Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

một số phương pháp rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.93 KB, 16 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỐNG
CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ở độ tuổi mầm non, trẻ xuất hiện tình trạng thụ động, không biết ứng phó
trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy
hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ... Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng
này, trong đó việc thiếu kỹ năng sống là nguyên nhân sâu xa nhất. Do đó, việc
dạy kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết.
Những năm gần đây, nhu cầu học kỹ năng sống, các chuẩn mực đạo đức
của trẻ em đã “bùng nổ”. Điều đó thể hiện sự quan tâm của các bậc phụ huynh
đối với việc giáo dục con em mình. Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng như thực tế
cho thấy kết quả của giáo dục kỹ năng sống, phẩm chất nhân cách, đạo đức cho
trẻ em cần sự phối hợp của nhiều yếu tố (gia đình, nhà trường, xã hội). Đã từ lâu
vấn đề này đã được đặt ra và đến nay nó vẫn là câu hỏi lớn. Sự “bùng nổ” nhu
cầu học kỹ năng sống của trẻ em là một trong những dấu hiệu đáng mừng của xã
hội. Điều đó thể hiện sự quan tâm của các bậc phụ huynh đến việc giáo dục kỹ
năng sống, giáo dục phẩm chất đạo đức, nhân cách cho con em mình. Với những
lý do trên, là giáo viên trực tiếp giảng dạy trẻ mẫu giáo nên tôi chọn đề tài “Một
số biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn” để làm đề tài nghiên
cứu.
* Mục đích nghiên cứu:
Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này nhằm giúp trẻ hình thành một số kĩ
năng sống cơ bản và cần thiết trong cuộc sống hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu: Lớp Mẫu giáo lớn trường Mầm non Kim Bình
* Phương pháp nghiên cứu :
Để thực hiện đề tài này tôi tiến hành một số phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp trò chuyện.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp cho trẻ thực hành trải nghiệm


* Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:

1


- Đề tài trên tôi nghiên cứu trong phạm vi lớp mẫu giáo lớn A5 trường
mầm non Kim Bình.
- Thời gian tiến hành nghiên cứu là 1 năm, năm học 2018 - 2019
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Đảng và nhà nước ta đánh giá rất cao về vai trò của giáo dục, đầu tư vào
giáo dục là đầu tư đúng hướng và được coi là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu của
ngành Giáo dục - Đào tạo là phải đào tạo ra một thế hệ trẻ phát triển toàn diện
về mọi mặt, là những người có đạo đức tốt, có sức khỏe dồi dào, có kiến thức
khoa học kỹ thuật, có năng lực trong công tác, có nhiệt huyết và lòng hăng hái,
biết yêu quý, tôn trọng và cảm thụ cái đẹp, bên cạnh đó họ còn phải biết xử lý
những tình huống cần thiết trong mọi lĩnh vực của cuộc sống và công tác. Muốn
giáo dục và đào tạo được một thế hệ trẻ như vậy giáo dục Mầm non là một mắt
xích quan trọng, là viên gạch đầu tiên đặt nền móng vững chắc cho toàn bộ hệ
thống giáo dục.
Câu thành ngữ :“Tiên học lễ, hậu học văn” của cha ông ta từ ngàn xưa đã
để lại đến bây giờ vẫn không thể thiếu trong các trường học. Lễ phép là nét đẹp
văn hóa được đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một con người. Trong thời đại
hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những yêu cầu ngày càng
cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào tạo ra những con
người “phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là bộ phận hữu cơ của
quá trình giáo dục, là một bộ phận có tính cốt lõi, nền tảng của công tác giáo dục
trẻ.
2. Cơ sở thực tiễn

2.1. Thuận lợi:
- Trường mầm non Kim Bình đã được công nhận trường mầm non đạt
chuẩn quốc gia mức độ 1. Trường có 2 điểm trường, một điểm chính, một điểm
lẻ với tổng số 11 nhóm lớp và 29 cán bộ giáo viên, trình độ giáo viên đạt chuẩn
100%, trên chuẩn 26/29 = 89,6%, trường nhiều năm đạt trường tiên tiến cấp
tỉnh, chất lượng giảng dạy ngày một cao, được phụ huynh học sinh tin tưởng, số
lượng học sinh ra lớp ngày một đông.
- Năm học 2018 -2019 tôi được phân công dạy lớp 5-6 tuổi tại khu trung
tâm của trường: Là lớp 5-6 tuổi với số cháu 40, trong đó 20 cháu nữ, 20 cháu
nam, với độ tuổi đồng đều, 100% trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu
2


cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, và tình cảm
xã hội, biết cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ. Đó là một
thuận lợi lớn để tôi giáo dục và hình thành một số kỹ năng sống cơ bản cho trẻ.
- Là một giáo viên có tinh thần trách nhiệm và đầy lòng nhiệt tình, yêu
nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao chuyên môn. Bản thân tôi xác định được
mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giáo dục hình thành kĩ năng sống
cho trẻ trong thời đại hiện nay. Ban giám hiệu nhà trường cũng luôn tạo mọi
điều kiện giúp đỡ trong việc xây dựng môi trường, cơ sở vật chất giúp giáo viên
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Đối với phụ huynh rất qua tâm tới các cháu, luôn thực hiện tốt các
phong trào đóng góp của nhà trường để phục vụ cho công tác giáo dục.
2.2. Khó khăn:
Khi tìm hiểu thực trạng của trường, giáo viên và gia đình đã giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ, tôi nhận thấy yếu điểm xuất phát từ yếu tố kinh tế, xã hội,
gia đình và nguyên nhân chủ yếu là do các bậc cha mẹ thiếu kinh nghiệm trong
quản lí gia đình, ít gần gũi với con cái hoặc nuông chiều trẻ quá mức gây tác
động đến kỹ năng ứng xử của trẻ như: Trẻ không biết chào hỏi khi khách đến

nhà hoặc đi về nhà không thưa người lớn trong gia đình…
Năm học này, tôi được phân công phụ trách lớp mẫu giáo lớn A5, hầu hết
các cháu là con nông dân nên việc quan tâm đến con em còn nhiều hạn chế. Bên
cạnh đó còn có các cháu gia đình luôn nuông chiều thái quá. Một số phụ huynh
chưa hiểu tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho con em ở lứa tuổi Mẫu
giáo, nên thường khoán trắng cho giáo viên.
Thời gian đầu trẻ đến lớp với thói quen tự do, ra vào lớp tự nhiên, hay nói
leo, trả lời không trọn câu hay một số cháu rất ít nói và rụt rè trong giao tiếp...
2.3. Số liệu điều tra ban đầu:
- Đầu năm học 2018 - 2019 tôi đã tiến hành khảo sát các kĩ năng của trẻ
lớp tôi phụ trách như sau:
ST
T
1

Đạt

Chưa đạt

Kĩ năng sống

Số trẻ

Tỷ lệ
%

Số trẻ

Tỷ lệ
%


Kĩ năng hiểu biết và chăm sóc sức
khỏe dinh dưỡng

15

37,5

25

62,5

3


ST
T

Đạt
Kĩ năng sống

Chưa đạt

Số trẻ

Tỷ lệ
%

Số trẻ


Tỷ lệ
%

2

Kĩ năng chăm sóc vệ sinh cá nhân

20

50

20

50

3

Kĩ năng giữ an toàn cá nhân

15

37,5

25

62,5

4

Kĩ năng nhận thức về bản thân


17

42,5

23

57,5

5

Kĩ năng tự tin và tự trọng

18

45

22

55

6

Kĩ năng cảm nhận và thể hiện cảm
xúc

20

50


20

50

7

Kĩ năng thiết lập mối quan hệ tích
cực với bạn bè và người thân

19

47,5

21

52,5

8

Kĩ năng hợp tác với người khác

22

55

18

45

9


Kĩ năng thích ứng trong quan hệ xã
hội

20

50

20

50

10

Kĩ năng tôn trọng người khác

17

42,5

23

57,5

11

Kĩ năng nghe hiểu lời nói

20


50

20

50

12

Kĩ năng sử dụng lời nói

20

50

20

50

13

Kĩ năng giao tiếp

18

45

22

55


14

Kĩ năng nhận thức về môi trường xã
hội

21

52,5

19

47,5

15

Kĩ năng nhận thức về môi trường tự
nhiên

19

47,5

21

52,5

16

Kĩ năng nhận thức về nghệ thuật


22

55

18

45

17

Kĩ năng sáng tạo

15

37,5

25

62,5

Với tình hình như vậy, là giáo viên mầm non trăn trở với những thực trạng
trên tôi mạnh dạn đề xuất ra một số giải pháp thích hợp để từng trẻ lớp tôi có
được những thói quen và hành vi đạo đức phù hợp với chuẩn mực xã hội, nhằm

