Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

BÁO CÁO THUYẾT TRÌNH Hệ thống thanh toán trực tuyến của Ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.44 KB, 27 trang )

BÁO CÁO THUYẾT TRÌNH
Hệ Thống Thanh Toán Trực Tuyến Của Ngân Hàng


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I. KHÁI QUÁT VỀ E-BANKING.
E-Banking là gì?
Lịch sử E-Banking tại Việt Nam.
II. CÁC SẢN PHẨM, DỊCH VỤ CỦA E-BANKING.
Các loại thẻ (Plastic money).
1. Credit Card - CC (THẺ GHI CÓ hay THẺ TÍN DỤNG).
2. Debit Card - DC (THẺ GHI NỢ).
EFTPOS - Hệ thống thanh toán tại các điểm bán hàng.
3. Khái niệm
4. Quy trình thanh toán.
5. Tình hình thanh toán bằng thẻ tại Việt Nam.
Máy rút tiền tự động (ATM - Automated Teller Machine).
Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Telephone - Banking).
6. Khái niệm.
7. Tiện ích.
8. Chi phí sử dụng.
Dịch vụ ngân hàng qua mạng máy tính toàn cầu (Internet - Banking).
9. Khái niệm.
10. Cách thức sử dụng.
11. Tiện ích.
Dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây (Mobilebanking).
Dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác (Interactive TV).
III. CÁC NGÂN HÀNG CUNG CẤP DỊCH VỤ E - BANKING TẠI VIỆT
NAM.
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - ACB.


Ngân hàng Đông Á - Dong A Bank.
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam - Vietcombank.
IV. KẾT LUẬN VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO:
2


Kết luận:
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

3


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, công nghệ thông tin (CNTT) là một phần thiết yếu của xã hội,
hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề đều có mặt của sự tiện ích mà ngành điện toán
đem lại. Có thể kể đến trong số những ngành áp dụng công nghệ thông tin nhiều
nhất đó là Thương mại điện tử (E-Commerce), một phát triển vượt bậc trong
kinh doanh, là cầu nối cung cầu nhanh nhất và tiên tiến nhất hiện nay thông qua
Internet. Chính vì thế, ngân hàng - một lĩnh vực phải nói là chủ chốt và huyết
mạch cho tất cả các thành phần kinh tế, đã áp dụng CNTT để nâng cao chất
lượng dịch vụ, thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng trong nước và quốc tế.
Đối với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển thì việc ứng dụng CNTT
cũng dần dần được đẩy mạnh để bắt kịp xu thế thời đại. Tuy nhiên, việc này
cũng còn hạn chế do số lượng người có trình độ lĩnh tụ được kiến thức CNTT
trong các lĩnh vực chỉ tập trung chủ yếu vào thành phần học sinh, sinh viên và
những người đang làm việc tại các cơ quan, tổ chức có ứng dụng CNTT.
Chính vì vậy, việc các ngân hàng thương mại áp dụng CNTT trong giao
dịch làm nảy sinh khái niệm ngân hàng điện tử (E-Banking) - một khái niệm còn
khá mới mẻ đối với những khách hàng chỉ quen với việc giao dịch tại chi nhánh
của ngân hàng (Bank branches). Nhưng theo tâm lý của đa số người, chờ đợi là

một điều rất mất thời gian và tiền bạc, vì ai cũng biết thời gian là vàng, chính vì
tâm lý này mà E-Banking xuất hiện như một “vị cứu tinh” giúp các ngân hàng
thương mại giảm tải công việc tại chi nhánh, giảm chi phí hoạt động, giúp việc
phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuy nhiên, việc xếp hàng chờ đợi để giao dịch tại
các chi nhánh ngân hàng Việt Nam hiện nay còn diễn ra tại khá nhiều nơi vì EBanking cũng còn làm nhiều người bỡ ngỡ vì họ không biết phải sử dụng như
thế nào để tiện lợi, nhanh chóng và an toàn, nên chi nhánh là lựa chọn dễ dàng
và tin cậy nhất của họ.
Báo cáo này nhằm giúp cho người đọc hiểu được giá trị thực sự của EBanking và thông qua các nghiên cứu các dịch vụ và sản phẩm mà E-Banking
đem lại, chúng tôi - Nhóm MAXIMAX, mong muốn rằng người đọc có thể ứng
dụng được phần nào của tiện ích E-Banking trong công việc cũng như trong giao
4


dịch với ngân hàng để đạt được hiệu quả cao, tiết kiệm thời gian quý báu và bổ
sung kiến thức thêm mới của CNTT.
Nhóm MAXIMAX
MAXIMAX

5


I. KHÁI QUÁT VỀ E-BANKING.
E-Banking là gì?
E-Banking là chữ viết tắt của Electronic-banking (dịch vụ ngân hàng điện
tử), một công cụ tiện ích cung cấp các sản phẩm và dịch vụ bán lẻ mới lẫn
truyền thống của ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử và các kênh
truyền thông tương tác khác, bao gồm:
• Tiến hành giao dịch ngân hàng.
• Kiểm tra tài khoản.
• Thanh toán các hóa đơn điện tử.

• Cung cấp sản phẩm và dịch vụ thanh toán điện tử khác như tiền điện tử.
Trước đây, khi nói đến ngân hàng thì người ta thường nghĩ đến thủ tục
hành chính rườm rà, phức tạp, phải ký đủ thứ giấy tờ liên quan để đảm bảo
quyền lợi giữa ngân hàng và người giao dịch. Hơn nữa, khi giao dịch tại các chi
nhánh thì rủi ro mất mát, nguy hiểm khi giao dịch với số lượng lớn là điều hoàn
toàn có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Những bất tiện đó giờ đây đã được giải quyết thỏa đáng, ngay cả những
khách hàng khó tính nhất cũng phải chấp một sự thật - E-Banking là một giải
pháp hữu hiệu, một trợ thủ đắc lực trong việc kiểm sóat tài chính của mình mà
không mất nhiều thời gian và công sức mà lại an toàn, hiệu quả. Mặt khác, ngân
hàng cũng giải quyết được vấn đề chi phí cho nguồn nhân lực cao mà công việc
giao dịch lại quá tải, vì giờ đây khách hàng đến chi nhánh ít đi nhờ vào sự tự
động hóa của E-Banking đem lại khi họ chỉ việc ngồi ở nhà, hay đang cầm chiếc
mobile, hay đang làm việc trên chiếc máy tính cá nhân có kết nối internet là có
thể thực hiện mọi giao dịch như đang ở trong ngân hàng thực. Do đó, khách
hàng được sự tiện lợi còn lợi nhuận ngân hàng ngày càng tăng mà còn đảm bảo
được uy tín của mình.
Để đáp ứng được yêu cầu đặt ra, hiện nay các sản phẩm và dịch vụ của EBanking tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm phục vụ cho các nhu cầu

6


phong phú, đa dạng. Các sản phẩm này hầu như nghe khá quen thuộc với chúng
ta khi được nhắc đến, nhưng rất ít người biết sử dụng một cách hiệu quả, đó là:
• Các loại thẻ nhựa (Plastic money), như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán...
• Hệ thống thanh toán tại các điểm bán hàng (EFTPOS - Point of Sale).
• Máy rút tiền tự động (ATM - Automated Teller Machine).
• Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Telephone-Banking).
• Dịch vụ ngân hàng qua mạng máy tình toàn cầu (Internet-Banking).
• Dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây (Mobile- Banking).

• Dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác (Interactive
TV).
Lịch sử E-Banking tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, vào tháng 3/1995, E-Banking bắt đầu có sự tham gia của hệ
thống

SWIFT

-

Society

for

Worldwidde

Interbank

Financial

Telecommunications. Đây là Hiệp hội tài chính viễn thông liên ngân hàng toàn
cầu, thông báo và thực hiện dịch vụ cho khách hàng, ngân hàng, người môi giới
chứng khoán thông qua phương thức chuyển tiền điện tử. Tiếp đến vào tháng
5/2002 xuất hiện hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Sau đó, các ngân
hàng bắt đầu áp dụng các dịch vụ cơ bản của ngân hàng điện tử như
Techcombank, Vietcombank,... Hệ thống ATM và POS cũng ngày càng nhân
rộng và phát triển, số lượng thẻ ATM được phát hành lên đến con số hàng triệu,
nhất là bây giờ việc phát lương được thực hiện thông qua thẻ ATM cho các nhân
viên văn phòng, giáo viên, ngay cả các anh chị em công nhân ở các khu chế xuất
cũng có thẻ ATM để thực hiện các giao dịch ngoài việc nhận lương hàng tháng.

Hơn thế nữa, dần dần các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài như ANZ,
CitiBank, HSBC, Deutsch Bank cũng đã cung cấp các dịch vụ E-Banking nhưng
chỉ dừng lại ở khách hàng là doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, các ngân
hàng trong nước và nước ngoài cũng đã tăng cường áp dụng nhiều hình thức
khác nhau của E-Banking để phục vụ khách hàng tốt hơn, làm giảm nhiều chi
phí, làm cho lượng tiền tệ của quốc gia lưu thông dễ dàng hơn. Tuy vậy, người
7


dân VN vẫn còn chưa quen với việc sử dụng phương thức này vì còn khá nhiều
người thiếu kiến thức về CNTT lẫn các dịch vụ ngân hàng cung cấp.
Tiếp theo đây là phân tích cụ thể những thành tựu của con người trong
việc tạo ra E-Banking, chứng tỏ một thời đại CNTT đang chiếm lĩnh hầu hết các
lĩnh vực có liên quan đến ngân hàng. Trong tài liệu này có sử dụng một số tài
liệu tham khảo, ở cuối tài liệu chúng tôi đã có cập nhật các đường link tài liệu để
độc giả có thể tham khảo thêm.
II. CÁC SẢN PHẨM, DỊCH VỤ CỦA E-BANKING.
Các loại thẻ (Plastic money).
Plastic money (thông tục: thẻ tín dụng) là các loại thẻ bằng nhựa dùng để
thay thế cho tiền mặt. Hầu hết các ngân hàng lớn trên thế giới hiện nay đều phát
hành loại thẻ này với ba công dụng chính:
• Bảo chi séc (check), ngân hàng đảm bảo thanh toán khoản tiền ghi trên
check do khách hàng phát hành với hạn mức xác định.
• Rút tiền mặt tại các máy ATM.
• Thanh toán hóa đơn hàng hóa dịch vụ bằng chuyển tiền điện tử tại các
điểm bán hàng ( Electronic Funds Transfer at Point of Sale - EFTPOS).
Thông thường chủ thẻ (card holder) phải trả phí hàng năm để bù lại các
chi phí mà ngân hàng duy trì tài khoản và phát hành thẻ, ngoài ra các ngân hàng
còn thu phí giao dịch tại các máy ATM tùy thuộc vào máy đó có thuộc ngân
hàng đó sở hữu hay không, vì hiện nay các ngân hàng đang liên kết với nhau để

tạo sự thuận lợi trong việc giao dịch với nhiều bên, minh chứng cho thấy đó là
mặc dù thẻ của ngân hàng này nhưng giao dịch được tại các máy ATM của ngân
hàng khác mà nó liên kết.
1. Credit Card - CC (THẺ GHI CÓ hay THẺ TÍN DỤNG).
Khái niệm.
CC là loại thẻ mang tính chất của một hình thức cấp tín dụng hay còn gọi
là cho vay đối với chủ thẻ, tức là thẻ này dùng để cho người mở thẻ được vay
một hạn mức tín dụng dùng cho việc thanh toán khi mua hàng hóa và dịch vụ
sau đó ngân hàng sẽ thu lại số tiền mà chủ thẻ đã mua, tùy theo ngân hàng mà
8


chủ thẻ sẽ trả số tiền tối thiểu là bao nhiêu phần trăm hay trả toàn bộ trong một
thời hạn nhất định, thông thường tối đa là 45 ngày. Ở đây có 2 trường hợp, nếu
chủ thẻ trả toàn bộ số tiền theo đúng hạn thì ngân hàng không tính lãi, còn nếu
trả không đúng hạn ngân hàng sẽ tự động tính lãi, coi như số tiền mà chủ thẻ
chưa trả là số tiền vay, và mức lãi thường khá cao từ 12%/năm trở lên. Ngoài ra,
các loại thẻ này đều có thời hạn sử dụng, tại Việt Nam là 3 năm.
Ở nước ngoài, nếu chủ thẻ là người có việc làm ổn định và có xác nhận
của Công ty thì có quyền được làm thẻ mà không cần thế chấp, tín chấp. Ở Việt
Nam, đối với ngân hàng tín nhiệm được đặt lên hàng đầu, vì thế nếu muốn mở
thẻ này thì chủ thẻ sẽ phải mở một tài khoản tiền gửi, yêu cầu ký quỹ hay thế
chấp để đảm bảo chủ thẻ sẽ hoàn trả số tiền được cấp. Tuy nhiên, số tiền ký quỹ
hay thế chấp vẫn được hưởng lãi suất tiền gửi như bình thường, nhưng khi đến
hạn thanh toán cho ngân hàng thì không được trừ vào tiền ký quỹ, thế chấp. Một
điểm đặc biệt đó là: CC tại VN có hai hạn mức tín dụng đó là: hạn mức chuẩn và
hạn mức vàng, ở một số ngân hàng cũng có thêm hạn mức Platinum hay còn gọi
hạn mức bạch kim. Các hạn mức này tùy thuộc vào số tiền mà chủ thẻ ký quỹ,
tín chấp hay thế chấp.
Thí dụ điển hình đó là ngân hàng ACB - Ngân hàng thương mại cổ phần

Á Châu, CC có 3 hạn mức tín dụng: chuẩn, vàng, Platinum. (Để biết thêm chi
tiết xin xem tại />• Thẻ chuẩn: hạn mức từ 10 triệu - 50 triệu.
• Thẻ vàng: hạn mức từ 30 triệu - 500 triệu.
• Thẻ Platinum: hạn mức từ 200 triệu trở lên.

