng không ít những yếu tố nguỵ biện,
chiết trung, giả khoa học, nguỵ khoa học ). Cùng với nó, là cả một hệ
"chuẩn" về đức tin được biểu hiện thành giáo lý, được "quy tắc" hoá thành hệ
chuẩn về giáo lễ, được "vật chất hoá" "thành một hệ thống tổ chức ít nhiều
chặt chẽ (giáo hội), có một đội ngũ những người lấy việc truyền đạo làm hoạt

13
động ít nhiều mang tính chuyên nghiệp của mình. Còn tín ngưỡng dân gian về
cơ bản do nhân dân, những người lao động sáng tạo ra. Nó không có tính hệ

thống, không mang tính triết lý nhân sinh hoàn chỉnh cũng như nhiều yếu tố
khác vốn có của một tôn giáo như đã nêu trên.
Ngoài những điểm đồng nhất, giống nhau cơ bản, phương thức biểu
tượng hoá đối tượng niềm tin trong tôn giáo và trong tín ngưỡng dân gian
cũng có những khác nhau nhất định. Cả trong tôn giáo lẫn trong tín ngưỡng
dân gian, đối tượng tín ngưỡng được người tin tạo cho một lý lịch, một năng
lực, một sức mạnh cụ thể có lợi (hoặc có hại) cho con người. Trong hình dạng
cụ thể phù hợp với sức mạnh tính cách mà con người gán cho nó. Nhưng,
thông thường trong tín ngưỡng dân gian, hình dạng con người với tính cách là
đối tượng tin mang tính tích cực thường được nhân dân gán cho những đặc
tính siêu nhiên, huyền bí (như có sức mạnh oai phong, lẫm liệt ).
Cũng giống như tôn giáo, việc thể chế hoá niềm tin và quy cách hoá
việc thực hiện niềm tin trong tín ngưỡng dân gian là phương thức bày tỏ mối
quan hệ giữa chủ thể niềm tin và khách thể được tin với ý niệm rằng phải làm
như vậy, đối tượng tin mới nhận được niềm tin của người tin, người gửi gắm,
khi đó, đối tượng tin mới giúp đỡ họ thực hiện niềm tin. Việc thể chế hoá đó
đòi hỏi một "địa điểm" thiêng, một "không gian thiêng" và một "vật thiêng",
vật dâng cúng. Song tín ngưỡng dân gian, tất cả những cái đó mang tính bình
dị, tự nhiên, gần gũi với người có đức tin cả về không gian và thời gian và
thường mang tính bình dân, gần gũi với cuộc sống của người lao động cùng
hoạt động thường nhật của họ (ông bình vôi, núi Tản Viên, người hành
khất ).
Vật xúc tác mối quan hệ giữa người tin và đối tượng tin trong tôn giáo
và trong tín ngưỡng dân gian cũng có điểm tương đồng và khác biệt tương tự.
Nhiều tôn giáo và tín ngưỡng dân gian cũng dùng lửa, hương làm vật xúc
tác cho mối quan hệ giữa người tin và đối tượng tin; cũng dùng trang phục
phù hợp với đối tượng tin, cũng có sự kiêng kị giới tính trước ngày lễ; cũng tự

14
xác định cho mình một tâm thế khác ngày thường khi thực hiện hành vi bộc lộ

niềm tin trước đối tượng tin (họ đang trong tình trạng "hoá thân"; Trong tình
trạng ấy, mỗi người đều được đòi hỏi và tự đòi hỏi xứng đáng với vai trò của
mình (chứ không xử sự như lúc bình thường). Song, liên quan tới vấn đề này
tính đặc thù của tín ngưỡng dân gian là ở chỗ, tất cả những "vật xúc tác" đó
không mang tính quy định thống nhất tuyệt đối; trái lại, tuỳ hoàn cảnh, tuỳ tập
tục của từng địa phương, từng thời kỳ. Tính linh hoạt, sáng tạo, mềm dẻo, cho
phù hợp với cuộc sống thực tế của mỗi gia đình, mỗi người là nét rất tiêu biểu
khi tìm "chất xúc tác" trong tín ngưỡng dân gian.
1.1.2. Bản chất nguồn gốc và tính chất của tôn giáo
* Bản chất của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý
thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan:
Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những hiện hượng tự nhiên trở thành
siêu nhiên. Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định "Tất cả mọi tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế" [33, tr.437]. C.Mác và Ph.Ănghen còn cho rằng, tôn giáo
là một hiện tượng xã hội, văn hoá, lịch sử, một lực lượng xã hội trần thế.
Tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ chặt chẽ
mà ranh giới để phân biệt giữa chúng chỉ là tương đối.
Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn khái niệm tôn giáo: Tín ngưỡng
là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực
lượng, một điều gì đó và thông thường để chỉ một niềm tin tôn giáo. Còn tôn
giáo thường được hiểu là một trong những hình thức tín ngưỡng có quan
niệm, ý thức, hành vi và các tổ chức tôn giáo. Tóm lại, tôn giáo thường có
giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo hội.

