Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận cao cấp lý luận chính trị: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.83 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 1

LỜI NÓI ĐẦU

Chủ nghĩa xã hội là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, do vậy
xây dựng CNXH là quá trình không ngừng phát huy và nâng cao quyền làm
chủ của nhân dân trên tất cả phương diện.
Nền dân chủ nhân dân ở nước ta được thiết lập từ thắng lợi của cách
mạng tháng Tám năm 1945 do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Nền dân chủ đó, là chế độ nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
và nay là Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đến nay, nền dân chủ đó
với tư cách là một thiết chế, một hình thức tổ chức chính trị – xã hội, đã
không ngừng được cũng cố và phát triển, trở thành một sức mạnh vô cùng
to lớn của nhân dân ta, dân tộc ta chiến đấu và thắng chủ nghĩa thực dân, đế
quốc xâm lược. Trong suốt chặng đường cách mạng 7 năm qua, từ khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng ta không ngừng phát triển đường lối
cách mạng của mình. Dân chủ là mục tiêu, là động lực phát triển xã hội,
dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 Đảng ta khẳng
định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong
giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân”.
Mặc dù vậy, trước yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, những yếu kém, trì trệ trong hệ thống chính trị xã
hội của nhân dân đang là một cản trở lớn đối với việc phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, tập hợp tất cả các lực lượng xã hội trong khối đại đoàn kết
toàn dân để tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đưa cách mạng tiếp tục tiến lên.
Nhận rõ tầm quan trọng của việc phát huy dân chủ, Đảng và nhà


nước đã hết sức chú trọng, coi đó là một trong những vấn đề liên quan đến
thành công của các phong trào vận động cách mạng của quần chúng do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện bằng chỉ thị số 30/CT-TW ngày
10/12/1998 của bộ chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở là khâu đột phá bước đầu đã đạt được những thành tựu rất quan trọng.
Phát huy dân chủ ở cơ sở rất được lòng dân, nhân dân đồng tình hưởng
ứng. Nhưng những nơi làm tốt đang trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy
thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế – văn hóa – xã hội – an ninh quốc phòng
của địa phương, đơn vị. Nhưng bên cạnh đó, một số nơi chưa thực hiện tốt
quy chế dân chủ, còn vi phạm pháp luật, xâm phạm dân chủ của nhân dân.
Vì vậy, với quá trình thực hiện và phát huy dân chủ cần tăng cường giữ
vững kỷ cương, kỷ luật, phép nước. Thực hiện tốt chủ trương của Đảng và
nhà nước ta.


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 2

Tiếp tục tinh thần đó, đến đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam năm
2001 đã xác định mục tiêu dân chủ và việc đẩy mạnh phát triển dân chủ
toàn diện đã trở thành một nội dung lớn được thể hiện trong nghị quyết để
thực hiện toàn Đảng và của nhân dân ta. Đồng thời, một chủ trương hết
sức cấp bách nhằm cải thiện tình hình dân chủ ở cấp cơ sở đã được Đảng
và nhà nước đưa ra.
Là một người đang học tập lớp cao cấp lý luận chính trị tại phân viện
thành phố Hồ Chí Minh, tôi muốn dùng kiến thức lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin đã được trang bị trong thời gian theo học tại trường để vận dụng và
phân tích, đánh giá tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của xã, từ
đó mong có thể góp phần thiết thực vào việc thực hiện tốt hơn nữa công tác

này chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
xã Thường Phước 2 Huyện Hồng Ngự Tỉnh Đồng Tháp” để làm chủ đề
cho tiểu luận tốt nghiệp cuối khóa học của mình.
Mặc dù bản thân có quyết tâm cố gắng đầu tư công sức nhưng vì
trình độ có giới hạn, chắc không tránh khỏi những thiếu sót nhất định,
mong được thầy cô chỉ rõ và bổ sung khiếm khuyết để bản thân nhận thức
đúng đắn đầy đủ hơn về đề tài mình lựa chọn nghiên cứu. Từ đó, giúp ích
cho công tác thực tiễn sau này để trở về địa phương thực hiện tốt hơn.