9


Hình 1. Các loại thẻ tín dụng của ngân hàng ACB
Hiện nay, các công ty phát hành thẻ hàng đầu thế giới có thể kể đến đó là:
Master Card, Visa Card, American Express, JCB, Access... Các ngân hàng
tại VN chỉ là những đại lý phát hành thẻ cho các công ty này (như hình bên cho
thấy các thẻ đều có thương hiệu của Master Card hay Visa card), vì các ngân
hàng này đảm bảo được cở sở hạ tầng và trình độ quản lý của CNTT, khi đó chủ
thẻ có thể mua hàng tại bất cứ nơi đâu có chấp nhận thanh toán bằng CC trong
nước lẫn ngoài nước chẳng hạn như: nhà hàng, khách sạn, shopping center, cửa
hàng thức ăn nhanh, khu du lịch, bệnh viện, club, sân bay... Ngoài ra, chủ thẻ
cũng có thể thanh toán các hóa đơn như điện, nước, Internet, truyền hình cáp,...
thông qua dịch vụ của ngân hàng phát hành thẻ cung cấp. Điều lưu ý là ở Việt
Nam, CC có 2 loại: trong nước (thanh toán tại các cửa hàng trong VN) và quốc
tế (thanh toán tại bất cứ cửa hàng nào trong nước lẫn ngoài nước chấp nhận thẻ
CC).
Quy trình thanh toán.
Khi một khách hàng mua sắm một hàng hóa hay dịch vụ tại nơi chấp nhận
thanh toán bằng CC, người bán háng sẽ mượn thẻ của khách để lấy các thông tin
như: số thẻ hạn mức tín dụng, thời hạn hết hạn, sau đó khách hàng ký tên vào
biên lai mà người bán sẽ giữ biên lai này để nhận tiền thanh toán từ công ty thẻ.
Người bán sẽ phải trả 4% giá trị tiền hàng cho công ty thẻ. Hàng tháng ngân
hàng sẽ gửi bản sao kê (statement) cho chủ thẻ liệt kê các giao dịch trong tháng
và tiền lãi phải trả (nếu có).

Ngân hàng cũng có giữ biên lai mà người mua ký, trong kế toán, NH sẽ
ghi CÓ vào tài khoản của người bán hàng tồng số tiền bán hàng, ghi NỢ vào tài
khoản của công ty thẻ và gửi biên lai đến công ty thẻ. Sau khi nhận được biên
lai, họ sẽ thanh toán cho ngân hàng thông qua hệ thống bù trừ tổng số tiền bán
hàng của mỗi cửa hàng trừ đi phần hoa hồng, đồng thời công ty thẻ tín dụng ghi
NỢ vào tài khoản của chủ thẻ gửi cho họ hóa đơn thanh toán hàng tháng.

10


2. Debit Card - DC (THẺ GHI NỢ).
Khái niệm.
DC là loại thẻ có chức năng tương tự như CC nhưng khác ở chỗ: chủ thẻ
phải mở tài khoản tiền gửi, nếu chủ thẻ thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ
thì sẽ trừ trực tiếp trên số tiền đã gửi trong thẻ, khi đó số dư tài khoản trong thẻ
sẽ bị giảm xuống, còn đối với CC thì số dư sẽ tăng lên.
Ngoài các tiện ích như: rút tiền tại các máy ATM co logo của thẻ (Master
Card hay Visa Card), thanh toán tại 30 triệu điểm trên toàn thế giới tại 220 quốc
gia, chủ thẻ có thể dễ dàng kiểm soát chi tiêu mà không lo nợ phải trả hay tiền
lãi do ngân hàng tính bởi vì thanh toán trên tổng số tiền có trong thẻ, hơn nữa lại
còn được ngân hàng trả lãi hàng tháng trên số tiền chưa sử dụng. Bên cạnh đó,
một tiện ích mà CC không có đó là có thể chuyển khoản từ tài khoản tiền gừi
sang tài khoản khác.
Tại Việt Nam, DC cũng có 2 loại: trong nước và quốc tế, cả 2 đều có chức
năng giống nhau nhưng phạm vi là khác nhau tạo sự đa dạng sản phẩm cho
khách hàng lựa chọn phù hợp với tính chất công việc của mỗi người.
Eximbank - Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam là một trong những
ngân hàng cổ phần đầu tiên của Việt Nam có vốn điều lệ là 10.560 tỷ đồng, cung
cấp đầu đủ các sản phẩm, dịch vụ mang tầm cỡ quốc tế.


Hình 2. Thẻ Visa Debit quốc tế

Hình 3. Thẻ V-TOP (Visa Debit nội địa)

Quy trình thanh toán
Thanh toán bằng DC cũng tương tự như CC, khi hách hàng mua hàng hóa,
dịch vụ tại nơi chấp nhận thẻ, chủ thẻ chỉ việc đưa thẻ cho nhân viên bán hàng
quẹt vào máy đọc như đã giới thiệu ở trên, nhân viên sẽ nhập đúng số tiền hàng
hóa dịch vụ phải thanh toán. Một tiện lợi hơn nữa của DC đó là, chủ thẻ có thể
rút tiền mặt tại các máy này, bằng cách tự nhập mã PIN vào máy và nhập số tiền
11


rút, số tiền này phải lớn hơn số tiền phải thanh toán, sau đó máy tự kiểm tra
thông tin :số tài khoản, số dư. Cuối cùng máy sẽ in hóa đơn, số tiền sẽ trừ vào tài
khoản.
EFTPOS - Hệ thống thanh toán tại các điểm bán hàng.
3. Khái niệm
EFTPOS hay còn gọi là dịch vụ chuyển tiền điện tử tại điểm bán hàng
( POS - Point of Sale: địa điểm bán hàng chấp nhận thanh toán bằng các loại
thẻ). Các điểm này đều trang bị máy tình tiền bằng thẻ như đã nói ở quy trình
thanh toán của CC. Số tiền trả sẽ được chuyển từ ngân hàng của người mua sang
ngân hàng của người bán. Điểm bán hàng là nhà hàng, khách sạn, shopping
center, cửa hàng thức ăn nhanh, khu du lịch, trạm xăng. Riêng về trạm xăng thì
mới xuất hiện tại Việt Nam, hiện tại chỉ có Petrolimex - Tổng công ty xăng dầu
Việt Nam phối hợp cùng với PG Bank - Ngân hàng thương mại cổ phần
Petrolimex phát hành thẻ Flexicard, chủ thẻ có thể thanh toán tiền xăng, dầu
bằng cách quẹt thẻ tại máy của trạm xăng mà không phải mắc công lấy tiền mặt
ra trả, mất thời gian và làm người khác phải chờ đợi lâu.
4. Quy trình thanh toán.