4


góp phần hình thành nhân cách ban đầu cho trẻ, để trường học thực sự văn minh,
thanh lịch.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề

Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học của ngành, tôi quyết tâm lấy mục tiêu
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chăm sóc
giáo dục trẻ của năm học này, để góp một phần nhỏ bé của mình vào quá trình
hình thành nhân cách trẻ thơ trong thời đại mới.
Như chúng ta đã biết, ở trường mầm non không có giờ dạy đạo đức riêng,
mà thông qua sử dụng hình thức tích hợp với nội dung bài dạy của các lĩnh vực
để hướng trẻ tới cảm xúc, tình cảm, hành vi lễ giáo. Trước tiên tôi xác định các
kĩ năng cần đưa vào giáo dục ở các lĩnh vực như sau:
* Kĩ năng hiểu biết và chăm sóc sức khỏe dinh dưỡng:
- Biết một số hoạt động của bản thân trẻ trong sinh hoạt hàng ngày có lợi
cho sức khỏe, sự lớn lên và phát triển của cơ thể.
- Biết một số hành vi ăn uống có hại cho sức khỏe
- Biết hút thuốc lá có hại cho sức khỏe và biểu hiện không đồng tình với
người hút thuốc
- Biết che miệng khi ho, hắt hơi, ngáp.
* Kĩ năng chăm sóc vệ sinh cá nhân:
- Biết đánh răng, rửa mặt, rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi
đi vệ sinh.
- Biết chọn quần áo phù hợp với thời tiết, biết ăn mặc gọn gàng.
* Kĩ năng giữ an toàn cá nhân:
- Biết kêu cứu khi gặp nguy hiểm
- Nhận biết và không tự ý sử dụng những đồ vật nguy hiểm.
- Không đi theo và nhận quà của người lạ khi chưa được người thân cho
phép.
- Biết ý nghĩa và có ý thức thực hiện một số luật, biển bào giao thông.

* Kĩ năng nhận thức về bản thân:
- Nói được họ tên, địa chỉ, số điện thoại của gia đình.

5



- Nhận thức được giới tính của bản thân và có ứng xử phù hợp.
- Nói được khả năng của bản thân, biết đề xuất những trò chơi, hoạt động
thể hiện sở thích của bản thân.
* Kĩ năng tự tin và tự trọng:
- Chấp nhận và cố gắng thực hiện công việc được giao.
- Hài lòng khi hoàn thành công việc được giao.
- Chủ động và độc lập trong một số hoạt động hàng ngày.
- Mạnh dạn bày tỏ ý kiến của bản thân.
* Kĩ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc:
- Nhận biết được các trạng thái cảm xúc vui, buồn, tức giận, sợ hãi, ngạc
nhiên, xấu hổ của người khác.
- Biết bộc lộ các trạng thái cảm xúc vui, buồn, tức giận, sợ hãi, ngạc
nhiên, xấu hổ của bản thân.
- Biết quan tâm, an ủi người thân và bạn bè.
- Biết cố gắng kiềm chế những cảm xúc tiêu cực.
* Kĩ năng thiết lập mối quan hệ tích cực với bạn bè và người thân:
- Hòa đồng với các bạn trong nhóm chơi.
- Biết chia sẻ cảm xúc, kinh nghiệm và đồ chơi với bạn.
- Chủ động giao tiếp với bạn và người lớn gần gũi.
- Giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn.
- Có nhóm bạn chơi thường xuyên.
- Tuân theo thứ tự luân phiên, chờ đến lượt mình khi chơi.
* Kĩ năng hợp tác với người khác:
- Biết lắng nghe ý kiến của bạn.
- Biết trao đổi ý kiến của mình với các bạn.
- Biết tìm cách giải quyết mâu thuẫn.
- Chấp nhận sự phân công của nhóm.
- Sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ đơn giản cùng người khác.