15
Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu và

vẫn tồn tại ở thời đại chúng ta. Trên thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào
các hình thức sinh hoạt tôn giáo. Việc xác định hiện tượng mê tín dị đoan chủ
yếu dựa vào biểu hiện và hậu quả tiêu cực của nó.
Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên
đến mức độ mê tín, cuồng tín với những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân
tính, phản văn hoá. Mê tín dị đoan thường gây hậu quả tiêu cực đến đời sống
xã hội. Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn liền với các hình thức sinh hoạt
tín ngưỡng, tôn giáo. Vì vậy, cùng với việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân thì đồng thời phải dần loại bỏ mê tín dị
đoan nhằm làm lành mạnh hoá đời sống xã hội.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với các điều kiện lịch sử tự
nhiên và lịch sử xã hội xác định. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện
tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã
hội.
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng trong nó một số nhân tố còn phù
hợp. C. Mác khẳng định "sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự
nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực
ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có
tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân" [31, tr.570]
Về phương diện thế giới quan thì thế giới quan duy vật mác xít và thế
giới quan tôn giáo là đối lập nhau: Tuy vậy, trong thực tiễn, những người
cộng sản có lập trường mác xít không bao giờ có thái độ coi thường hoặc trấn
áp nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Mác-
Lênin và những người cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn luôn tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng (và không tín ngưỡng) của nhân dân.
Giữa người có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng có sự khác nhau về
thế giới quan. Song, trong những điều kiện của một xã hội nhất định, họ có

16

thể cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn ở thế ở thế giới hiện thực.
Mục tiêu cộng sản chủ nghĩa là hướng tới xây dựng một xã hội mà trong đó
không còn những khác biệt giai cấp, không còn chế độ tư hữu, không còn chế
độ áp bức bóc lột và bất bình đẳng giữa người với người. Xã hội ấy chính là
xã hội mà quần chúng tín đồ cũng từng ước mơ và phản ánh nó qua một số
tôn giáo.
Sự khác nhau giữa CNXH hiện thực và "thiên đường" mà các tôn giáo
thường hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo "thiên đường" không phải
là hiện thực xã hội mà là ở "thế giới bên kia", trên thượng giới. Còn những
người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh, hạnh
phúc ngay ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người.
Với lập trường duy vật lịch sử, V.I Lênin đã từng chỉ rõ: "Đối với
chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thật sự cách mạng đó của giai cấp
bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan trọng hơn sự
thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên đường"
[22, tr.174]
* Nguồn gốc tôn giáo
Đã có nhiều cách lý giải khác nhau về nguồn gốc của tôn giáo. Tuy
nhiên, trong các nguồn gốc của tôn giáo, cần lưu ý đến nguồn gốc kinh tế- xã
hội; nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý.
- Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất
và điều kiện sinh hoạt vật chất rất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và
bất lực trước thiên nhiên. Vì vậy, người nguyên thuỷ đã gán cho thiên nhiên
những sức mạnh siêu nhiên.
Khi xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp hình
thành, đối kháng giai cấp nảy sinh. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, các
mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp và con người ngày càng chịu tác động