Các thông tin thẻ sẽ được máy chuyển về Tổng đài trung tâm, chủ thẻ có
thể yên tâm về tài khoản của mình vì thông tin thẻ đã được mã hóa để người
khác không biết được. Tử đây, Tổng đài sẽ gửi chúng đến bộ xử lý của ngân
hàng của chủ thẻ để kiểm tra các thông tin sau:
• Số thẻ.
• Thẻ đã báo mất bao giờ chưa.
• Tổng số tiền phải thanh toán.
• Có đủ tiền trên tài khoản của khách hàng không.
• Mã số nhận diện của người bán (nơi chấp nhận thẻ).
• Số thiết bị thanh toán của người bán.
Nếu các thông tin trên hợp lệ, bộ xử lý sẽ gửi số cấp phép đã được mã hóa
tới Tổng đài trung tâm và từ đây sẽ gửi thông báo tới cửa hàng. Máy quẹt thẻ sẽ
12


in ra biên nhận trên đó có số cấp phép. Khách hàng ký tên lên biên nhận và có
thể mang hàng đi, đồng thời Tổng đài trung tâm sẽ gửi tổng số tiền đến ngân
hàng của người bán. Trường hợp không lấy được số cấp phép thì chủ thẻ phải
thanh toán bằng hình thức khác, có thể là chuyển khoản hoặc tiền mặt.

Hình 5. Thanh toán bằng thẻ
5. Tình hình thanh toán bằng thẻ tại Việt Nam.
Nhìn chung tại Việt Nam, sử dụng tiền mặt thanh toán là một phương thức
thông dụng của người tiêu dùng mặc dù các điểm chấp nhận thẻ ngày càng xuất
hiện nhiều, từ trung tâm bán lẻ hiện đại đến các cửa hàng 24/7 (cửa hàng mở cửa
liên tục suốt 24 giờ như một siêu thị nhỏ, tại VN Shop & Go 24h là cửa hàng
điển hình nhất). Theo báo cáo gần đây nhất của Euromonitor International tháng
12/2010 khẳng định tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán chính trong các giao
dịch bán lẻ của người dân Việt.


Hình 6. Báo cáo của Euromonitor International
Điều này cho thấy thói quen của người VN khi sử dụng thẻ của các ngân
hàng mới chỉ sử dụng một phần chức năng rất nhỏ của thẻ, chủ yếu trong giao
dịch và rút tiền mặt tại các máy giao dịch tự động. Hai chức năng quan trọng của
13


thẻ là thanh toán tại các điểm bán hàng offline và thanh toán trực tuyến tại các
website bán hàng qua mạng chưa được các ngân hàng hiện nay chú trọng xây
dựng.
Có đủ lý do ngại dùng thẻ mà nhiều người chia sẻ. Dễ bị ăn cắp thông tin,
bị mất tiền… thuộc loại lo ngại hàng đầu. Khi có ý định làm thẻ, nhìn biểu phí
dịch vụ, thấy đủ loại phí như phí tra cứu số dư, phí cấp lại mã PIN, phí cấp bản
sao thông tin giao dịch…, trong đó phí rút tiền mặt có thể lên tới 4% (tối thiểu
40.000 đồng), phí giao dịch 2,75%…, chưa kể các thủ tục ngân hàng không phải
lúc nào cũng dễ hiểu khiến ý định dùng thẻ mới nhen nhóm của nhiều người tắt
lụi.
Chuyện thu phí 2-3% trên giá trị mỗi giao dịch đối với người dùng thẻ là
một sự “hiểu lầm”. Theo quy định của các tổ chức phát hành thẻ hiện hay, ngân
hàng sẽ không thu khoản phí này từ chủ thẻ mà thu của điểm chấp nhận thẻ
(POS). Ngoài khoản phí duy trì thẻ thường niên, hầu như chủ thẻ không phải trả
thêm khoản phí nào. Khi thanh toán, nếu thấy đại lý thu thêm phí giao dịch,
khách hàng có thể thông báo để tổ chức thẻ xử lý. Dù vậy trên thực tế, nhiều cửa
hàng, nhà hàng vẫn đẩy khoản phí này sang cho khách hàng chịu, có nơi còn thu
lố lên 5%.
Những trường hợp bị thu hồi máy POS vì thu phí giao dịch của khách
hàng như nhà hàng Ngon ở TP.HCM rất hiếm hoi. Các ngân hàng tuy dễ dàng
phát hiện được hiện tượng này nhưng vì muốn mở rộng mạng lưới thanh toán
thẻ nên chủ yếu chỉ áp dụng hình thức nhắc nhở.
Máy rút tiền tự động (ATM - Automated Teller Machine).

Đúng như tên gọi, các máy rút tiền tự động (ATM) cho phép khách hàng
tự mình rút tiền mà không cần sự trợ giúp nào của nhân viên ngân hàng. Khách
hàng dùng các loại thẻ nhựa như đã nói ở phần trên đưa vào máy ATM (lưu ý thẻ
ATM là một dạng của thẻ ghi nợ hay còn gọi là cash card) các máy này sẽ nhận
dạng khách hàng thông qua mã số nhận dạng cá nhân (PIN - Personal
Identification Number) mà khách hàng nhập trên bàn phím của máy.