* Kĩ năng thích ứng trong quan hệ xã hội:

6


- Biết hành động, việc làm của mình ảnh hưởng đến người khác như thế
nào.
- Có thói quen chào hỏi xưng hô lễ phép với người lớn, biết cảm ơn và xin
lỗi.
- Biết đề nghị sự giúp đỡ của người khác khi cần thiết.
- Biết một số hành vi đúng, saicuar con người đối với môi trường.
- Có hành vi bảo vệ môi trường xung quanh
* Kĩ năng tôn trọng người khác:
- Biết được sở thích và khả năng của người khác.
- Chấp nhận sự khác biệt của người khác với mình.
- Nhận ra sự không công bằng trong nhóm và biết cách tạo lại sự công
bằng.
* Kĩ năng nghe hiểu lời nói:
- Hiểu và đáp lại lời nói của người khác.
- Nghe hiểu nội dung bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao đã học.
* Kĩ năng sử dụng lời nói:
- Phát âm rõ ràng.
- Sử dụng các từ chỉ tính chất, công dụng, biểu cảm hành động trong sinh
hoạt hàng ngày.
- Sử dụng các loại câu khác nhau trong giao tiếp.
- Dùng lời nói thể hiện cảm xúc, nhu cầu, ý nghĩ và kinh nghiệm của bản
thân.
- Biết sử dụng lời nói để trao đổi, thỏa thuận, hợp tác, chỉ dẫn bạn bè
trong các hoạt động.
- Kể lại được nội dung câu chuyện theo đúng trình tự.

* Kĩ năng giao tiếp:
- Biết khởi đầu cuộc trò chuyện bằng các cách khác nhau.
- Biết điều chỉnh giọng nói phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
- Biết chờ đến lượt trong giao tiếp, trò chuyện, thảo luận.
- Biết hỏi lại khi không hiểu.

7


- Không nói tục chửi bậy.
* Kĩ năng nhận thức về môi trường xã hội:
- Biết được công dụng, chất liệu một số đồ dùng trong sinh hoạt hàng
ngày.
- Kể được một số địa điểm công cộng gần nơi trẻ sống.
- Nói được nghề nghiệp và nơi làm việc của bố mẹ.
* Kĩ năng nhận thức về môi trường tự nhiên:
- Chia nhóm cây cối, con vật theo đặc điểm chung.
- Nói được đặc điểm nổi bật của từng mùa trong năm.
- Dự đoán được một số hiện tượng tự nhiên đơn giản sắp xảy ra.
* Kĩ năng nhận thức về nghệ thuật:
- Nghe, cẩm nhận được giai điệu, hát đúng giai điệu các bài hát đơn giản.
- Thích tham gia vào các hoạt động biểu diễn.
- Thể hiện cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên và các hoạt động tạo hình.
- Biết sử dụng các phương tiện, vật liệu khác nhau để tạo hình sản phẩm
đơn giản.
- Nói được ý tưởng thể hiện trong sản phẩm tạo hình của mình.
* Kĩ năng sáng tạo:
- Thể hiện cái mới trong trò chơi, trong tạo hình hoặc âm nhạc.
- Kể thêm hoặc thay đổi diễn biến của câu chuyện đã biết một cách hợp lý
Từ những mục tiêu kĩ năng đã xác định tôi đề ra các phương pháp giáo

dục trẻ như sau:
3.1. Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học:
Lồng nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học nhằm hình thành
cho trẻ những thói quen, hành vi có văn hóa.
Ví dụ:
* Giờ học phát triển thể chất
Cô dạy trẻ biết các kỹ năng vận động, biết siêng năng rèn luyện để cơ thể
khỏe mạnh, trẻ biết trong khi tập không chen lấn xô đẩy nhau...
* Giờ học khám phá xã hội:
8


Tôi dạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình bạn, gia đình tôi
- Trẻ biết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia
đình, những việc mà trẻ thường làm ở nhà.
Kỹ năng sống trẻ học được đó là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn
nói và chờ đến lượt mình nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn.
* Đối với giờ học tạo hình: “Vẽ ngôi nhà của bé”
Cô giáo dục trẻ biết yêu quí ngôi nhà mình ở, biết quét dọn nhà cửa sạch
sẽ, sắp xếp đồ dùng trong gia đình ngăn nắp gọn gàng...
* Đối với giờ học làm quen văn học: Qua câu chuyện “Người bạn tốt”
Cô đàm thoại cùng trẻ:
Linh và Trang là đôi bạn như thế nào?
Khi Linh gặp nạn thì Trang đã làm gì?
Con học tập được đức tính gì ở hai bạn?
Cô giáo dục trẻ tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ bạn bè, biết nói những
lời cảm ơn chân tình khi được người khác giúp đỡ mình.
* Đối với giờ học làm quen chữ cái: Dạy trẻ phát âm đúng, nói rõ ràng,
biết sắp xếp đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp.
* Giờ học Giáo dục âm nhạc: Dạy bài hát “ Rửa mặt như mèo”