17

của những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, may rủi nằm ngoài ý muốn và khả
năng điều chỉnh của mình với những hậu quả khó lường Một lần nữa con
người lại bị động, bất lực trước lực lượng tự phát nảy sinh trong xã hội.
Sự bần cùng về kinh tế, nạn áp bức về chính trị, sự hiện diện của những
bất công xã hội cùng với những thất vọng, bất hạnh trước cuộc đấu tranh giai
cấp của giai cấp bị trị - đó là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo.
Các nhà duy vật trước C.Mác thường nhấn mạnh về nguồn gốc nhận
thức của tôn giáo. Còn những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin lại
quan tâm trước hết đến nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên,
chủ nghĩa Mác - Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo mà
còn làm sáng tỏ một cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó.
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định thì sự nhận thức của con người về tự
nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Chức năng của khoa học
là tìm hiểu, khám phá ra những điều mà nhân loại chưa biết; vận dụng các tri
thức đã biết để tiếp tục nhận thức và cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con
người ngày một văn minh hơn. Song, ở thời kỳ lịch sử cụ thể thì khoảng cách
giữa "biết" và "chưa biết" vẫn tồn tại mà điều gì khoa học chưa giải thích
được thì điều đó thường chỉ được giải thích hư ảo qua các tôn giáo. Ngay cả
những vấn đề đã được khoa học chứng minh nhưng trình độ dân trí thấp kém
vẫn là mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm quá trình
nhận thức của con người về thế giới khách quan.
- Đó là quá trình phức tạp và đầy mâu thuẫn. Một mặt hình thức phản
ánh càng đa dạng, phong phú và mang tính khoa học bao nhiêu thì con người
càng có khả năng nhận thức đầy đủ, sâu sắc thế giới khách quan bấy nhiêu.
Mặt khác, hình thức phản ánh càng trừu tượng đến mức hư ảo bao nhiêu thì
nhận thức của con người càng có khả năng xa rời và phản ánh sai lệch hiện

18

thực bấy nhiêu. Tuyệt đối hoá hay cường điệu hoá vai trò của chủ thể nhận
thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực.
- Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo.
Vấn đề ảnh hưởng của yếu tố tâm lý tình cảm của con người đối với sự
ra đời và tồn tại của tôn giáo đã được các nhà vô thần cổ đại nghiên cứu
(người đầu tiên nêu ra luận điểm này là thi sĩ Latin Lurêce - thế kỷ I trước
Công nguyên). Họ thường đưa ra những luận điểm: "Sự sợ hãi sinh ra thần
linh". Lênin tán thành và phân tích thêm: "Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng
của tư sản - mù quáng vì quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nó
- là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và người tiểu chủ,
cũng đe doạ đem lại cho họ và đang đem lại cho họ sự phá sản "đột ngột",
"bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người
ăn xin, một kẻ bần cùng, một gái điếm, và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính
là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại" [23, tr.515-516].

Nhưng không chỉ từ sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và
xã hội đã dẫn con người đến nhờ cậy thần linh, mà ngay cả những tình cảm
tâm lý tích cực như tình yêu, lòng biết ơn, sự kính trọng trong mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên và con người với con người nhiều khi cũng được
thể hiện qua tín ngưỡng, tôn giáo.
* Tính chất của tôn giáo.
- Tính lịch sử của tôn giáo thể hiện ở chỗ nó có sự hình thành, có quá
trình tồn tại và phát triển lâu dài, nhưng không phải là hiện tượng xã hội vĩnh
hằng, bất biến, mà sẽ mất đi khi mà "con người không chỉ mưu sự mà lại còn
làm cho thành sự nữa - thì chỉ khi đó, cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay
vẫn còn đang phản ánh vào tôn giáo sẽ mất đi, và cùng với nó bản thân sự
phản ánh có tính chất tôn giáo cũng sẽ mất đi, vì khi đó sẽ không có gì để
phản ánh nữa" [33, tr.439].

19

- Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ
mà còn ở chỗ các tôn giáo là sinh hoạt văn hoá, tinh thần của một số bộ phận
quần chúng nhân dân lao động. Dù tôn giáo hướng con người hy vọng vào
hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song nó luôn luôn phản ánh khát vọng
của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái. Khi thể
hiện tính quần chúng, tôn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo, hướng
thiện.
Ở thời kỳ công xã nguyên thuỷ, tôn giáo chỉ phản ánh nhận thức hồn
nhiên, ngây thơ của con người về bản thân, về thế giới quanh mình. Tính
chính trị của vấn đề tôn giáo chỉ có khi xã hội đã phân chia giai cấp và các
giai cấp bóc lột, thống trị xã hội thường sử dụng tôn giáo như một phương
tiện đắc lực phục vụ sự thống trị của mình.
Những cuộc chiến tranh tôn giáo đã và đang xảy ra, thực chất vẫn là
xuất phát từ những lợi ích vật chất của những lực lượng xã hội khác nhau.
Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ thì tôn giáo thường là một bộ phận của
đấu tranh giai cấp.
Ngày nay, tôn giáo đang phát triển mạnh, đa dạng, phức tạp không chỉ
thể hiện tự phát ở nhân dân, ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia mà còn có tổ
chức ngày càng chặt chẽ, rộng lớn ngoài phạm vi địa phương, quốc gia - đó là
nhiều tổ chức quốc tế của các tôn giáo với vai trò, thế lực không nhỏ trên toàn
cầu và với những trang bị hiện đại, không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, tâm lý
mà cả trong chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Một mặt, cần nhận rõ rằng, đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo
nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần. Mặt khác, trên thực tế, tôn giáo đã và đang
bị các lực lượng chính trị - xã hội sử dụng cho mục đích ngoài tôn giáo.
1.1.3. Đặc điểm của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia nằm ở giữa ngã ba của Đông Nam châu Á, là nơi
giao lưu của các luồng tư tưởng, văn hoá khác nhau, có địa hình phong phú,