14


Ngoài chức năng cơ bản cho phép khách hàng rút tiền mặt, in sao kê,
chuyển khoản, nhiều ngân hàng đã bổ sung thêm dịch vụ gửi tiền mặt, gửi
ngân phiếu vào tài khoản, thanh toán tiền điện, nước, điện thoại, mua thẻ cào
điện thoại di động hay các giao dịch điện tử trực tiếp khác cho các máy rút tiền
tự động. Máy rút tiền tự động, phối hợp với thẻ ATM (thẻ ghi nợ), khuyến khích
người dân sử dụng dịch vụ ngân hàng cho chi tiêu hàng ngày. Một ví dụ là các
công ty, tổ chức, trường học có thể trả lương nhân viên qua tài khoản ngân hàng,
và người nhận lương có thể lấy tiền mặt từ tài khoản qua các máy thay vì phải
giao dịch với nhân viên ngân hàng. Thêm vào đó, máy cũng hạn chế phần nào
việc sử dụng tiền mặt trong thanh khoản.
Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Telephone - Banking).
Trong phương thức giao dịch ngân hàng truyền thống, khách hàng khi cần
thông tin về tài khoản của mình cũng như các thông tin khác về dịch vụ ngân
hàng đều phải trực tiếp tới ngân hàng vào giờ giao dịch. Điều này thực sự tốn rất
nhiều thời gian của khách hàng, nhất là những khách hàng ở xa hoặc không có
điều kiện đến giao dịch trực tiếp. Thậm chí chỉ vì thiếu thông tin cập nhật về tỷ
giá hối đoái hay lãi suất vay, nhiều doanh nghiệp bị tuột mất những cơ hội kinh
doanh tốt hay dẫn đến các quyết định kinh doanh sai lầm. Sự ra đời của dịch vụ
telephone banking đã thực sự giải thoát cho các khách hàng nói chung và các
doanh nghiệp nói riêng khỏi các vướng mắc trên.

6. Khái niệm.
Telephone banking là một tiện ích ngân hàng mà khi sử dụng nó khách
hàng chỉ cần dùng hệ thống điện thoại thông thường. Với dịch vụ này, khách
hàng có thể mọi lúc mọi nơi, dùng điện thoại cố định hay di động đều có thể
nghe được các thông tin về sản phẩm dịch vụ ngân hàng, thông tin tài khoản của
mình và thậm chí có thể thực hiện được một số loại giao dịch. Đây là hệ thống
trả lời tự động, hoạt động 24/24 giờ trong ngày, 7 ngày trong một tuần, 365 ngày
trong một năm nên khách hàng hoàn toàn chủ động sử dụng khi cần thiết. Khách
hàng chỉ cần gọi vào số tổng đài của ngân hàng và làm theo hướng dẫn của hệ
thống chọn thông tin cần nghe bằng cách bấm bàn phím số trên điện thoại từ 0 15


9 để nắm bắt các thông tin khác nhau về sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng
hiện đang cung cấp.
7. Tiện ích.
Phương thức này dành cho 2 loại khách hàng: khách hàng chưa có tài
khoản tại ngân hàng đó và khách hàng đã có tài khoản và hiện đang sử dụng các
dịch vụ ngân hàng. Vì thế, tổng đài điện thoại chỉ trả lời cho khách hàng không
có tài khoản những thông tin chung như: các loại lãi suất, điều kiện mở thẻ, biểu
phí ... Còn với khách hàng có tài khoản thì khác, khi sử dụng telephone banking,
khách hàng có thể:
• Kiểm tra các thông tin về tài khoản của mình như số dư tài khoản, các
giao dịch trên tài khoản trong một khoảng thời gian nhất định (được quy định
tùy theo từng ngân hàng - có ngân hàng cho phép khách hàng kiểm tra được các
giao dịch trong vòng ba tháng gần nhất).
• Chuyển tiền giữa các tài khoản khác nhau của cùng khách hàng trong
cùng ngân hàng (một số ngân hàng còn cho phép khách hàng chuyển tiền từ tài
khoản của mình sang tài khoản của các thành viên khác trong gia đình nếu như
họ cũng có tài khoản trong ngân hàng đó).
• Thanh toán các hoá đơn định kỳ như tiền điện, tiền điện thoại, phí truy

cập internet, thanh toán hoá đơn thẻ tín dụng, …
• Yêu cầu, sửa đổi hoặc hủy Lệnh Thanh toán định kỳ (Standing Orders)
và Lệnh Thanh toán trực tiếp (Direct Debits). Với tiện ích này của telephone
banking, khách hàng sẽ không phải nhớ các khoản thanh toán định kỳ với số tiền
cố định như phí bảo hiểm, phí hội viên, tiền mua trả góp,… mà vẫn đảm bảo
thanh toán đúng hạn.
• Yêu cầu phát hành lại thẻ hoặc PIN (mã số nhận dạng cá nhân).
• Yêu cầu một khoản vay cá nhân (personal loan) - tới một hạn mức xác
định của ngân hàng.
• Yêu cầu rút thấu chi (overdraft) - tới một hạn mức xác định của ngân
hàng.
16


• Thoả thuận các yêu cầu mới hoặc bổ sung về thế chấp Đặt mua ngoại tệ
hoặc séc du lịch (travellers cheques).
• Yêu cầu chuyển tiền ra nước ngoài - tới một hạn mức xác định của ngân
hàng.
• Đặt mua hối phiếu (bank drafts) - tới một hạn mức xác định của ngân
hàng.
• Thông tin về số dư lưu ký chứng khoán.
• Thông tin kết quả khớp lệnh của các phiên giao dịch gần nhất Thông tin
về các lệnh đặt mua, đặt bán chứng khoán gần nhất Thay đổi địa chỉ liên lạc.
• Yêu cầu báo cáo tài khoản, sổ séc…
• Yêu cầu ngân hàng fax bản tỷ giá, giá chứng khoán, bản lãi suất tiền
gửi…Khi dùng dịch vụ này, khách hàng cần liên hệ trước với ngân hàng để đăng
ký số fax của mình.
8. Chi phí sử dụng.
Telephone banking là một trong những dịch vụ ngân hàng đem lại nhiều
tiện ích cho người sử dụng với chi phí thấp nhất. Để sử dụng dịch vụ này, khách

hàng không cần mua thêm một thiết bị đặc biệt nào mà chỉ cần dùng hệ thống
điện thoại thông thường. Hầu hết các ngân hàng cung cấp dịch vụ này miễn phí,
khách hàng chỉ phải trả cước phí điện thoại cho bưu điện. Tuy nhiên nếu khách
hàng sử dụng dịch vụ fax của telephone banking sẽ phải tính theo biểu phí cụ thể
của ngân hàng.
Với hệ thống telephone banking, khách hàng sẽ tiết kiệm được rất nhiều
thời gian, không cần đến ngân hàng vẫn giám sát được các giao dịch phát sinh
trên tài khoản của mình mọi lúc kể cả ngoài giờ hành chính, mọi nơi trong phạm
vi cả nước và quốc tế. Dù khách hàng đang ở nhà, ở cơ quan hay đang đi công
tác nước ngoài cũng có thể kiểm soát được các giao dịch trên tài khoản của
mình, cập nhật thông tin về sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng vào bất cứ thời
điểm nào thích hợp nhất với họ.