Qua bài hát này đã giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạch sẽ.
- Kỹ năng sống là phương pháp học mà chơi, chơi mà học.
Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh
thần đồng đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh,
ngôn từ có vần điệu, những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa
vào để trẻ dễ dàng tiếp thu trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng
vai trò là người hỗ trợ giúp trẻ phát huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát
triển những ứng xử tích cực và tự tin trong cuộc sống.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải gò ép trong những tiết học chính
thức mà phải kết hợp qua các hoạt động vui chơi của trẻ:
3.2. Giáo dục kỹ năng sống qua các hoạt động vui chơi:
Trong hoạt động vui chơi trẻ được thực hành trải nghiệm với nhiều vai
chơi khác nhau phản ảnh trong cuộc sống của người lớn, tôi tiến hành lồng kỹ
năng sống vào vui chơi. Qua đó trẻ được giao tiếp với nhau bằng những lời nói
9


nhỏ nhẹ, ân cần, lễ phép, những lời cảm ơn, xin lỗi, trao nhận bằng hai tay
...luôn được thể hiện .Tôi theo dõi lắng nghe để kịp thời uốn nắn trẻ khi có biểu
hiện chưa chuẩn mực qua đó giúp trẻ hình thành thói quen hành vi văn minh
trong giao tiếp.
Ví dụ: Qua trò chơi Bán hàng:
Người bán hàng chào hỏi khách hàng: Cô, chú mua gì ạ?
Người đi mua hàng trật tự khi mua, nói tên hàng cần mua: Bán tôi một cân
gạo, bao nhiêu vậy cô?
+ Trò chơi đóng vai Y tá – Bác sĩ:
Bác sĩ biết hỏi thăm bệnh nhân ân cần, “Cháu đau chỗ nào? Cháu có mệt
lắm không? ...”
Y tá phát thuốc dặn dò bệnh nhân uống thuốc.
Bệnh nhân nhận thuốc bằng hai tay và nói lời cảm ơn với bác sĩ, y tá.

Qua hoạt động vui chơi trẻ dần dần được rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử,
chào hỏi mạnh dạn hơn đối với mọi người.
Trong một thời gian rèn luyện trẻ lớp tôi kỹ năng chào hỏi lễ phép, giao
tiếp lịch sự có phần chuyển biến rất tốt.
3.3. Giáo dục kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi:
Trong các hoạt động hằng ngày của trẻ ở trường, trẻ dễ được tiếp cận
những gì mà cô giáo, người lớn, bạn bè đã làm. Giờ đón trẻ và trả trẻ tôi ân cần
và chuẩn mực trong cách xưng hô với bố mẹ trẻ, tôi tập cho trẻ chào thưa lễ
phép với cô và bố mẹ trẻ.
Giờ hoạt động ngoài trời, dạo chơi tham quan...tôi đều quan tâm nhắc nhở
trẻ luôn có những ý thức và hành động tốt như biết đoàn kết vui chơi cùng bạn,
khi làm việc gì sai với bạn với cô thì phải biết xin lỗi, ai cho gì thì nhận bằng
hai tay và cảm ơn, biết giữ vệ sinh môi trường, thân thể sạch sẽ...
Biện pháp này đạt kết quả rất cao, tôi tiếp tục áp dụng.
3.4. Giáo dục kỹ năng sống qua ngày hội, ngày lễ:
Việc tổ chức ngày hội, ngày lễ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục
trẻ mầm non.
Thông qua các ngày hội, ngày lễ như: Giỗ Tổ Hùng Vương, ngày 20/11,
Ngày Tết Trung Thu, ... tôi tổ chức các hoạt động văn nghệ, các trò chơi dân

