Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Biện chứng kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới của v i lenin và sự vận dụng nó vào việc xây dựng kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------

LÊ THỊ TÂM HIẾU

BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I. LÊNIN VÀ
SỰ VẬN DỤNG NÓ VÀO VIỆC XÂY DỰNG KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------

LÊ THỊ TÂM HIẾU

BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V.I. LÊNIN VÀ
SỰ VẬN DỤNG NÓ VÀO VIỆC XÂY DỰNG KINH TẾ
THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Ngọc Thành

Hà Nội- 2012

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thành,
không trùng lặp với bất cứ một công trình nào được công bố trong thời gian gần
đây, xcó kế thừa kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã được công bố.
Những tư liệu sử dụng để thực hiện đề tài được trích dẫn cụ thể, có xuất xứ rõ
ràng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về nội dung
luận văn này của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2012

Tác giả

Lê Thị Tâm Hiếu

3



LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vănĐại học Quốc Gia Hà Nội, Khoa Triết học- Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn, Học viện Quân y.
Em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp tại Khoa Lý luận
Mác- Lênin, Học viện Quân y đã tạo điều kiện, giúp đỡ em trong suốt thời gian
qua. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thành đã
trực tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn
thành luận văn này.
Mặc dù em đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn luận văn này vẫn còn nhiều
thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng
toàn thể các bạn để luận văn này được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2012

Tác giả

Lê Thị Tâm Hiếu

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................... Error! Bookmark not defined.
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................... Error! Bookmark not defined.
2. Tình hình nghiên cứu ............................................. Error! Bookmark not defined.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................ Error! Bookmark not defined.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ......................... Error! Bookmark not defined.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .......... Error! Bookmark not defined.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............ Error! Bookmark not defined.
7. Kết cấu của luận văn............................................... Error! Bookmark not defined.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN .................. Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V. I. LÊNIN VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG .......... Error! Bookmark not defined.
1.1. Hoàn cảnh ra đời chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin ... Error! Bookmark
not defined.
1.1.1. Tình hình nƣớc Nga Xô viết trƣớc khi áp dụng chính sách kinh tế mới
....................................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Từ chính sách “cộng sản thời chiến” sang chính sách kinh tế mới là một
sự thay đổi về biện pháp xây dựng nƣớc Nga Xô viết của V.I. Lênin ...........Error!
Bookmark not defined.
1.2. Nội dung mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính
sách kinh tế mới của V.I. Lênin ................................. Error! Bookmark not defined.
1. 2.1. Khái niệm kinh tế và khái niệm chính trị ...... Error! Bookmark not defined.
1.2.2. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế... Error! Bookmark not defined.
1.2.3. Chính trị không thể không giữ vị trí hàng đầu so với kinh tế..............Error!
Bookmark not defined.
1.3. Khái niệm thị trƣờng, kinh tế thị trƣờng và tính tất yếu xây dựng kinh tế thị
trƣờng ở Việt Nam ....................................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.1. Khái niệm thị trƣờng, kinh tế thị trƣờng ........ Error! Bookmark not defined.
5


1.3.2. Tinh tất yếu xây dựng kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam . Error! Bookmark not
defined.
Chƣơng 2: SỰ VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ
VÀ CHÍNH TRỊ TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA LÊNIN VÀO

VIỆC XÂY DỰNG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..Error!
Bookmark not defined.
2.1. Những điểm tƣơng đồng và khác biệt về hoàn cảnh trong thời gian nƣớc Nga
Xô viết thực hiện chính sách kinh tế mới và khi Việt Nam bƣớc vào công cuộc đổi
mới ................................................................................. Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Những điểm tƣơng đồng .................................. Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Những nét khác biệt.......................................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Nội dung sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin vào xây dựng kinh tế thị trƣờng ở
Việt Nam hiện nay ....................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Phát triển kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng Xã hội chủ nghĩa .......Error!
Bookmark not defined.
2.2.2. Bảo đảm phát triển kinh tế với công bằng xã hội........ Error! Bookmark not
defined.
2.2.3. Đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của nhà nƣớc
....................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Những thành tựu đạt đƣợc và một số giải pháp để đảm bảo giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ............... Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Những thành tựu đã đạt đƣợc ......................... Error! Bookmark not defined.
2.3.2. Một số giải pháp để giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
....................................................................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ................................................................... Error! Bookmark not defined.
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... Error! Bookmark not defined.

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách đây hơn 150 năm, trên cơ sở phân tích sự phủ định biện chứng của chủ

nghĩa Tư bản (CNTB), C. Mác và Ph. Ănghen đã nêu lên những lý luận cơ bản về
CNXH. Đó là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ, không còn áp bức, bất
công. Những quan điểm của C. Mác và Ph. Ănghen về Chủ nghĩa xã hội (CNXH)
mới chỉ là những khái quát chung nhất về mặt lý luận.
Sau này, V. I. Lênin là người đã đưa những lý luận về CNXH của Mác và
Ănghen vào xây dựng nước Nga Xô viết. Cách mạng tháng Mười Nga thành công và
nước CNXH đầu tiên trên thế giới ra đời. Trước sự bao vây, cấm vận của Đế quốc và
bọn phản động, Lênin đã nhạy bén đổi mới tư duy lý luận về xây dựng CNXH hiện
thực bằng việc thực hiện chính sách kinh tế mới để thay thế chính sách “cộng sản thời
chiến”. Nhờ chính sách kinh tế mới, Lênin đã bảo vệ công cuộc xây dựng CNXH ở
nước Nga, trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong chính sách kinh tế mới,
Người đã khẳng định tầm quan trọng của mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị. Người nhấn mạnh chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế và chính trị
không thể không giữ vị trí hàng đầu so với kinh tế. Nguyên lý đó chỉ rõ rằng đường
lối, chính sách phải phản ánh được nhu cầu và quy luật kinh tế, đó là sự thể hiện nổi
bật nhất sự phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, giữa lý luận và thực
tiễn. Chỉ như vậy, chính trị mới lãnh đạo, quản lý kinh tế có hiệu quả, mới giữ được
vai trò của chính trị.
Mặc dù chính sách kinh tế mới của Lênin chỉ được thực hiện trong một thời gian
ngắn (từ năm 1921 đến năm 1928) nhưng chính sách kinh tế mới nói chung, mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị nói riêng mà Lênin đưa ra có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong xây dựng CNXH hiện thực. Tác dụng đó không chỉ ở nước Nga Xô
viết mà ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam dường
như đang trở lại với những tư tưởng của Lênin trong chính sách kinh tế mới.
Sau 25 năm đổi mới, thực tiễn trong nước và quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc,
đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phải vừa giữ vững ổn định chính trị, vừa phát
triển kinh tế một cách bền vững. Để làm được điều đó, Đảng phải luôn quan tâm và
giải quyết một cách sáng suốt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, phải
giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế và phát triển kinh tế là góp phần giữ
vững ổn định chính trị. Việc nhận thức được sự tác động qua lại giữa kinh tế và chính

trị, sự chi phối lẫn nhau giữa chúng, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hoạch
7