17


Dịch vụ ngân hàng qua mạng máy tính toàn cầu (Internet - Banking).
9. Khái niệm.
Internet banking là một loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại và còn khá
mới mẻ. Nó cho phép khách hàng có thể giao dịch ngân hàng thông qua mạng
Internet vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu mà khách hàng cho là phù hợp nhất. Do
đó, khách hàng có thể làm giao dịch 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong tuần tại nhà
riêng hoặc ở văn phòng, khi đang trong nước hay đi nước ngoài. Sự ra đời của
internet banking thực sự là một cuộc cách mạng, nó thúc đẩy các giao dịch xảy
ra nhanh hơn, tiết kiệm được rất nhiều thời gian và tiền của cho cả khách hàng
lẫn ngân hàng và cho xã hội nói chung.
Để sử dụng dịch vụ này khách hàng cũng cần có máy tính, modem, đường
điện thoại truy cập. Tuy nhiên, khi sử dụng dịch vụ này, khách hàng không cần
cài đặt thêm một phần mềm đặc biệt nào mà chỉ cần truy cập trực tiếp vào trang
web của ngân hàng.

10. Cách thức sử dụng.
• Trước hết khách hàng cần phải mở một tài khoản giao dịch (tài khoản
vãng lai hoặc tiền gửi không kỳ hạn) tại ngân hàng.
• Sau đó, khách hàng sẽ đăng ký sử dụng dịch vụ internet banking với
ngân hàng. Trong đơn đăng ký sử dụng internet banking, khách hàng cần cung
cấp các thông tin cá nhân như họ và tên, giới tính, ngày tháng năm sinh, địa chỉ
và số điện thoại liên hệ, các số tài khoản mà khách hàng muốn sử dụng internet
banking và quan trọng nhất là mật khẩu an toàn (security password). Mật khẩu
an toàn này (có thể bao gồm chữ và/hoặc số) do khách hàng tự đặt ra và được
lưu lại trong hệ thống máy tính của ngân hàng.
• Bước tiếp theo, ngân hàng sẽ liên lạc lại với khách hàng (bằng thư hoặc
email…) để báo cho họ biết mã số đăng ký khách hàng (còn gọi là số CRN hay
Customer Registration Number) và số điện thoại của Trung tâm hỗ trợ khách
hàng về internet banking.
• Sau đó, khách hàng sẽ gọi điện tới ngân hàng theo số điện thoại này để
lấy mật khẩu tạm thời để sử dụng internet banking. Trước khi cung cấp mật khẩu
18


tạm thời, nhân viên ngân hàng phải xác nhận được người đang liên hệ chính là
chủ tài khoản bằng cách hỏi mật khẩu an toàn và một số thông tin cá nhân khác
mà khách hàng đã cung cấp khi đăng ký. Lúc này khách hàng có thể bắt đầu sử
dụng dịch vụ internet banking.
11. Tiện ích.
• Kiểm tra số dư.
• Xem thông tin về tài khoản như số dư hiện tại (current balances) và số
dư có thể sử dụng (available balances); lãi suất …
• Xem thông tin về các giao dịch đã thực hiện trên tài khoản.
• Tìm kiếm thông tin về một giao dịch cụ thể nào đó, ví dụ: số séc, số tiền
và ngày séc đó được thanh toán…

• Chuyển tiền giữa các tài khoản trong cùng hệ thống ngân hàng Làm lệnh
thanh toán.
• Thanh toán hoá đơn.
• Xem chi tiết và sửa đổi các lệnh thanh toán định kỳ (standing orders) và
lệnh ghi nợ trực tiếp (Direct Debit).
• Xem số dư và các giao dịch trên thẻ tín dụng Yêu cầu ngừng thanh toán
séc.
• Chuyển các thông tin dữ liệu từ internet banking xuống phần mềm kế
toán riêng của mình như Quicken hay Microsoft Money …
• Thông báo thay đổi địa chỉ liên lạc…
• Thông báo định kỳ bằng e-mail khi số dư tài khoản đạt đến mức tối đa
hay tối thiểu mà khách hàng đặt ra từ trước.
Dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây (Mobilebanking).
Đây là loại dịch vụ ngân hàng điện tử mới nhất hiện nay dựa trên công
nghệ điện tử viễn thông không dây của mạng điện thoại di động. Thực chất dịch
vụ này chính là sự kết nối điện thoại di động của khách hàng với trung tâm cung
cấp dịch vụ ngân hàng điện tử và kết nối Internet trên điện thoại di động sử dụng

19


giao thức truyền thông WAP (Wireless Application Protocol). Sử dụng dịch vụ
M - banking, khách hàng có thể thực hiện được các loại giao dịch sau:
• Kiểm tra số dư tài khoản.
• Xem chi tiết khoảng chục giao dịch gần nhất trên tài khoản.
• Xem chi tiết các lệnh thanh toán định kỳ (standing order).
• Xem chi tiết các lệnh thanh toán trực tiếp (direct debit)…
Ngoài ra, khách hàng còn có thể truy cập để xem các thông tin cập nhật về
sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, lãi suất tiết kiệm, tỷ giá hối đoái, địa điểm các
máy ATM gần nhất, địa chỉ các chi nhánh của ngân hàng...

Xu hướng phát triển nhanh chóng của điện thoại di động cùng với tính an
toàn và tiện lợi của dịch vụ ngân hàng qua mạng viễn thông không dây đã mở ra
triển vọng đầy hứa hẹn cho loại hình dịch vụ ngân hàng điện tử mới mẻ này.
Dịch vụ ngân hàng qua vô tuyến truyền hình tương tác (Interactive
TV).
Vô tuyến truyền hình tương tác (Interactive TV hay còn gọi là iTV) là
một dịch vụ hết sức mới mẻ và còn đang trong bước thử nghiệm tại các nước
phát triển. Đây là một loại dịch vụ có tính hai chiều được cung cấp thông qua hệ
thống truyền hình kỹ thuật số. Thông tin không chỉ đi một chiều từ đài truyền
hình tới các khán giả mà còn cả theo chiều ngược lại. Với dịch vụ này, khán giả
không còn thụ động ngồi xem các chương trình do đài truyền hình phát mà họ
hoàn toàn chủ động trong việc xem gì, khi nào. Ví dụ, khán giả có thể lấy thêm
các thông tin chi tiết hơn về một bộ phim tài liệu nào đó đang phát hoặc thông
qua bộ điều khiển từ xa có thể gửi ý kiến phản hồi về đài truyền hình.
Một trong những tiện ích mà dịch vụ vô tuyến truyền hình tương tác có
thể cung cấp cho khán giả là T-commerce (tạm dịch là Thương mại truyền hình).
Thông qua dịch vụ này mà các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ nói chung và
ngân hàng nói riêng có thể tiếp cận một số lượng lớn khách hàng. Để sử dụng
dịch vụ ngân hàng qua hệ thống vô tuyến truyền hình tương tác, khách hàng có