20

đa dạng, lại ở vùng nhiệt đới gió mùa, thiên nhiên vừa ưu đãi, vừa đe doạ
cộng đồng người sống ở đây. Do đó thường nảy sinh tâm lý sợ hãi, nhờ cậy
vào sự che chở của lực lượng tự nhiên. Việt Nam có lịch sự lâu đời và nền
văn minh hình thành sớm, lại kề bên hai nền văn minh lớn của loài người là
Trung Hoa và Ấn Độ nên tín ngưỡng, tôn giáo có ảnh hưởng sâu đậm từ hai nền
văn minh ấy.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm, những người có công lớn
trong việc giúp dân, cứu nước được cả cộng đồng tôn sùng và đời đời thờ
phụng. Trong tâm thức của người Việt luôn tiềm ẩn, chứa đựng đạo lý "uống
nước nhớ nguồn". Điều đó được thể hiện khá rõ nét trong đời sống sinh hoạt
tín ngưỡng, tôn giáo của họ. Đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hoá đó có ảnh
hưởng lớn đến đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
*

Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau đang tồn tại.
Nước ta là nơi thuận lợi cho việc giao lưu của nhiều luồng tư tưởng,
văn hoá khu vực và thế giới, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền văn minh
lớn Trung Hoa và Ấn Độ, đồng thời là một nước có nhiều dân tộc cư trú ở
nhiều khu vực với điều kiện tự nhiên khí hậu, lối sống, phong tục, tín ngưỡng,
tôn giáo khác nhau. Hơn nữa, bản tính người Việt vốn cởi mở, khoan dung
nên cùng một lúc họ có thể tiếp nhận nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau. Từ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo sơ khai đến hiện tại, từ
tôn giáo phương Đông cổ đại đến phương Tây cận, hiện đại - tất cả, đã và
đang cùng tồn tại bên cạnh tín ngưỡng dân gian, bản địa của nhiều dân tộc, bộ
tộc khác nhau. Có nhiều tôn giáo du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu
công nguyên, lại có nhiều tôn giáo xuất hiện ở nước ta vào những thập niên
đầu thế kỷ này. Có tôn giáo với số lượng hàng triệu tín đồ, nhưng có tôn giáo
lại có số lượng tín đồ không đáng kể. Lịch sử đã từng chứng minh một số tôn
giáo đã có ảnh hưởng lớn đến đời sống, nếp nghĩ và văn hoá của cả cộng

đồng, đã góp phần nâng cao ý thức dân tộc nhưng cũng có tôn giáo trong quá

21
trình du nhập, hình thành và phát triển đã bị các thế lực chính trị lợi dụng vì
mục đích ngoài tôn giáo. Lịch sử hình thành và du nhập, số lượng tín đồ, vai
trò xã hội cũng như tác động chính trị của các tôn giáo ở nước ta cũng rất
khác nhau.
* Tính đan xen, hoà đồng, khoan dung của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Bản tính người Việt Nam là cởi mở, khoan dung cho nên, dù là tín
ngưỡng nào, tôn giáo gì, từ đâu đến, thì cộng đồng người ở đây cũng sẵn sàng
chấp nhận - miễn là nó không xâm phạm đến lợi ích quốc gia và không đi
ngược lại truyền thống văn hoá dân tộc: Khổng giáo và đạo giáo từ Trung
Hoa lan xuống, Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang từ rất sớm vẫn song song tồn
tại cùng nhau một cách hoà bình cùng với tín ngưỡng bản địa mà không xảy
ra cuộc chiến tranh tôn giáo nào. Kể cả về sau một số tôn giáo phương Tây
thâm nhập vào Việt Nam, tuy có xa lạ với truyền thống văn hoá dân tộc,
nhưng vẫn được chấp nhận. Nếu có giai đoạn lịch sử nào đó bị cộng đồng dân
tộc mặc cảm, định kiến là khi nó bị lực lượng phản động lợi dụng vào mục
đích đi ngược lại lợi ích dân tộc.
Do điều kiện lịch sử, từ khi dựng nước đến nay, mối quan tâm thường
xuyên trong mỗi người Việt Nam là cảnh giác đề phòng nạn ngoại xâm. Vì
vậy, bất luận là tôn giáo nào, từ đâu đến thì vị trí của nó trước hết phải được
sự khảo nghiệm của lịch sử dựng nước và giữ nước, sau nữa, phải tôn trọng
tôn giáo truyền thống và hoà đồng với tín ngưỡng bản địa.
Trong lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của các hình thức tôn
giáo, sự kế thừa, bảo lưu, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau là xu hướng chung.
Sự ra đời của Kitô giáo đã kế thừa Do thái giáo và tín ngưỡng truyền thống.
Ngay Phật giáo cơ bản phủ nhận Bà la môn về quan điểm chính trị - xã hội,
nhưng cũng kế thừa nhiều mặt từ tôn giáo này.
Nhưng khác với một số nước phương Tây, ở Việt Nam không có tôn