định các chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước. Để nhận thực mối quan hệ đó
thì việc nghiên cứu chính sách kinh tế mới của Lênin, đặc biệt là nghiên cứu việc giải
quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của Người, từ đó vận dụng vào thực tiễn
Việt Nam là điều hết sức cần thiết. Nó vừa có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận cũng
như thực tiễn.
Bởi vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin và sự vận dụng nó vào việc xây dựng
kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Chính sách kinh tế mới của Lênin đã được nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu.
Có một số tác giả đánh giá rất cao những nội dung mang tính chất cải cách kinh tế
trong chính sách kinh tế mới như: Anđơrét với cuốn sách “Tại sao cần tới chính sách
kinh tế mới”, Épghênhi Ambarrơxumốp với cuốn sách “Chính sách kinh tế mới qua
lăng kính thời đại”...
Ở Việt Nam, khi chúng ta đang tìm con đường để đổi mới, thoát khỏi khủng
hoảng do nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang lại, thì chính sách kinh tế mới của
Lênin là một cơ sở lý luận và thực tiễn phù hợp với tiến trình đổi mới ở Việt Nam.
Bởi vậy, nhiều học giả đã nghiên cứu những giá trị của chính sách kinh tế mới của
Lênin và từ đó đánh giá, vận dụng vào sự phát triển của Việt Nam. Một số tác giả ta
có thể kể đến như:
TS Trần Ngọc Hiên với “Chính sách kinh tế mới của Lênin và vận dụng vào
điều kiện ở nước ta” do Nxb Sự Thật xuất bản năm 1989. TS Lê Thanh Sinh với
“Chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin với công cuộc đổi mới ở Việt Nam” do Nxb
Chính trị Quốc Gia xuất bản năm 2000. TS Nguyễn Ngọc Thành với “Chính sách
kinh tế mới của V.I. Lênin và cuộc sống đổi mới ở Việt Nam” và “Tính biện chứng
trong chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin và ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi

mới hiện nay ở Việt Nam”. TS Phạm Ngọc Dũng với “Chính sách kinh tế mới của
Lênin và sự vận dụng phát triển ở Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới”...
Các đề tài trên đã có những đóng góp rất lớn trong việc nhận thức quan điểm
của Lênin về việc xây dựng kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đã góp phần vào
phân tích sâu sắc những nội dung trong chính sách kinh tế mới. Từ đó, các đề tài này
đã cho thấy được những giá trị trong chính sách kinh tế mới mà Việt Nam có thể kế
thừa để đổi mới đất nước. Các công trình này đã góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận
của đường lối đổi mới và xây dựng đất nước của Đảng ta.
8


Các nhà nghiên cứu chủ yếu nghiên cứu những nội dung có tính chất tổng hợp
trong chính sách kinh tế mới. Đặc biệt trong cuốn sách “Tính biện chứng trong chính
sách kinh tế mới của V.I. Lênin và ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay ở Việt Nam” của PGS. TS Nguyễn Ngọc Thành đã nghiên cứu một cách chi
tiết nội dung mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh
tế mới. Nhưng PGS chưa nghiên cứu một cách cụ thể sự vận dụng mối quan hệ này ở
Việt Nam. Ngoài ra, có một số học giả cũng nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và chính trị ở Việt Nam như Lê Văn Phụng với “Xử lý mối quan hệ chính trị
với kinh tế trong đổi mới”, Trần Đình Nghiêm “Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị”, Vũ Văn Phúc “Vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế”, luận
án Tiến sĩ của Lưu Thị Bích Thu “ Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay”...có đề cập tới mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và chính trị ở Việt Nam nhưng lại đề cập rất khái quát quan điểm của Lênin
về mối quan hệ này.
Bởi vậy, trong luận văn này, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu nội dung mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới của Lênin
và sự vận dụng nó vào Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Từ quan điểm của Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và

chính trị trong chính sách kinh tế mới, khẳng định Đảng và Nhà nước ta đã lấy đó làm cơ
sở lý luận để thực hiện một số nội dung đổi mới đất nước. Từ đó, luận văn đưa ra một số
giải pháp để phát huy hơn nữa mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
+ Phân tích làm rõ nội dung mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin thông qua các chính sách của Người.
+ Phân tích làm rõ sự vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong
chính sách kinh tế mới để xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề
xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn mối quan hệ này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Trong chính sách kinh tế mới có rất nhiều nội dung.
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chủ yếu đề cập đến mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới và sự vận dụng ở
Việt Nam.

9


- Đối tượng nghiên cứu: Dưới góc độ triết học, luận văn làm rõ mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới của Lênin, cũng như
sự vận dụng mối quan hệ này ở Việt Nam như thế nào.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Để thực hiện luận văn này, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận
Chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là lý luận của Lênin về xây dựng CNXH hiện thực,
các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng kinh
tế thị trường. Ngoài ra, chúng tôi còn dựa trên sự kế thừa có chọn lọc những nghiên
cứu của các tác giả trong và ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện luận văn, chúng tôi dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
phương pháp phân tích- tổng hợp, logic- lịch sử, so sánh, đối chiếu và một số phương

pháp khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn đã làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và
chính trị trong chính sách kinh tế mới của Lênin, chỉ ra đó là cơ sở lý luận để Đảng ta
thực hiện một số nội dung đổi mới.
- Về mặt thực tiễn: Hoàn thành luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
những người nghiên cứu về triết học Mác- Lênin, chính sách trong thời kỳ đổi mới
của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khả, luận văn được kết
cấu với 2 chương, 6 tiết.

10


NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN
Chương 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH
TRỊ TRONG CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI CỦA V. I. LÊNIN VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
1.1. Hoàn cảnh ra đời chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin
1.1.1. Tình hình nƣớc Nga Xô viết trƣớc khi áp dụng chính sách kinh tế mới
Cách mạng tháng Mười nổ ra và một đất nước CNXH đầu tiên trong lịch sử đã
ra đời ở nước Nga- Xô viết; đã biến những lý luận về CNXH của Mác- Ănghen thành
hiện thực. Tuy nhiên, một đất nước còn non trẻ, lại là một nước Xã hội chủ nghĩa
(XHCN) đầu tiên trên thế giới nên luôn phải đương đầu với những chống phá từ bên
trong và bên ngoài. Bởi vậy, từ khi cách mạng tháng Mười thành công vang khắp
năm châu, từ 1914 đến đầu năm 1921, trải qua 7 năm tồn tại, nước Nga Xô viết bị tàn
phá nặng nề và lâm vào khủng hoàng trầm trọng. Đó là do hai nguyên nhân chủ yếu
là chiến tranh và thực hiện chính sách “cộng sản thời chiến”.
Nguyên nhân thứ nhất: Sự tàn phá nặng nề của chiến tranh.

Sau cách mạng tháng Mười, nước Nga Xô viết chưa kịp bắt tay vào xây dựng
CNXH đã phải đối đầu với chiến tranh liên miên. Trong cuộc chiến tranh thế giới lần
I (1914- 1918), nước Nga đã bị tàn phá nặng nề. Sau đó, nước Nga chỉ có được 4
tháng ( từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1918) là thời gian ngừng chiến để ký hoà ước Brét
và củng cố lại lực lượng. Nhưng ngay sau đó, từ tháng 7/ 1918 đến tháng 3/ 1919
nước Nga phải đối mặt với cuộc nội chiến. Lúc này, yêu cầu trước mắt là cần phòng
thủ đất nước, động viên toàn bộ sức người, sức của để chống bọn phản cách mạng.
Điều quan trọng là phải đảm bảo lương thực đầy đủ cho quân đội và nhân dân thành
phố, những người trực tiếp tham gia chiến tranh.
Mùa hè năm 1919, giới cầm quyền ở Mỹ, Anh, Pháp và các nước khác của
khối đồng minh lại mở một cuộc tiến công quân sự mới chống nước Nga Xô viết mà
đứng đầu là kẻ phản cách mạng Đênikin. Lúc này, nhân dân Xô viết phải đẩy lùi hai
cuộc chiến tranh (nội chiến và can thiệp của nước ngoài) trong tình thế kinh tế hết sức
khó khăn: thiếu nguyên nhiên liệu, giao thông rối loạn, dịch bệnh hoành hoành.
Đầu năm 1920, nước Nga Xô viết về cơ bản đã lâm vào tình trạng kinh tế suy
sụp nghiêm trọng do 4 năm chiến tranh đế quốc và 2 năm can thiệp vũ trang nước
ngoài và nội chiến gây ra. Chưa kịp bắt tay vào xây dựng, tháng 5/ 1920 đến tháng
11/ 1920, nước Nga Xô viết phải đối đầu với cuộc tấn công của khối đồng minh nhằm
đè bẹp hoàn toàn nước XHCN non trẻ, trong khi, trong nước cuộc nội chiến vẫn chưa
11