20


thể sử dụng bộ điều khiển từ xa hoặc một thiết bị đặc biệt được thiết kế riêng để
nhập mã số nhận dạng hoặc mật khẩu.
Đây là một loại hình dịch vụ đang được các công ty cung cấp dịch vụ, sản
phẩm đặc biệt quan tâm vì hầu như gia đình nào cũng có vô tuyến nên họ có thể
giới thiệu và bán sản phẩm, dịch vụ của mình với mức tối đa và hiệu quả nhất.
Hơn nữa một điểm đặc biệt của hệ thống truyền hình tương tác là nó có một bộ
xử lý thông tin đặc biệt có khả năng phân tích các dạng thông tin phản hồi từ

phía khản giả như các loại thông tin, chương trình mà khách hàng hay quan tâm.
Từ đó các nhà cung cấp dịch vụ có thể nắm rõ và chính xác nhất tâm lý, nhu cầu,
thị hiếu của khách hàng. Đây là những thông tin cực kỳ quý giá giúp cho họ cải
tiến sản phẩm, dịch vụ sao cho hấp dẫn khách hàng hơn.
Tuy nhiên, nhiều người còn e ngại khi sử dụng dịch vụ này vì có ý kiến
cho rằng sự bảo mật và riêng tư không được đảm bảo. Với lại công nghệ này cần
phải có sự đầu tư của cơ sở vật chất CNTT tốt, cho nên ở các nước nghèo và
đang phát triển thì loại hình này vượt quá tầm.
III. CÁC NGÂN HÀNG CUNG CẤP DỊCH VỤ E - BANKING TẠI
VIỆT NAM.
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - ACB.
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu có tên giao dịch quốc tế là Asia
Commercial Joint Stock Bank (viết tắt là ACB) chính thức đi vào hoạt động kể
từ ngày 04/06/1993 với vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng. Ra đời khi nền kinh tế
đang còn nhiều khó khăn và biến động, hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế,
tài chính vĩ mô chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ và còn chứa đựng nhiều rủi ro
cho hoạt động ngân hàng nên khi mới thành lập ACB đã phải nỗ lực rất nhiều.
Sau gần mười năm hoạt động, đến nay ACB đã thực sự trở thành ngân hàng
thương mại cổ phần uy tín hàng đầu Việt Nam về tốc độ tăng trưởng vượt bậc và
chất lượng dịch vụ khách hàng. Hiện nay, ACB có 3 cổ đông nước ngoài là:
• Connaught Investors Ltd (thuộc tập đoàn Jardine Matheson).
• LG Investment & Securities Co. Ltd.
• Dragon Financial Holdings Ltd.
21


ACB đã không ngừng mở rộng mạng lưới hoạt động, cho đến nay ngoài
Hội sở chính tại 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3, TP Hồ Chí Minh, Ngân
hàng có 21 chi nhánh, Công ty Chứng khoán ACB, Trung tâm thẻ ACB, Trung
tâm chuyển tiền nhanh Western Union. Đến cuối năm 2002, ACB có quan hệ đại

lý với 434 ngân hàng tại 75 quốc gia trên khắp thế giới. Hiện nay ACB đã có 4
trung tâm giao dịch ACB-Western Union và hơn 2000 đại lý chấp nhận thanh
toán thẻ tín dụng ACB trên cả nước. Đạt được những thành tựu trên là nhờ Ban
lãnh đạo của ACB đã nhạy bén, kịp thời xác định đúng hướng đi cho sự phát
triển. Nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ hiện đại trong việc nâng
cao chất lượng và phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu
khắt khe của khách hàng, ACB đã mạnh dạn áp dụng công nghệ tiên tiến. Đến
cuối năm 2002, hệ quản trị nghiệp vụ ngân hàng TCBS (The Complete Banking
Solution) ứng dụng công nghệ thông tin tại ACB đã chính thức vận hành, đưa
ACB trở thành ngân hàng thương mại cổ phần có hàm lượng công nghệ thông
tin cao nhất trong các mặt hoạt động.
Với TCBS, mục tiêu cốt lõi là giúp Ban quản trị quản lý hiệu quả hơn các
mặt hoạt động của ngân hàng, đồng thời chăm sóc khách hàng tốt hơn bằng các
dịch vụ tiện ích do TCBS mang lại. Ứng dụng đầu tiên của TCBS là dịch vụ
Ngân hàng qua điện thoại (Phone Banking) cung cấp các thông tin cho khách
hàng và tỉ giá, lãi suất, tình hình chứng khoán, tài khoản và giao dịch. Bên cạnh
dịch vụ Phone Banking, dịch vụ ngân hàng qua Internet (Internet banking) cho
phép khách hàng sử dụng không giới hạn các dịch vụ ngân hàng. Ngoài việc truy
cập tìm kiếm thông tin, cả hai dịch vụ này đêù cho phép khách hàng ngồi tại nhà
có thể thực hiện một số giao dịch với ngân hàng.
Ngân hàng Đông Á - Dong A Bank.
Bên cạnh kênh giao dịch truyền thống tại hệ thống chi nhánh, phòng giao
dịch và kênh giao dịch tự động với máy ATM/POS, DongA Bank còn phát triển
kênh giao dịch điện tử. Ứng dụng công nghệ hiện đại, Ngân Hàng Đông Á Điện
Tử - DongA eBanking giúp Khách hàng dễ dàng thực hiện các giao dịch tài