10


gian, đồng thời ôn lại truyền thống của dân tộc để giáo dục trẻ lòng tự hào dân
tộc, biết nhớ ơn những người đã hy sinh cho lợi ích dân tộc, lợi ích trồng người.
Thông qua đó trẻ có ý thức phấn đấu trong học tập để sau này trở thành người
có ích cho xã hội.
3.5. Công tác phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình:
Với phương châm “Trường học là nhà, nhà là trường học” thì việc phối
kết hợp với các bậc phụ huynh là một trong những biện pháp rất cần thiết để

giáo dục trẻ. Gia đình giáo dục tốt, trẻ sẽ có điểm xuất phát tốt và nề nếp tốt.
Ngược lại, trẻ sẽ không có gì khi không được gia đình quan tâm giáo dục. Như
vậy, xuất phát điểm của trẻ là chưa công bằng. Giáo dục kỹ năng sống trong nhà
trường sẽ xóa đi rào cản đó. Vì vậy, Giáo viên và phụ huynh đều phải tiến hành
giáo dục trẻ song song với nhau. Trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi mạnh
dạn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mầm non, để phụ huynh nhận thức rõ ý nghĩa vấn đề để cùng nhà trường
giáo dục trẻ.
Tôi luôn gặp gỡ trao đổi với phụ huynh hằng ngày trong giờ đón trả trẻ về
sự tiến bộ hay những hạn chế của trẻ để phụ huynh nắm bắt kịp thời và tiếp tục
rèn luyện cho trẻ ở nhà. Đối với những trẻ mà giáo viên cần lưu ý hơn đó là trẻ
có thể lực yếu, suy dinh dưỡng, trẻ thụ động, trẻ hay nghịch thì tôi luôn tranh
thủ đến tận nhà để trực tiếp gặp gia đình của cháu trao đổi về thực trạng của
cháu và cùng với gia đình trẻ có biện pháp giúp đỡ cho trẻ tốt hơn. Những cử
chỉ và việc làm tốt của trẻ ở trường và ở gia đình tôi thường nêu ra và tuyên
dương trẻ đó trước lớp trong giờ nêu gương để trẻ khác cùng học tập.
Cuối tháng, thông qua sổ liên lạc của trẻ tôi đều ghi rất cụ thể những kỹ
năng của trẻ đã làm được để phụ huynh nắm bắt. Qua thời gian rèn luyện trẻ
lớp tôi có nhiều tiến bộ rõ rệt như mạnh dạn, lịch sự trong giao tiếp, xưng hô lễ
phép thân thiện.
3.6. Cô giáo là tấm gương sáng:
Ở trường cô giáo là người mẹ thứ hai đối với trẻ. Trẻ rất thích được cô yêu
thương, gần gũi. Mọi hành động cử chỉ của cô trẻ rất lưu tâm và bắt chước theo.
Vì vậy cô phải luôn luôn chuẩn mực trong mọi lĩnh vực: như cách giao
tiếp với phụ huynh, với trẻ hay tác phong của cô, hành động cử chỉ của cô…
Tôi luôn ân cần dịu dàng thương yêu trẻ, luôn tạo mối thân thiện giữa cô và trẻ.
Cô là tấm gương cho trẻ thực hiện và noi theo.

11



Ví dụ: Khi chúng ta dạy trẻ nói lời cám ơn khi nhận được sự giúp đỡ của
người khác hoặc khi người khác làm một điều gì đó cho mình. Nhưng trong mối
quan hệ giữa các cô giáo và giữa cô với trẻ, người lớn không nói cám ơn thì trẻ
sẽ không hình thành ý thức của việc nên cám ơn người khác.
Khi thấy trên sân trường có lá cây, cô giáo đi qua và bảo trẻ: Con hãy nhặt
bỏ vào thùng rác đi. Khi ấy trẻ sẽ nhặt vì bị sai khiến.Cũng tình huống trên: Cô
nhặt lá cây bỏ vào thùng rác và hỏi trẻ: Con biết tại sao cô bỏ lá cây vào thùng
rác không? Giải thích cho trẻ hiểu: việc làm này nhằm giữ sân trường sạch đẹp
cho các con học và chơi. Lần sau thấy rác trẻ sẽ tự động nhặt rác vì trẻ hiểu
rằng: nhặt rác làm sạch sân trường.
Thực hiện biện pháp trên hiệu quả đạt rất tốt: Khi cô giáo là mẹ hiền thì
các cháu sẽ là con ngoan.
4. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến vào thực tiễn
Sau những biện pháp tôi nghiên cứu và thực hiện chất lượng giáo dục về
kỹ năng sống cho trẻ được tăng lên rõ rệt. Trẻ ngoan hơn, lễ phép hơn, trẻ được
hình thành những thói quen vệ sinh văn minh, giao tiếp mạnh dạn với mọi
người, biết chào hỏi khi có khách đến, biết trao nhận bằng hai tay, biết quan tâm
giúp đỡ bạn bè, cô giáo, ba mẹ…
Các bậc phụ huynh có những chuyển biến rõ rệt về phong cách, về lời ăn
tiếng nói và quan tâm đến con em mình ngày càng nhiều hơn.
Bản thân tôi được trau dồi kiến thức và có thêm những kinh nghiệm trong
việc giáo dục trẻ, được phụ huynh và các bạn đồng nghiệp thương yêu, quí mến
hơn.
* Kết quả đạt trên trẻ:
ST
T