kết thúc. Nước Nga Xô viết non trẻ từ sau cách mạng tháng Mười phải liên tiếp đối
đầu với 4 năm chiến tranh thế giới I và 3 năm nội chiến và can thiệp của nước ngoài.
Đến cuối năm 1920 chính phủ tư sản Ba Lan đã kí kết đình chiến. Mưu toan của bọn
đế quốc tất cả các nước liên kết với bọn phản cách mạng trong nước hòng tiêu diệt
nhà nước Xô viết đã hoàn toàn bị thất bại.
Như vậy, từ năm 1914 đến 1920, nước Nga Xô viết liên tiếp xảy ra chiến tranh.
Thời gian tạm ngừng chiến chỉ đủ cho nước Nga Xô viết củng cố lại quân đội, thu
dọn lại những đống đổ nát để tiếp tục chiến đấu, không còn thời gian cho việc xây

dựng lại cơ sở hạ tầng cũng như chăm lo đời sống vật chất của nhân dân. Lúc đó, cả
nước Nga như một chiến trường và mọi người dân là những người chiến sỹ. Đó là
thời kỳ vô cùng khó khăn và túng quẫn. Người ta chỉ có thể nghĩ làm sao để sống, để
qua khỏi cuộc chiến tranh này, để chiến thắng một cách anh dũng, bảo vệ thành quả
cách mạng chứ chưa thể nghĩ tới làm kinh tế như thế nào. Lênin đã nhấn mạnh “nước
Nga ra khỏi chiến tranh trong một tình cảnh giống như một người đã bị đánh gần chết,
trong 7 năm trời, nó bị đánh khắp mình mẩy và may mà nó vẫn có thể chống nạng mà
đi được” [60,81]. Trong các nước bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh đế quốc, không có
một nước nào phải chịu đau khổ bằng nước Nga. Trong đó, cuộc nội chiến đã làm
nước Nga bị tàn phá và hoang tàn nhiều hơn, tai hại hơn cuộc chiến tranh với nước
ngoài. Do vậy, Lênin khẳng định chiến tranh “ là nguồn gốc chủ yếu gây ra những
khó khăn mà chúng ta đang phải chịu đựng lúc này, lúc mà một lần nữa, vấn đề chủ
chốt, vấn đề cơ bản của cách mạng lại là vấn đề quân sự, vấn đề chiến đấu…nhân dân
đã bị chiến tranh làm cho mệt mỏi và hơn bao giờ hết chiến tranh đã làm cho họ kiệt
quệ hoàn toàn…là nguồn gốc chính của những khó khăn to lớn mà chúng ta đang
phải chịu đựng”[54,17]. Thời kỳ này có thể nhấn mạnh là thời kỳ biểu hiện mối quan
hệ chặt chẽ giữa chính trị và quân sự và nhiệm vụ của thời kỳ này cũng là chính trị và
quân sự.
Nguyên nhân thứ hai: Những hạn chế của chính sách “cộng sản thời chiến”
được bộc lộ một cách rõ ràng sau chiến tranh.
Trong 7 năm chiến tranh, để giúp nước Nga vừa có thể đương đầu chống lại
thù trong, giặc ngoài, vừa xây dựng đất nước, Lênin đã dùng đến chính sách “cộng
sản thời chiến”, một chính sách mà ngay cái tên của nó đã toát lên toàn bộ ý nghĩa:
đây là chính sách của những người cộng sản nhằm bảo vệ đất nước trong thời chiến.
Nội dung của chính sách “cộng sản thời chiến” nổi bật bao gồm việc thực hiện
chế độ trưng thu lương thực thừa. Chính sách này buộc những người nông dân phải
12


nộp tất cả sản phẩm thừa, đôi khi cả sản phẩm nông nghiệp cần thiết của họ cho Nhà

nước. Việc thực hiện chính sách này về trước mắt sẽ có lương thực cho quân lính và
người công nhân sản xuất và bảo vệ tổ quốc. Đây cũng là điểm đặc biệt trong chính
sách “cộng sản thời chiến”. Nếu không làm như vậy thì theo Lênin “ chúng ta đã
không thể thắng được bọn địa chủ và tư bản trong cái nước tiểu nông bị tàn phá này”
[60, 264]. Người còn khẳng định thêm: “ và việc chúng ta đã thắng…chẳng những
chứng tỏ rằng công nhân và nông dân đều có khả năng làm những việc anh dũng phi
thường trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mà còn chứng tỏ rằng bọn men-sê-vích,
bọn xã hội chủ nghĩa- cách mạng, Cau-xky và bè lũ đã đóng vai trò đầy tớ của giai
cấp tư sản, khi chúng trách chung ta về cái “chế độ cộng sản thời chiến” ấy. Nhưng
đó lại là thành tích của chúng ta” [60, 264-265].
Ngoài việc thực hiện chính sách trưng thu lương thực thừa thì chính sách
“cộng sản thời chiến” còn nhấn mạnh tới việc hạn thế thương nghiệp, phân phối chủ
yếu bằng hiện vật, nhanh chóng quốc doanh hoá và quản lý tập trung cao độ.
Chúng ta khoan hẵng bàn những hậu quả mà chính sách “cộng sản thời chiến”
đã để lại. Đầu tiên phải nhận thấy rằng, trong cuộc chiến tranh ác liệt, một mất một
còn, khó khăn chồng chất, cái chết luôn cận kề thì chính sách “cộng sản thời chiến” là
chính sách duy nhất phù hợp, duy nhất đúng. Nó đã giúp nước Nga Xô viết sống sót
ra khỏi chiến tranh, chiến thắng cả thù trong giặc ngoài, đã làm cho Chủ nghĩa tư bản
(CNTB) phải biết kiềng nể và bọn phản động phải rút lui. Vị thế của Nhà nước Xô
viết được củng cố và đồng thời nó biểu lộ sự bất lực của lực lượng Tư bản thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh đó cần phải khẳng định, chính sách này tuyệt nhiên không
phải là chính sách của Chủ nghĩa cộng sản (CNCS) đích thực. Chính khi nói về thời
kỳ này, Lênin thường chủ yếu, mặc dù không thường xuyên sử dụng từ “Chủ nghĩa
cộng sản” và tính từ “ thuộc về chủ nghĩa cộng sản” trong ngoặc kép. Là một người
Mác xít có nhận thức sâu rộng, Người hiểu rõ tính hạn chế, tính ước lệ của những kết
quả đạt được nhờ những biện pháp đó, bởi đó không phải là CNCS đích thực- chỉ có
thể đạt được nhờ vào cơ sở vật chất- kỹ thuật phát triển cao và sản phẩm dồi dào.
Nước Nga Xô viết khi đó vẫn còn là một nước nghèo nàn lạc hậu, nền kinh tế nổi bật
là sự quyện chặt giữa Tư bản độc quyền hiện đại và tàn tích phong kiến hay mâu
thuẫn giữa một bên là chế độ sở hữu ruộng đất lạc hậu và một bên là CNTB công

nghiệp tài chính tiên tiến nhất.
Việc thực thi chính sách “cộng sản thời chiến” cũng nhận được sự đồng thuận
trong dân chúng rất cao. Cần nhấn mạnh rằng việc chán ghét chiến tranh, mong muốn
13