giáo nào giữ vai trò thống trị trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà vị trí, vai

22
trò của từng tôn giáo gắn liền với sự hưng thịnh, suy tàn của các triều đại
phong kiến trong tiến trình phát triển nhất định của lịch sử dân tộc.
Tính đan xen, hoà đồng của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có những
biểu hiện cơ bản sau:
- Trên điện thờ của một số tôn giáo có sự hiện diện của một số vị thần,
thánh, tiên, phật của nhiều tôn giáo. Hiện tượng này thấy rõ ở Phật giáo Đại
thừa và điển hình là đạo Cao Đài.
- Đối với người Việt Nam, rất khó xác định tiêu chuẩn tôn giáo cụ thể
của họ. Không ít người sẵn sàng chấp nhận thờ cúng cả thần, thánh, tiên, phật
lẫn thổ công hà bá Người ta không chỉ thờ phụng ở đình, chùa, am, miếu mà
còn "khấn vái tứ phương". Kể cả ở gốc cây, mô đất, hốc đá, khúc sông Họ
có thể đều đặn đến chùa mà vẫn hầu bóng, có thể vừa chịu đủ những phép bí
tích mà vẫn ham bói toán, tử vi, vừa tham gia nghi lễ các tôn giáo lớn mà vẫn
chăm chỉ thờ cúng tổ tiên, tổ chức hội làng.
- Về phía giáo sỹ: Ở Việt Nam có nhiều tăng, ni, phật tử thông thạo
giáo lý phật giáo, đồng thời cũng am hiểu triết thuyết Khổng mạnh và nghiên
cứu cả Đạo giáo. Ngược lại, các thày pháp của Đạo giáo (phù thuỷ, chiêm
tinh, bói toán) cũng không hề bài bác Phật giáo và Khổng giáo. Thực tế có nhiều
nhà nho nương thân trong chốn cửa thiền và cũng không ít tăng, ni có tư tưởng
yếm thế, tu tiên.
Giáo lý của các tôn giáo lớn ở Việt Nam có không ít những điều khác
biệt và trong lịch sử tồn tại của nó cũng xuất hiện những mâu thuẫn nhất định.
Cá biệt có hiện tượng phê phán, bài bác lẫn nhau, nhưng nhìn chung, chưa có
sự đối đầu để dẫn đến chiến tranh tôn giáo. Nếu có mâu thuẫn dẫn đến xung
đột thì có cũng chỉ vì lý do chính trị mà tôn giáo là một hình thức biểu hiện.
Khái quát lại, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam là hoà đồng, đan xen,
nương tựa và hỗ trợ lẫn nhau. Truyền thống "Tam giáo đồng nguyên", "ngũ