Đạt


Chưa đạt

Kĩ năng sống

Số trẻ

Tỷ lệ
%

Số trẻ

Tỷ lệ
%

1

Kĩ năng hiểu biết và chăm sóc sức
khỏe dinh dưỡng

38

95

2

5

2

Kĩ năng chăm sóc vệ sinh cá nhân


40

100

0

0

3

Kĩ năng giữ an toàn cá nhân

39

97,5

1

2,5

4

Kĩ năng nhận thức về bản thân

38

95

2


5

12


ST
T

Đạt
Kĩ năng sống

Chưa đạt

Số trẻ

Tỷ lệ
%

Số trẻ

Tỷ lệ
%

5

Kĩ năng tự tin và tự trọng

37


92,5

3

7,5

6

Kĩ năng cảm nhận và thể hiện cảm
xúc

36

90

4

10

7

Kĩ năng thiết lập mối quan hệ tích
cực với bạn bè và người thân

35

87,5

5


12,5

8

Kĩ năng hợp tác với người khác

32

80

8

20

9

Kĩ năng thích ứng trong quan hệ xã
hội

35

87,5

5

12,5

10

Kĩ năng tôn trọng người khác


35

87,5

5

12,5

11

Kĩ năng nghe hiểu lời nói

40

100

0

0

12

Kĩ năng sử dụng lời nói

40

100

0


0

13

Kĩ năng giao tiếp

39

97,5

1

2,5

14

Kĩ năng nhận thức về môi trường xã
hội

37

92,5

3

7,5

15


Kĩ năng nhận thức về môi trường tự
nhiên

37

92,5

3

7,5

16

Kĩ năng nhận thức về nghệ thuật

38

95

2

5

17

Kĩ năng sáng tạo

35

87,5


5

12,5

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Bài học kinh nghiệm:
Với những kết quả đạt được, bản thân tôi chỉ muốn nêu lên những kinh
nghiệm chung nhất do nghiên cứu tài liệu, do tích luỹ được trong suốt quá trình
thời gian công tác với mong muốn gửi đến cha mẹ trẻ những thông điệp mang
tính thuyết phục với một số điều cần làm và cần tránh nhằm giúp cha mẹ trẻ dạy
trẻ những kỹ năng sống cơ bản như sau:
a. Một số điều người lớn cần làm giúp trẻ rèn luyện kỹ năng sống:
13


Đối với lứa tuổi mẫu giáo trẻ chưa biết hành vi nào xấu, hành vi nào tốt
điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn
trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
Việc học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ
tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều
hơn.
Nhân cách ý chí tình cảm của trẻ được hình thành thông qua chơi, chơi để
lớn lên. Vì thế, người lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra nhiều
cách học khác nhau, những kinh nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi là nền
tảng tạo nên sự hăng hái học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học vừa vui
mà vừa có ý nghĩa, đồng thời khi trẻ tham gia vào trò chơi, trẻ biết sáng tạo với
các cách chơi và cố gắng đạt mục đích, đây chính là những kỹ năng cơ bản để
sống và làm việc sau này.
Thường xuyên chỉ ra cái mới mà người lớn cũng tìm tòi một cách hăng