sớm chấm dứt cuộc chiến tranh này đã tạo nên một sự phản kháng ác liệt của các giai
cấp trong các lĩnh vực của đời sống khác nhau, từ kinh tế đến chính trị và quân sự, đã
thúc đẩy chính sách “cộng sản thời chiến” được thực thi nhanh hơn, tương ứng với nó
là có những biện pháp cách mạng kiên quyết trong những hoàn cảnh đặc biệt. Chính
lòng nhiệt tình sôi sục của quần chúng nhân dân đã đẩy việc thực hiện chính sách
“cộng sản thời chiến” lên cao trào. Lúc đó “ được cao trào nhiệt tình lôi cuốn, chúng
ta, những người đã từng thức tỉnh nhiệt tình của nhân dân, - trước hết là về mặt chính
trị, rồi sau về mặt quân sự, - chúng ta đã tính là có thể dựa vào nhiệt tình đó mà trực
tiếp thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cũng to tát như những nhiệm vụ chính trị
chung, như những nhiệm vụ quân sự” [61,189]. Lúc đó, hầu như mọi người dân đều
khẳng định rằng bằng lòng nhiệt tình cách mạng thì điều gì cũng có thể làm được,
muốn làm gì là có thể làm ngay được. Lúc đó, tất cả đều mong muốn có thể trực tiếp
xây dựng nhà nước theo kiểu CSCN.
Chính bởi vậy mà nhân dân, nhất là người nông dân, đã chấp nhận những
chính sách có phần kỷ luật, nghiêm ngặt của chính quyền Xô viết, ngay cả chế độ
trưng thu lương thực thừa. Bởi họ mong mỏi được kết thúc chiến tranh, muốn sao cho
mức sống tối thiểu của họ được cải thiện nhanh chóng. Do đó, có thể khẳng định,
chính sách “cộng sản thời chiến” được đẩy nhanh, làm mạnh trước hết từ bên dưới.
Chính lòng nhiệt tình cách mạng của nhân dân đã khiến mọi người cho rằng:
“…tưởng có thể dùng pháp lệnh của nhà nước vô sản để tổ chức theo kiểu cộng sản
chủ nghĩa trong một nước tiểu nông…Đời sống thực tế đã vạch rõ sai lầm của chúng
ta” [61, 189]. Bản thân Lênin, khi đó, đã nhận thấy những nguy cơ tiềm ẩn từ lòng
nhiệt tình đó. Người đã nhiều lần kêu gọi “ không huỷ bỏ (tạm thời) tiền tệ và không
ngăn cấm những sự giao dịch mua bán cá biệt giữa các hộ cá biệt” [53,93], “ không

thể thủ tiêu tiền tệ trong thời gian đầu của bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản” [55,147].
Lênin đã nhận thấy những chính sách, đặc biệt là chính sách trưng thu lương
thực thừa, xét về mặt khách quan, về mặt lợi ích kinh tế là nó chưa phù hợp. Nhưng
hãy thử nghĩ xem công việc bảo vệ đất nước, mà bọn men sê vích cho rằng đó là công
việc “ gàn dở”, trong khi các cường quốc lại xúm lại viện trợ cho bọn bạch vệ, thì
phải nói tình thế của nhà nước và nhân dân Xô viết “ cực kỳ khó khăn” đến mức độ
nào. Sau này, Lênin có nhận xét rằng thắng lợi của Xô viết trong 7 năm chiến tranh
đó là “ lúc đó giai cấp công nhân và nông dân đã tự nguyện chịu những sự hy sinh có
thể nói là vượt quá sức chịu đựng của con người. Chưa bao giờ giai cấp công nhân đã
14


phải chịu ăn thiếu thốn, phải chịu một nạn đói như trong những năm đầu nó nắm
quyền chuyên chính. Rõ ràng là muốn hoàn thành được nhiệm vụ đó, thì ngoài việc
thực hiện chế độ trưng thu với ý nghĩa là lấy tất cả lương thực thừa, và ngay cả một
phần các vật phẩm cần thiết của nông dân nữa, chúng ta không còn biện pháp nào
khác” [60,179]. Bên cạnh đó, chính sách này có nhiệm vụ xây dựng đất nước trong
hoàn cảnh chiến tranh, lúc mà “ xung quanh chúng ta là những người, những giai cấp
và những chính phủ đang công khai tỏ ra cực kỳ căm thù chúng ta” [61, 364].
Chiến tranh diễn ra trong một thời gian khá dài, đồng nghĩa với việc áp dụng
chính sách “cộng sản thời chiến” trong một thời gian dài khiến nó ăn sâu vào nền
kinh tế, vào quản lý kinh tế, vào ý thức của người dân. Do đó, khi chiến tranh kết
thúc, chính sách này vẫn được thực hiện một phần do quán tính, hơn nữa những biện
pháp, pháp lý hành chính dễ hơn và quen hơn so với những biện pháp kinh tế. Đồng
thời, phần lớn những người lãnh đạo, đặc biệt là ở cơ quan hành chính coi đây là con
đường ngắn nhất để xây dựng chủ nghĩa Cộng sản.
Tuy vậy, chính sách này vi phạm một điều rất rõ rệt và nó chỉ bộc lộ ra khi
chiến tranh kết thúc, là nó vi phạm lợi ích người lao động, nhất là người nông dân
cũng như những kích thích cần thiết để phát triển kinh tế. Vào thời điểm chiến tranh,

mọi người dân đều chấp nhận và với lòng nhiệt tình cách mạng cao nên lợi ích riêng
tư, lợi ích cá nhân bị xếp sau lợi ích toàn dân. Bản thân Lênin sau này cũng nhấn
mạnh nhiều lần rằng chính sách “cộng sản thời chiến” chỉ là biện pháp tình thế, chính
sách tạm thời và “ trong hoàn cảnh nội chiến chúng ta phải dùng những biện pháp của
thời chiến. Tuy nhiên, nếu từ đó chúng ta rút ra kết luận rằng những biện pháp và
quan hệ đó là duy nhất có thể áp dụng được thì thật là một sai lầm lớn vô
cùng”[60,35].
Sau chiến tranh, việc tiếp tục chính sách “cộng sản thời chiến” cộng với sự tàn
phá nghiêm trọng của chiến tranh, nước Nga Xô viết lâm vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng, tình trạng suy thoái đã rơi vào vực thẳm. Đời sống của tầng lớp nhân dân càng
thêm điêu đứng, khổn khó tới mức không sao chịu nổi nữa.
Thực chất cuộc khủng hoảng ở nước Nga Xô viết đã bắt đầu xuất hiện từ đầu
năm 1920 nhưng phải tới sau chiến tranh, khi tất cả bắt tay xây dựng lại đất nước,
biểu hiện này mới dần xuất hiện rõ rệt và nhận biết rõ hơn. Cần phải khẳng định một
điều là ngay sau chiến tranh 11/ 1920, Lênin cũng bắt tay vào xây dựng lại kinh tế,
nhận thức lại tình hình kinh tế để có những biện pháp, bước đi phù hợp, Người không
hề có ý định kéo dài chính sách “cộng sản thời chiến”, hay coi đó là chính sách để
15


xây dựng đất nước đi lên CNCS. Bởi vậy, đến tháng 3/ 1921 tức là sau cuộc chiến
tranh cuối cùng hơn 3 tháng, Lênin và chính quyền Xô viết đã chuyển từ chính sách
“cộng sản thời chiến” sang chính sách kinh tế mới. Và lúc này, chính sách “cộng sản
thời chiến” đã hoàn thành vai trò lịch sử của nó sau khi đảm bảo thắng lợi trước bọn
bạch vệ và bọn đế quốc can thiệp. Nó chính là cái nạng giúp cho nhân dân và chính
quyền Xô viết thoát ra khỏi cuộc chiến tranh và “ không cần chống nạng mà cũng có
thể thoát ra khỏi tình trạng đó thì thật không hiểu gì hết!”[60,81].
Tuy nhiên, có một điều rằng, khi thực thi chính sách cũ nhiều người đã nghĩ đó
là một biện pháp xây dựng đất nước đi lên CNXH. Chính chính sách ấy đã giúp nước
Nga chiến thắng trong cuộc chiến tranh khốc liệt nhưng lại làm cho những người dân