22


chính - ngân hàng qua các phương tiện điện tử như máy tính nối mạng internet,

điện thoại di động, điện thoại bàn với các ưu điểm vượt trội:
Tiết kiệm thời gian đi lại, giao dịch nhanh chóng, thuận tiện. Giúp Khách
hàng làm chủ nguồn tài chính mọi lúc, mọi nơi. Bảo mật và an toàn tuyệt đối.
Khách hàng có thể giao dịch cùng DongA eBanking bằng 4 phương thức
sau:
1. Internet Banking: Giao dịch qua website:
bằng:
Máy vi tính có kết nối Internet.
Điện thoại di động có kết nối GPRS/Wifi/3G (ứng dụng DongA Mobile
Internet Banking).
2. Mobile Banking: Giao dịch qua ứng dụng DongA Mobile Banking
được cài vào điện thoại di động.
3. SMS Banking: Giao dịch qua tin nhắn theo cú pháp quy định và gửi
đến tổng đài 1900 54 54 64 hoặc 8149.
4. Phone Banking: Giao dịch bằng cách gọi đến tổng đài tự động 1900
54 54 64.
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam - Vietcombank.
Những năm gần đây, thực hiện yêu cầu cơ cấu lại các ngân hàng thương
mại quốc doanh, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu các
ngân hàng trong nước về phát triển các dịch vụ tiện ích ngân hàng hiện đại bằng
cách áp dụng công nghệ thông tin và đã theo sát được yêu cầu của một ngân
hàng thương mại có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Trong 6 năm liên tiếp, từ 1995
đến 2002, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được Ngân hàng JP Morgan
Chase công nhận là "Ngân hàng có chất lượng dịch vụ thanh toán tốt nhất" trong
khu vực. Có thể coi Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng đi đầu tạo
nên một sự thúc đẩy và lôi cuốn để các ngân hàng thương mại quốc doanh và
các ngân hàng thương mại khác trong nước cùng với mình thực hiện thành công
sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong giai đoạn hội nhập khu vực và
quốc tế hiện nay. VCB thực hiện vai trò đại lý thanh toán, sau đó là đại lý phát
23



hành các loại thẻ tín dụng quốc tế (Visa và Master vào tháng 4/1996, AMEX vào
tháng 9/1996), phát hành thẻ tín dụng VCB-VISA (1998).
Đặc biệt, vào tháng 5/2002, với việc khai trương hệ thống ngân hàng trực
tuyến (VCB-Online) và hệ thống rút tiền tự động (ATM) đã mang lại tầm vóc
mới về công nghệ ngân hàng được áp dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam, nó cũng mang lại cho khách hàng những tiện ích khi mọi giao dịch được
thực hiện tức thì không cần qua khâu trung gian nào. Khách hàng có thể tự thực
hiện các giao dịch tại máy ATM gần nhất để sử dụng các dịch vụ tự động hoá có
tính chính xác cao. Còn hệ thống giao dịch tự động (Connect 24) cho phép
khách hàng giao dịch ở bất cứ đâu - nơi có cơ sở giao dịch của Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam, giúp cho khách hàng vượt qua được hạn chế về không gian và
thời gian. Thẻ VCB Connect 24 thực chất là một thẻ ghi nợ nội địa, chưa sử
dụng được ở nước ngoài. Hiện nay khách hàng dùng loại thẻ này có thể thanh
toán được tại hầu hết các siêu thị lớn trên toàn quốc. VCB đang tích cực mở
rộng phạm vi thanh toán thẻ, không phải chỉ ở các siêu thị mà còn ở các cửa
hàng, khách sạn, trung tâm giải trí,… và nói chung là tất cả những nơi diễn ra
các hoạt động mua bán, giao dịch và chi tiêu hàng ngày. VCB cũng đang phối
hợp với một số công ty bảo hiểm để thực hiện thanh toán phí bảo hiểm qua thẻ.
Trong trường hợp khách hàng mua bảo hiểm nhân thọ thì thay vì hàng tháng
khách hàng phải trả một khoản phí cho Công ty bảo hiểm thì tới đây khách hàng
không cần làm thủ tục như vậy nữa mà chỉ cần thực hiện trừ tiền trên tài khoản
của mình. Tiến đến, VCB cũng dự định cho phép chủ thẻ Connect 24 có thể
thanh toán tiền điện, điện thoại … thông qua dịch vụ thẻ này.
Phần lớn khách hàng sử dụng thẻ Connect 24 hiện nay là nhân viên của
các doanh nghiệp mở tài khoản để nhận lương. Các doanh nghiệp chỉ cần đăng
ký tài khoản các nhân cho nhân viên của mình và yêu cầu phát hành thẻ Connect
24 cho nhân viên. Thay vì lĩnh tiền mặt để trả lương cho nhân viên thì đến kỳ
lương doanh nghiệp chỉ cần lập một bảng lương và yêu cầu ngân hàng chuyển

tiền vào tài khoản cá nhân của từng nhân viên. Điều này tiết kiệm được rất nhiều
thời gian, công sức cho bộ phận kế toán của công ty, giảm thiểu được sai sót so
24


với việc trả lương bằng tiền mặt. Hơn nữa thông tin về tiền lương của các nhân
viên được đảm bảo bí mật tuyệt đối. Về phía nhân viên, nhận lương bằng cách
này cũng rất thuận tiện cho họ vì họ có thể rút tiền bất cứ khi nào cần bằng cách
dùng thẻ Connect 24. Ngoài ra, số tiền chưa dùng tới trong tài khoản cũng được
tính lãi giống như một sổ tiết kiệm vậy. Hai hệ thống đa tiện ích là Dịch vụ ngân
hàng trực tuyến (VCB-Online) và Hệ thống giao dịch tự động ATM (Connect
24) đã có vai trò kinh tế - xã hội đáng kể, khuyến khích người dân sử dụng các
dịch vụ ngân hàng, thanh toán qua ngân hàng, thay đổi thói quen dùng tiền mặt
trong lưu thông. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện đang là ngân hàng Việt
Nam đầu tiên tham gia vào hệ thống ATM toàn cầu. Bên cạnh đó, việc phát triển
sản phẩm ngân hàng điện tử (VCB-Money) và dịch vụ ngân hàng Internet là
bước đột phá trong phát triển công nghệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
so với các ngân hàng thương mại khác ở nước ta. Đến nay đã có hơn 200 tổ
chức kinh tế và 29 tổ chức tín dụng sử dụng VCB-Money.
Với chiến lược phát triển thành ngân hàng đa năng, Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam chú trọng đến các sản phẩm dựa trên công nghệ. Chiến lược
này đảm bảo phục vụ tốt hơn cho thị trường nội địa 80 triệu dân, cung cấp các
sản phẩm và dịch vụ cho cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động thẻ của
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã có những thành quả đáng khích lệ. Tính
đến nay, lượng thẻ tín dụng quốc tế phát hành khoảng trên 17.000. Số tiền sử
dụng trên thẻ là 254,55 tỷ VND và số tiền thanh toán qua thẻ là 108 triệu USD.
Nguyên nhân tăng là do công nghệ thanh toán thẻ đã được cải thiện, mạng quản
lý, thanh toán đã ổn định. Chỉ sau chưa đầy 1 năm đi vào hoạt động hệ thống
giao dịch tự động Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Connect-24 đã đạt trên
50.000 thẻ được phát hành, hơn 40.000 tài khoản cá nhân được mở thêm với

bình quân khoảng 3.000 giao dịch/ngày.
IV. KẾT LUẬN VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Kết luận:
Dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam mới đang trong giai đoạn đầu của
sự phát triển. Trước mắt còn rất nhiều khó khăn, thách thức cần phải vượt qua,
25


×