chi hợp nhất" được kết tinh trong đạo Cao Đài: Những tôn giáo độc thần như

23
Công giáo, Tin lành, Hồi giáo du nhập vào nước ta cũng như tôn giáo nội sinh
Cao Đài, Hoà Hoả ít nhiều đều có tính đan xen, hoà đồng dung hợp với nhau
và với tín ngưỡng bản địa. Nhờ có tính khoan dung, hiếu hoà đã khiến cho
một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo như Việt Nam mà vẫn giữ được truyền
thống đoàn kết toàn dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo.
* Yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm, người phụ nữ có
vai trò vị trí quan trọng trong xã hội không chỉ vì họ phải gánh vác công việc
nặng nề thay chồng nuôi con ở hậu phương, mà có người còn trực tiếp cùng
nam giới xông pha trận mạc. Không phải chỉ có Bà Trưng, Bà Triệu phất cờ
khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm vào những thế kỷ đầu công nguyên mà giai
đoạn lịch sử nào cũng có phụ nữ nổi trội trên các lĩnh vực.
Ở nước ta, dù mẫu quyền đã được thay bởi phụ quyền từ lâu, song tàn
dư của chế độ này còn dai dẳng đến tận ngày nay vẫn chưa kết thúc. Ở một xứ
sở trồng cấy lúa nước thuộc nền văn minh nông nghiệp vốn coi trọng yếu tố
âm - đất - mẹ, người Mẹ biểu tượng cho ước muốn phong đăng, phồn thực,
hình tượng của sự sinh sôi, nảy nở, sự trường tồn của giống nòi, sự bao dung
của lòng đất.
Vì vậy, một trong những đặc điểm đáng quan tâm trong tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam là truyền thống tôn thờ yếu tố nữ. Từ Bắc đến Nam ở đâu
cũng có nơi thờ tự thần: Phật Bà, Thánh mẫu Đền thờ Bà chúa kho (Bắc
Ninh), Bà Chúa Liễu ở phủ Tây Hồ (Hà Nội), Bà Chúa Đen (Tây Ninh), Bà
Chúa Sứ (An Giang) là những nơi thu hút nhiều người mà không phải chỉ có
nữ giới.
Các tôn giáo lớn từ Công giáo đến Khổng giáo và nhất là Hồi giáo vốn
coi thường phụ nữ, nhưng khi du nhập vào Việt Nam đã phải thay đổi ít nhiều
cho phù hợp với vai trò của người phụ nữ và sự nhìn nhận, đánh giá của xã

hội đối với họ. Ở Việt Nam, dưới con mắt của một số tín đồ Công giáo thì đức

24
Mẹ Maria, và của Phật giáo thì Phật bà Quan âm còn gần gũi, thân thiết và
quan trọng hơn cả Đức chúa Jêsu và Phật thích ca mâu ni.
Đạo giáo từ Trung Hoa truyền sang nhưng không có giáo phái nào có
ảnh hưởng lớn ở Việt Nam như đạo Tam phủ, Tứ phủ, phải chăng có vị giáo
chủ của đạo này thuộc phái nữ?
Nhiều nơi như đền, miếu, phủ trở thành nơi hương hoa, quả oản nhằm
thờ phụng những bậc thánh thần thuộc nữ giới. Vì lẽ đó, có người nói ở nước
ta có đạo thờ Mẫu thần thánh mang dạng nữ khá phổ biến, đa dạng và phong
phú. Điều đó phản ánh vai trò nhiều vẻ của người phụ nữ ở thế giới hiện hữu.
Có mẫu là thiên thần cũng có mẫu là nhân thần, có mẫu tạo dựng nên giống
nòi, lại có mẫu có công đánh giặc giữ nước, có mẫu, xuất hiện từ huyền thoại,
nhưng lại có mẫu là con người lịch sử - cụ thể. Có mẫu xuất thân từ gia đình
quyền quý, có mẫu được tôn vinh chỉ là người bình dân nghèo khổ, có mẫu lo
đuổi giặc giúp dân, có mẫu lại chăm lo cho mưa thuận gió hoà, mùa màng
tươi tốt. Phải chăng sự hiện diện của nữ thần ở mọi nơi làm cho con người an
tâm như sự có mặt của người phụ nữ trong gia đình và xã hội?
* Thần thánh hoá những người có công với gia đình, làng, nước
Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm và thiên tai. Hàng ngàn
năm các thế lực bên ngoài đã nuôi hy vọng đồng hoá dân tộc ta bằng nhiều
hình thức. Mặc dù chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hoá khác nhau nhưng
dân tộc ta không bị hoà đồng mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá riêng của
mình, các tôn giáo ngoại lai du nhập vào Việt Nam dù có giáo lý sâu sắc, có
tổ chức chặt chẽ đến đâu vẫn không thể đẩy lùi, lấn lướt được tín ngưỡng bản
địa, tôn giáo truyền thống, mà ngược lại, muốn tồn tại và phát triển, phải hoà
nhập cùng tín ngưỡng bản địa.
Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, trọng tình "uống
nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây" nên tín ngưỡng, tôn giáo Việt

Nam cũng thấm đượm tinh thần ấy. Truyền thống ấy được thể hiện trong tín

×