Nga khi đó đã ngộ nhận rằng việc tổ chức sản xuất tập thể, theo một kế hoạch thống
nhất và phân phối sản phẩm theo nguyên tắc bình quân cũng như việc xoá bỏ quan hệ
hàng hoá- tiền tệ là điều có thể thực hiện được. Nó chỉ là biện pháp tất yếu và thiết
thực. Nhưng nó cũng không phải là một biện pháp lỗi thời như một số nhà tư tưởng
nhận định. Nó là chính sách chưa hợp thời, là chính sách mà thực tiễn chưa vận động
đến chỗ phù hợp cho nó phát huy hiệu quả.
1.1.2. Từ chính sách “cộng sản thời chiến” sang chính sách kinh tế mới là
một sự thay đổi về biện pháp xây dựng nƣớc Nga Xô viết của V.I. Lênin
Cuộc nội chiến và chiến tranh can thiệp của nước ngoài vào nước Nga Xô viết
đã kết thúc với thắng lợi to lớn của nước Nga non trẻ. CNXH đã chứng minh quyền
tồn tại của mình trong trận chiến đấu gay go, ác liệt. Sau chiến tranh, nhiệm vụ xây
dựng kinh tế được đặt ra thay cho các nhiệm vụ đàn áp kẻ thù của giai cấp bằng quân
sự. Tuy nhiên, việc xây dựng kinh tế của nước Nga hiện giờ khó khăn hơn nhiều so
với năm 1918 bởi sự tàn phá nặng nề của chiến tranh nhất là cuộc nội chiến, gần như
làm khánh kiệt nước Nga, khiến giai cấp công nhân và nông dân mệt mỏi về tinh thần,
bất bình vì lợi ích riêng của họ và gia đình họ không được bảo đảm. Lúc này, cần có
một chính sách kinh tế mới thích hợp với nhiệm vụ xây dựng kinh tế trong hoà bình.
Theo Lênin đã đến lúc phải thay liên minh quân sự và chính trị của giai cấp công
nhân và nông dân bằng liên minh kinh tế. Chính sách kinh tế mới đã xuất phát từ đó
để xây dựng nước Nga trong tình hình mới. Đây là một sự thay đổi chiến thuật và sự
thay đổi chiến thuật này theo Lênin được ví như hành động chuyển từ “ xung phong”
sang “ bao vây”.
Trước tiên, việc chuyển chiến thuật chắc chắn sẽ khiến cho nhiều người cảm
thấy bực dọc, chán nản, than khóc, phàn nàn. Tuy nhiên, với Lênin “ bị một phen thất
16


bại không nguy hiểm bằng không dám thừa nhận sự thất bại, không dám rút ở đó ra
tất cả những kết luận” [61,254]. Muốn chuyển chiến thuật thì cần có sự thay đổi
trong tư duy, và sự thay đổi trong tư duy đầu tiên là thừa nhận có những sai lầm trong

chính sách cũ, dù sai lầm đó trong chính sách cũ là không thể tránh khỏi nhưng trong
thời kỳ mới cần phải sửa chữa nó. Thừa nhận những sai lầm để làm tốt hơn, chu đáo
hơn, thận trọng hơn và có hệ thống hơn trong những chính sách sau. Lênin còn nhấn
mạnh: “ Nếu chúng ta cho rằng thừa nhận một thất bại cũng giống như bỏ một vị trí, sẽ
gây ra tâm trạng chán nản và làm nhụt chí đấu tranh, thì phải nói rằng những nhà cách
mạng như thế không đáng giá một xu” [61,255]. Việc tiếp sau của việc thừa nhận sai
lầm trong tư duy đó là việc phải từ đó chuyển sang phương thức khác để phát triển,
theo Lênin đó là phương thức “ bao vây” tức là sử dụng chính sách kinh tế mới.
Giai đoạn “xung phong” là giai đoạn từ khoảng đầu năm 1918 cho đến mùa
xuân 1921. Đây là thời kỳ mà chính quyền Xô viết dùng con đường ngắn nhất, nhanh
nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối theo nguyên tắc XHCN.
Với Lênin, khi nhận định lại chính sách cũ là sai lầm hay không sai lầm, Người đã
khẳng định: “Đương nhiên giờ đây, khi chúng ta nhìn vào triển vọng của sự phát triển
lịch sử mà đánh giá các sự kiện, chúng ta không thể không thấy rằng sắc lệnh ấy là
ngây thơ và - xét về một mặt nào đó- là sai lầm"[61,251]. Nhưng nó cũng không hoàn
toàn sai lầm vì “ nhà nước, tức là giai cấp vô sản, đã thử chuyển sang những quan hệ
xã hội mới bằng cách có thể nói là hết sức tìm cách thích ứng với những quan hệ xã
hội tồn tại khi ấy, hết sức tìm cách tiến hành từ từ và không quá mạnh” [61,252].
Lênin biết rõ xây dựng nước Nga hồi đó như thế nào. Vì Người đã nhận thức rõ tình
hình kinh tế của nước Nga Xô viết khi đó là chế độ ruộng đất lạc hậu nhất cùng với
tình trạng nông thôn dốt nát nhất và một bên là chủ nghĩa tư bản công nghiệp và tài
chính tiên tiến nhất. Khi đó, ở nước nga, người nông dân chiếm 82,4% dân số, sản
phẩm nông nghiệp chiếm 51,4% tổng sản phẩm quốc dân. Hơn ai hết, Lênin hiểu cần
đưa ra chính sách phù hợp với kinh tế như thế nào để phát triển. Tuy nhiên, chính
quyền Xô viết non trẻ đã nhận một lời tuyên chiến của kẻ thù. Chúng muốn xem
chính quyền non trẻ ấy có thể đứng vững được bao lâu. Và lúc đó chỉ có thể giải
quyết bằng một cuộc chiến tranh và cuộc chiến tranh này vì là một cuộc nội chiến nên
vô cùng tàn khốc và “ cuộc đấu tranh càng trở nên khó khăn thì càng ít có khả năng
thực hiện một bước quá độ thận trọng được” [61,253] và phải dùng những biện pháp
đấu tranh hết sức gắt gao, tàn khốc, quyết liệt. Đây chính là biện pháp “ xung phong”,

dốc toàn bộ lực lượng ra để cho chiến tranh bảo vệ đất nước và chính quyền thời đó.
17