hái bằng nhiều cách, hãy trao đổi với trẻ về những thông tin mà cô giáo, cha mẹ
mới tìm thấy cho trẻ thấy rằng học lúc nào cũng vừa vui, vừa thử thách.
Tham gia vào việc giáo dục của con cái không nên để tốn quá nhiều thời
gian và cũng không cần tốn sức tập luyện, cha mẹ chỉ tốn ít thời gian khi cho trẻ
thấy cha mẹ rất coi trọng giá trị của việc giáo dục.Việc tham gia ở mức độ nào
không quan trọng nhưng thời gian đó thật đáng giá và đó là sự đầu tư cần thiết
cho tương lai của trẻ.
Kể chuyện cho trẻ hàng ngày bằng phương pháp mưa dầm thấm lâu: Cô
giáo, cha mẹ hãy dành thời gian mỗi ngày để kể cho trẻ nghe những câu chuyện,
dành thời gian trò chuyện với con trẻ vì chuyện là kho báu của dân tộc, kể
chuyện cổ tích là con đường ngắn nhất, đơn giản hiệu quả nhất giáo dục nhân
cách cho trẻ.
Để hình thành và phát triển ở trẻ những thói quen, nghi thức văn hóa trong
ăn uống cần thiết không chỉ có sự tập luyện mà còn cần sự thống nhất những
cách thức và phương thức giữa gia đình và trường, lớp mầm non. Chỉ có sự kiên
trì, nhẫn nại, sự đồng cảm, sự quan tâm, chú ý và sự giúp đỡ quý báu của người
lớn mới giúp trẻ vượt qua những khó khăn, trở ngại, mới tạo được một bầu
không khí thân ái, đầm ấm cần thiết trong bữa ăn.
b. Một số điều ngừơi lớn cần tránh khi dạy trẻ kỹ năng sống:
- Không hạ thấp trẻ: Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả năng
trẻ là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân trẻ.
14


- Không doạ nạt trẻ: Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt trẻ
là chúng ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có
hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của trẻ tốt hơn.
- Không bắt trẻ hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối
với trẻ vì nếu trẻ cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở trẻ sẽ
phát triển cảm giác hối lỗi.

- Không bảo bọc trẻ một cách thái quá sẽ làm trẻ yếu đuối: Cha mẹ
thường không đánh giá đúng khả năng của trẻ cho rằng trẻ còn nhỏ sẽ không làm
được một điều gì cả. Sự bảo bọc thái qúa sẽ dẫn trẻ đến ý nghĩ rằng bản thân trẻ
không thể làm điều gì nên thân. Hãy nhớ: Đừng bao giờ làm những gì mà trẻ có
thể làm được.
- Không nên yêu cầu trẻ phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự
phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều
kiện phát triển tính tự lập ở trẻ.
- Không yêu cầu những điều không phù hợp với lứa tuổi của trẻ vì những
yêu cầu ở trẻ phải thực hiện một hành vi chín chắn mà trẻ chưa có khả năng
hoặc trẻ phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc
cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận
thức ở trẻ.
2. Kết luận
Từ những biện pháp nêu trên tôi đã thực hiện với trẻ lớp tôi trong năm
học này, đến nay tôi nhận thấy kết quả rất khả quan điều đó chứng tỏ việc áp
dụng các biện pháp của đề tài đã có một hiệu quả nhất định.
Tôi tin tưởng rằng nếu được kết hợp chặt chẽ các biện pháp đó để rèn kỹ
năng sống cho các cháu thì quá trình rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo không
có gì khó khăn mà còn đem lại hiệu quả và hình thành được cho trẻ thói quen về
thái độ hành vi, sự tự tin vào bản thân, có tinh thần trách nhiệm với hành động
của mình. Từ đó hình thành cho các cháu kỹ năng sống để trở thành người công
dân tốt, có ích cho xã hội.
3. Kiến nghị
Qua việc nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo lớn”, tôi có một số kiến nghị đề xuất như sau:
- Về phía phụ huynh: Quan tâm hơn nữa đến con em mình, phối kết hợp
chặt chẽ với nhà trường trong việc giáo dục các cháu,

15



- Về phía nhà trường: Nên thường xuyên tổ chức các hội thi như: “Bé
khéo tay”, “Bé khỏe bé ngoan” để khuyến khích trẻ phát huy các kĩ năng của
bản thân.
Trên đây là một số sáng kiến giúp trẻ mẫu giáo lớn rèn luyện kỹ năng
sống. Trong quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được sự góp ý của hội đồng khoa học để đề tài của tôi được hoàn
chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Kim Bình, ngày 15 tháng 3 năm 2019
Xác nhận của BLĐ trường

Người viết sáng kiến

Bùi Thị Quyên

16



×