Chính quyền Xô viết buộc phải chuyển từ nhiệm vụ kinh tế sang nhiệm vụ quân sự và
chính vì vậy mà trên mặt kinh tế, theo Lênin, “ chúng ta đã bị thất bại rất nặng nề…
đó là điều không thể nghi ngờ gì nữa đối với những người cộng sản” [61,198].
Khi chuyển sang giai đoạn “bao vây” cũng là lúc phải chấm dứt những sai
lầm của chiến thuật cũ và những gì dính líu đến sai lầm đó gây trở ngại cho sự hoạt
động cần được thay đổi và chuyển hẳn sang chiến thuật mới. Lênin đã khẳng định,
nếu cứ thừa nhận chính sách thời chiến có thể áp dụng cho thời bình mà không chịu
thay đổi thì “ có nghĩa là sự phá sản của chính quyền Xô- viết và chuyên chính vô
sản” [60,35]. Lênin đã cảnh báo việc tiếp tục thực hiện chính sách cũ sẽ dần tới một
tai hoạ cho chính quyền Xô viết non trẻ. Người thấm nhuần quan điểm của Mác,
Ănghen cho rằng trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau cần phải có những
bước đi phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể đó. Nếu trái lại thì sẽ phá vỡ quy luật và
chịu thất bại. Chuyển sang chính sách kinh tế mới là bước đi phù hợp với quy luật ấy.
Chuyển sang “ bao vây” cũng tức là tiến công một cách từ từ, rút lui có tính chất
chiến lược, "trong khi họ chưa đánh bại hẳn được chúng ta, chúng ta hãy rút lui và
xây dựng lại tất cả, nhưng một cách chắc chắn hơn"[61,198].
Có nhiều người nhận định chính sách kinh tế mới chỉ là chính sách tình thế
Lênin vội đưa ra để khắc phục chính sách cũ, mà không có sự chuẩn bị tư tưởng.
Hoàn toàn không phải vậy. Người đã định xây dựng nước Nga với những chính sách
kinh tế được xây dựng năm 1918 nhưng do chiến tranh nên chính sách xây dựng đất
nước cũng phải thay đổi. Lênin đã khẳng định phải có những biện pháp kinh tế mà
trước đây chưa có thể thực hiện được do chiến tranh và thực sự sai lầm khi kéo dài
chính sách ấy. Lênin cũng thừa nhận những sai lầm trong chính sách cũ như đi quá xa
trong việc quốc hữu hóa thương nghiệp và công nghiệp, trong việc đình chỉ những sự
trao đổi địa phương.
Chuyển sang chính sách kinh tế mới là để phù hợp với những điều kiện mới và

vì vậy, nó là chính sách mới nhưng có những cái phải lùi hơn so với chính sách cũ.
Lênin đã cho rằng cái chính sách kinh tế mà người ta gọi là “mới”, mới so với chính
sách kinh tế của ta trước kia. Nhưng về thực chất, trong chính sách đó có nhiều cái cũ
hơn chính sách kinh tế trước kia của ta. Nó được gọi là mới theo Lênin “ vì nó quay
trở lại đàng sau”[61,350]. Chính chính sách này là một bước lùi của chính quyền Xôviết, chưa nên xây dựng trực tiếp CNXH, mà trong nhiều lĩnh vực kinh tế cần phải lùi
về CNTB nhà nước tức là “ từ bỏ biện pháp tấn công chính diện và bắt đầu một cuộc
bao vây lâu dài, không thích thú, khó khăn và gian khổ, đòi hỏi phải rút lui trên hàng
18


loạt vấn đề” [61,255]. Lênin cũng thừa nhận rằng với việc thực hiện chính sách kinh
tế mới là chúng ta dường như lùi bước “ nhưng sau đó lấy đà nhảy một bước mãnh
liệt hơn về phía trước. Chính chỉ với điều kiện như vậy, chúng ta mới đã lùi bước
bằng cách thực hiện hiện chính sách kinh tế mới của chúng ta” [62,350].
Trong chính sách kinh tế mới, Lênin khẳng định chưa thể xoá bỏ thương
nghiệp mà phải phục hồi nó, thực hiện trao đổi thông qua thị trường. Việc phân phối
bằng hiện vật cũng đã chuyển sang phân phối sản phẩm thông qua lưu thông hàng
hoá, sử dụng lại đồng tiền trong lưu thông, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá để từ đó đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp và công nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân…
Chính sách kinh tế mới có nhiều điểm “lùi” hơn so với chính sách “cộng sản
thời chiến”, nó có những thay đổi trong tư duy của Lênin về con đường đi lên CNXH.
Một trong những thành công của Lênin khi áp dụng thành công chính sách kinh tế
mới vào thực tiễn là đã thực sự giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị, chuyển từ mối quan hệ giữa chính trị và quân sự trong chính sách cũ sang mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong chính sách kinh tế mới.
1.2. Nội dung mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong
chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin
1. 2.1. Khái niệm kinh tế và khái niệm chính trị
Thứ nhất: Khái niệm "kinh tế".
Kinh tế có thể được hiểu là tổng hoà các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của

con người và xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu
dùng các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao
của con người trong một xã hội nhất định.
Nguyên nghĩa của khái niệm này là “kinh bang tế thế”, là công việc của một vị
vua phải đảm nhiệm để chăm sóc đời sống vật chất của bề tôi, chăm lo đời sống tinh
thần của cộng đồng. Chữ Kinh trong “kinh bang” có nghĩa là trị nước, còn chứ “Tế”
trong “tế thế” có nghĩa là giúp đời. Nguồn gốc của chữ này do vua Minh Trị của Nhật
đã yêu cầu dịch ra từ tiếng Latinh, nhờ chữ này mà Minh Hoàng mới lôi kéo được
tầng lớp trí thức Nho giáo tham gia kinh doanh, buôn bán và làm giàu.
Thuật ngữ này có thể được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa hẹp chỉ hoạt động sản
xuất và làm ăn của cá nhân hay hộ gia đình. Nghĩa rộng chỉ toàn bộ các hoạt động sản
xuất, trao đổi, phân phối, lưu thông của cả một cộng đồng dân cư, một quốc gia trong
một khoảng thời gian nhất định.
Ngày nay, khái niệm kinh tế được hiểu với hai nghĩa cơ bản:
19


Một là: tổng thể các quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với mỗi
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Hai là: toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân hay một bộ phận của nền kinh tế
quốc dân. Nó bao gồm các hình thức sản xuất theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế
và vùng kinh tế (tức cơ cấu kinh tế) và cơ chế quản lý kinh tế.
Như vậy, thuật ngữ “kinh tế” phản ánh hoạt động sản xuất của một xã hội nhất
định, các điều kiện sống của con người, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và
tái sản xuất của con người. Nói đến kinh tế còn là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích,
đây là hai vấn đề quan trọng nhất, cốt lõi nhất của kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp, quan hệ giữa các giai cấp trước hết và chủ yếu biểu
hiện quan hệ giữa các lợi ích mà các giai cấp đó đang theo đuổi. Trong các lợi ích đó,
lợi ích ưu trội, vai trò chi phối là lợi ích vật chất. Thực tiễn của sự vận động và phát
triển của xã hội loài người cho thấy, giai cấp nào chiếm lĩnh được hầu hết tư liệu sản

xuất trong tay, hoặc là tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội thì giai cấp đó sẽ sản xuất
ra được nhiều sản phẩm cho xã hội hơn, và đồng thời là giai cấp nắm vị trí chi phối
trong việc tổ chức lao động trong xã hội, quản lý xã hội cũng như quyết định việc
phân phối sản phẩm xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, chính việc vi phạm lợi ích vật chất của các giai cấp
sẽ dẫn tới mâu thuẫn giai cấp hay nói chính xác hơn, lợi ích là nguồn gốc sâu xa của
mọi cuộc cách mạng trong xã hội.
Thứ hai: Khái niệm “chính trị”.
Chính trị là lĩnh vực phức tạp nhất của đời sống xã hội có giai cấp. Chính trị
không xuất hiện cùng với sự xuất hiện của loài người. Chỉ khi nào xã hội có sự phân
chia thành các giai cấp, có đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được, dẫn tới việc ra
đời nhà nước để nhằm giữ đấu tranh giai cấp trong vòng trật tự. Nhà nước ra đời thì
chính trị cũng xuất hiện. Chính trị là lĩnh vực nhạy bén nhất trong các yếu tố của kiến
trúc thượng tầng. Nó tác động nhanh nhất tới các mặt của đời sống xã hội. Trong các
cuộc đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực tư tưởng
không có vai trò quan trọng bằng cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị. Bởi cuộc đấu
tranh tranh trên lĩnh vực chính trị sẽ dẫn đến xuất hiện các chính Đảng đại diện cho
các giai cấp, sẽ có bạo lực cách mạng nổ ra không phải chỉ để đòi hỏi quyền lợi về
mặt kinh tế mà là quyền lực chính trị. Nói cách khác, khi có đấu tranh về chính trị tức
sẽ có cuộc cách mạng nổ ra nhằm thay đổi chế độ cũ bằng chế độ mới tiến bộ hơn.
Do đó, nó trở thành một động lực cho sự phát triển xã hội.
20


Chủ nghĩa Mác- Lênin, với quan điểm duy vật về lịch sử, đã xem chính trị là
một hiện tượng đặc biệt của đời sống xã hội, có liên quan tới các đảng phái và Nhà
nước. Nó phản ánh quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, các nhóm xã hội có lợi ích
khác nhau, mâu thuẫn với nhau, trong đó trước hết và căn bản nhất là lợi ích kinh tế.
Theo Lênin chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp; là sự tham gia của nhân
dân vào công việc Nhà nước, định hướng hoạt động Nhà nước; xác định hình thức,

nhiệm vụ, nội dung hoạt động Nhà nước. Bất kỳ hoạt động nào cũng có tính chất
chính trị nếu như việc giải quyết nó trực tiếp hay gián tiếp gắn với lợi ích giai cấp,
gắn với vấn đề quyền lực chính trị.
Vấn đề cơ bản nhất, chủ yếu nhất của chính trị là quyền lực nhà nước. Lợi ích
căn bản của các giai cấp được thể hiện tập trung nhất là ở vấn đề quyền lực nhà nước,
quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị theo Mác và Ănghen là bạo lực có tổ chức
của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác. Quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền được tổ chức thành nhà nước, từ đó ra đời quyền lực nhà nước; nó được thực
hiện bằng nhà nước, thông qua nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị nói chung.
Trước đây, Mác- Ăghen khi nghiên cứu và phát triển triết học khoa học về lịch
sử, đã cho thấy một cách rõ ràng các yếu tố và các mối liên hệ cơ bản của kết cấu xã
hội chung tất yếu, tức hình thái kinh tế- xã hội: 1, Các lực lượng sản xuất ở một trình
độ phát triển nhất định và quan hệ sản xuất phù hợp; 2, Cơ cấu kinh tế và kiến trúc
thượng tầng pháp lý, chính trị và các hình thái ý thức xã hội tương ứng với nó; 3,
Phương thức sản xuất và các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
Mác không những chỉ ra quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất mà ông còn đặc biệt chú ý phân tích mối quan
hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Mác đã chỉ rõ cơ sở hạ tầng xã hội bao
giờ cũng là nhân tố quyết định kiến trúc thượng tầng hay quan hệ kinh tế, quan hệ sản
xuất là những quan hệ xã hội cơ bản quyết định mọi quan hệ về chính trị, pháp luật, tư
tưởng đầu đổi mới, Đảng và Nhà nước đã
khẳng định kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng.
Ở đây, không phải đề cập tới việc xoá bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế này
hay thành phần kinh tế khác mà để đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng
XHCN thì thành phần kinh tế nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế
94


tập thể dần dần trở thành nền tảng của chế độ XHCN. Bởi vì, kinh tế nhà nước dựa
trên chế độ công hữu (sở hữu nhà nước) về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp

với xu hướng xã hội hoá lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó, kinh tế nhà nước nắm được
những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có
điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh
tế phát triển theo đúng hướng.
Nhiều nhà khoa học đã nhận định rằng, xét về mặt khách quan thành phần kinh
tế này còn hoạt động kém hiệu quả và điều này đang làm suy yếu sự định hướng và
dẫn dắt của kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác. Nổi lên hiện nay là
việc sử dụng lãng phí công sản, quản lý lỏng lẻo, vô trách nhiệm, phân phối tuỳ tiện,
ỷ lại vào đầu tư của Nhà nước…Chưa có sự ràng buộc lớn giữa quyền hạn và trách
nhiệm dẫn tới những sai lầm nhưng lại quy về trách nhiệm tập thể. Bởi vậy, để nâng
cao hiệu quả của kinh tế nhà nước, thì cần phải có một số biện pháp sau:
Trước hết, nhà nước cần sử dụng đội ngũ cán bộ quả lý coi trọng năng lực điều
hành và đặc biệt là ý thức trách nhiệm trước Nhà nước và tập thể. Nhà nước cần có
chính sách gắn quyền hạn và trách nhiệm cho không chỉ cá nhân mà còn tập thể, xây
dựng văn hoá từ chức nếu cá nhân đó không có năng lực quản lý. Cần thay thế chế độ
bổ nhiệm bằng tuyển dụng và đề cử tập thể lao động, định ra hệ thống tiêu chuẩn
đánh giá cán bộ quản lý một cách rõ ràng, gắn trách nhiệm với quyền lợị.
Bên cạnh đó, để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả phải làm sao
tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước thành công, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và
tổng công ty nhà nước. Kiên quyết chấm dứt tình trạng các tập đoàn kinh tế, công ty
nhà nước đầu tư dàn trải ra ngoài ngành, làm ăn thua lỗ, dẫn tới nhiều bất bình trong
dư luận như trong năm qua. Đồng thời, luôn tiến hành điều tra, minh bạch hóa tài
chính của các doanh nghiệp nhà nước.
Nhà nước cũng cần tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong các
ngành, các lĩnh vực quan trọng, có ỹ nghĩa then chốt, thuộc các ngành liên quan tới
kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, dịch vụ công..
Nhóm giải pháp thứ hai: Phát triển bền vững vì sự phát triển con người và
cộng đồng. Đây là nhóm giải pháp thể hiện mối quan hệ giữa văn hóa, xã hội với
chính trị- một khía cạnh ở chiều sâu của mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị.
Cùng với hơn 110 nước khác, Việt Nam đã chọn con đường phát triển bền

vững theo đúng các yêu cầu quốc tế. Để phát triển một cách bền vững thì Đảng và

95


Nhà nước cần chú ý rất nhiều vấn đề, tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn này, chúng
tôi xin đề cấp tới một số vấn đề chủ chốt sau:
Một là: Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Chiến lược xây dựng
và phát triển con người phải là mục tiêu hoạt động của mọi chính sách kinh tế- xã hội,
phải được thể hiện trong mọi hoạt động chính trị- xã hội. Điều đó có nghĩa là nền
kinh tế không được chạy theo sự phát triển vật chất đơn thuần mà bỏ quên mất con
người. Các hoạt động sản xuất cần lấy hiệu quả xã hội làm thước đo giá trị chủ yếu
chứ không dừng lại ở sự phát triển kinh tế thuần tuý. Trước mắt phải đầu tư cho con
người tức là phải đầu tư trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, nghệ thuật…dựa
trên nguyên tắc xây dựng con người mới vừa có sự hoà nhập, cởi mở với cộng đồng
thế giới, vừa mang đậm bản sắc dân tộc; luôn chủ động và sáng tạo, nỗ lực trong quá
trình phát triển bản thân và quốc gia.
Hai là: Phát triển kinh tế là trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới. Trong
đó, đặc biệt coi trọng việc chuyển từ quá trình phát triển về lượng tức là chỉ lo tăng
trưởng kinh tế sang quá trình phát triển về chất thể hiện ở việc xây dựng một trình độ
công nghệ, kỹ thuật cao trong các doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm (đặc biệt là sản
phẩm Việt Nam) được tăng cao và có tính cạnh tranh cao trên thị trường, hình thành
lực lượng lao động và lực lượng quản lý chuyên nghiệp ở trình độ cao. Thời kỳ này,
tri thức được xem như là yếu tố nội sinh, quyết định đến sản xuất và tăng trưởng kinh
tế. Trong thời đại ngày nay đúng như Lênin đã khẳng định, nếu anh mù chữ thì anh
đứng ngoài chính trị, nếu anh dốt nát thì ánh sẽ chuốc lấy bi kịch. Lao động tri thức
đã trở thành một đòi hỏi lớn của xã hội. Bởi vậy, một người lao động, một quốc gia
nếu muốn tồn tại và phát triển thì phải không ngừng nâng cao tri thức của mình, nâng
cao đội ngũ lao động có tri thức. Trong nền kinh tế thị trường, hàm lượng tri thức
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và áp đảo trong sản phẩm, hàng hoá để có thể nâng cao

sức cạnh tranh trên thị trường, để có thể tồn tại và phát triển. Chính bởi vậy nền kinh
tế đó tạo ra một khối lượng hàng hoá khổng lồ phong phú về chất lượng, mẫu mã và
luôn được đổi mới không ngừng. Giá trị của hàng hoá tuỳ thuộc nhiều vào hàm lượng
giá trị trí tuệ được kết tinh trong đó hơn là phụ thuộc vào các yếu tố truyền thống như
vốn, tài nguyên thiên nhiên, nguyên vật liệu.
Ba là: bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường là một yếu tố không thể tách
rời quá trình phát triển. Như chúng ta đã biết, môi trường sinh thái tự nhiên toàn cầu
hiện nay đang bị tàn phá, bị ô nhiễm nghiêm trọng và trở thành một tình huống nguy
hiểm đe doạ sự sống còn của toàn thể loài người. Bởi vậy, vấn đề môi trường hiện
96


nay không chỉ riêng một quốc gia mà đã mang tính toàn cầu. Nó ảnh hưởng rất lớn tới
sự phát triển không chỉ ở một quốc gia mà còn ở tất cả các nước trên thế giới. Ở Việt
Nam, vấn đề môi trường giữ vị trí đặc biệt quan trọng đối với con người và sự phát
triển đất nước. Thời tiết ngày càng diễn biến phức tạp và khó lường, gây nhiều thiệt
hại to lớn cả người và của. Tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt do chỗ phát triển
kinh tế- xã hội ở nước ta đến nay vẫn chủ yếu dựa vào việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên là chính. Bên cạnh đó do lực lượng sản xuất chưa phát triển, trình độ lao động
chưa cao gây lãng phí nguyên, nhiên vật liệu cũng như thải nhiều chất độc hại ra môi
trường trong quá trình sản xuất. Do vậy, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở
nên trầm trọng nhất là ở những khu vực đang phát triển kinh tế.
Bởi vậy, nhà nước cần có nhiều chính sách để giải quyết mối quan hệ giữa lợi
ích kinh tế và lợi ích môi trường, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài- thực chất
của việc giải quyết vấn đề tài nguyên và môi trường hiện nay. Cần thay đổi mô hình
sản xuất, tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường, sử dụng tiết kiệm các
nguồn tài nguyên không tái tạo được, giảm tối đa chất thải độc hại và khó phân huỷ ra
môi trường, duy trì cuộc sống cá nhân và xã hội hài hoà với thiên nhiên. Bên cạnh đó,
xây dựng những điều luật thực sự nghiêm khắc đối với hành vi ô nhiễm môi trường
của các cá nhân, các doanh nghiệp.

Nhóm giải pháp thứ ba: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
hiệu quả quản lý của Nhà nước. Đây là nhóm giải pháp rất quan trọng. Nó là nhóm
giải pháp nhằm nâng cao địa vị hàng đầu của chính trị so với kinh tế, xã hội. Nếu thực
hiện tốt được nhóm giải pháp này, chúng ta sẽ có một bộ máy lãnh đạo sáng suốt, tài
tình, biết đưa ra những quyết sách chính trị đúng đắn để đưa đất nước tiến lên.
Thế giới thế kỷ XXI, loài người tiến bộ đang chứng kiến những diễn biến hết
sức phức tạp của thế giới. Những xu thế phát triển của thế giới cùng với những biến
đổi sâu sắc đang diễn ra trên tất cả các lĩnh vực trong phạm vi từng quốc gia- dân tộc,
cũng như ở tất cả các lĩnh vực và trên toàn cầu. Chính thời đại toàn cầu hoá khiến cho
ranh giới giữa các quốc gia theo nghĩa truyền thống đang mất dần, thế giới đang trở
nên nhất thể hoá không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong lĩnh vực khác của đời
sống xã hội do yếu cầu kinh tế đặt ra. Nó khiến cho nhà nước của mỗi quốc gia đều
đang phải điều chỉnh cho phù hợp. Như pháp luật luôn được cải thiện để cho phù hợp
với các quy định chung của pháp luật quốc tế nhằm thu hút nhà đầu tư, tăng cường sự
can thiệp của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Các chính phủ đang đứng trước những
yêu cầu đổi mới ngày càng mạnh mẽ, ngày càng khắt khe theo những hướng chủ yếu
97


như chính phủ chi phí ít, chất lượng, chuyên nghiệp, điện tử, trong sạch và được
người dân tin dùng… Trước những biến đổi của thế giới, cùng với việc CNXH ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ, những tư tưởng chống phá cách mạng, chống phá chính
quyền thì Đảng Cộng sản Việt Nam thời đại mới có vai trò vô cùng quan trọng. Trong
thời kỳ mới này, Đảng và Nhà nước cần phải tập trung vào rất nhiều vấn đề, nhưng
trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi nhấn mạnh một số vấn đề sau:
Một là: Trong thời kỳ mới, Đảng Cộng sản Việt Nam phải vững mạnh về
chính trị, tư tưởng. Đảng phải luôn kiên định theo con đường CNXH, lấy chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Điều này thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng trong những điều kiện mới. Bên cạnh
đó, Đảng phải tiến hành tổ chức nghiên cứu, học tập lý luận một cách nghiêm túc, đặc

biệt là nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin để từ đó
nắm được bản chất của học thuyết mácxít là phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa
duy vật về lịch sử, từ đó xem xét thế giới với thái độ phê phán tích cực, luôn đặt nó
trong mối liên hệ qua lại và quá trình phát sinh, phát triển, thay thế không ngừng giữa
cái cũ và cái mới. Bên cạnh đó, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra
sức nâng cao trình độ trí tuệ, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững
truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong
hoạt động của Đảng.
Hai là: Thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng ta khẳng
định nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Sự nghiệp xây dựng CNXH
là do chính nhân dân tự làm lấy dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của Đảng và nhà nước,
mang lại cuộc sống sung sướng, hạnh phúc cho nhân dân cả về vật chất và tinh thần.
Bởi vậy, trước hết người dân phải nhận thức được quyền này và đem tài trí của mình
để phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, không chủ quan, ỷ lại vào Đảng và Nhà
nước. Nhưng quan trọng hơn Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây
dựng đất nước. Phải xây dựng các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của
nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích của nhân dân, của quốc gia, dân tộc.
Bởi vậy, để phát huy hơn nữa sự quản lý của nhà nước và lãnh đạo của Đảng
thì cần phải dựa vào dân, vì dân trong tất cả mọi đường lối, chính sách, tránh xa rời
quần chúng nhân dân. Một trong những nguy cơ của Đảng cầm quyền là xa rời quần
chúng nhân dân, là bệnh quan liêu. Để tránh nguy cơ đó và để phát huy quyền làm
98


×