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 3

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG – HOÀN THIỆN VÀ
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm dân chủ
Về mặt lịch sử, khái niệm dân chủ có rất sớm, từ thời cổ đại
Hy Lạp. Dân chủ là quyền lực của nhân dân thuộc về nhân dân trong quan
hệ với nhà nước và xã hội. Tức là, khái niệm dân chủ dùng để chỉ một chế
độ xã hội mà ở đó nhân dân là chủ thể của quyền lực.
Sự phát triển của xã hội loài người và nhận thức con người đã
đưa đến những cách tiếp cận khác nhau về dân chủ. Dân chủ thường được
nhận thức trên hai phương diện cơ bản là một giá trị xã hội, và là một chế
độ xã hội.
Dân chủ là một giá trị xã hội: Vì nó luôn đi cùng với những

đòi hỏi công bằng, bình đẳng và tự do. Mỗi một trình độ phát triển của dân
chủ mà con người đạt đến sẽ đồng thời là một bước tiến của con người tới
tự do, công bằng và bình đẳng và như vậy, dân chủ mang giá trị nhân văn,
nhân đạo, gắn liền với ý thức cá nhân, ý thức xã hội của con người trong
quá trình vươn tới sự phát triển và hoàn thiện đầy đủ của nhân cách.
Dân chủ là một chế độ xã hội: Tức chế độ dân chủ, khi đó, dân
chủ là một hình thức, một thể chế tổ chức và vận hành các quan hệ chính trị
– xã hội, trong đó, đặc biệt là quan hệ chính trị kinh tế, theo nguyên tắc
thiểu số phục tùng đa số, đồng thời thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực
hiện quyền tự do, bình đẳng về mọi mặt của con người cả trên tư cách cá
nhân lẫn tư cách công dân của họ, thừa nhận tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân, nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước và xã hội. V.I – Lênin
viết: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình
thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là
việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Một
mặt thì như thế, nhưng mặt khác chế độ dân chủ là chính thức thừa nhận
quyền bình đẳng giữa những người công dân, thừa nhận cho mọi người có
quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà
nước” (V.I – Lênin TT, T33, NXB tiến bộ M, 1976 trang 123).
Cần thấy rằng, nội dung chế độ xã hội của dân chủ quy định
nội dung giá trị xã hội của nó. Tức là, dân chủ thể hiện giá trị xã hội của nó
thông qua chế độ xã hội mà nó tồn tại. Ở đây, chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ
nghĩa xã hội khoa học tập trung nghiên cứu xem xét dân chủ với tư cách là
một chế độ xã hội.


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 4


Ngoài ra dân chủ, trong sự vận động phát triển của nó ngày
nay còn được hiểu là một phương pháp tổ chức quản lý, hay một cơ chế
vận hành các hoạt động của những tổ chức, những lĩnh vực khác nhau trong
đời sống xã hội, thậm chí trong cả các quan hệ quốc tế của các quốc gia và
khu vực trên thế giới. Chính vì thế mà có dân chủ trong cơ quan, dân chủ ở
cơ sở, dân chủ về chính trị, dân chủ trên lĩnh vực quan hệ quốc tế v.v…
Để có sự nhận thức rõ ràng hơn về dân chủ thông qua hình
thức chế độ xã hội của nó. Không thể không đề cập đến hệ thống chính trị
như là một thiết chế của dân chủ.
Hệ thống chính trị và chỉnh thể bao gồm nhà nước, các Đảng
phái, các đoàn thể, các tổ chức chính trị – xã hội tồn tại hợp pháp tạo thành,
nhằm tác động vào các quá trình xã hội để củng cố, duy trì, phát triển chế
độ đó, phù hợp với lợi ích của chủ thể cầm quyền. Tất nhiên, hệ thống
chính trị đó còn có chức năng xã hội nữa. Hoạt động chính trị mang bản
chất giai cấp, đại diện cho giai cấp và phục vụ cho việc duy trì địa vị thống
trị của giai cấp cầm quyền.
Sẽ không thể hình dung được dân chủ là gì nếu như không có
hệ thống chính trị nào đó xây dựng và thiết lập một cơ chế để nhờ đó, dân
chủ được vận hành, được thể hiện chức năng và động lực xã hội của nó.
Dân chủ được tồn tại thông qua hệ thống chính trị, hệ thống
chính trị là hiện thân của dân chủ, nhưng như đã trình bày, không phải cứ
có hệ thống chính trị là có dân chủ. Dân chủ hay không là do bản chất của
hệ thống chính trị. Và dân chủ cho ai, dân chủ như thế nào, dân chủ đến
mức nào còn phụ thuộc vào cách thức tổ chức và vận hành nền dân chủ,
vào chế độ kinh tế – xã hội và trình độ phát triển của nền kinh tế này mà
trên đó hệ thống chính trị tồn tại và hoạt động. Đến nay, bản chất giai cấp
của dân chủ được làm rõ do hệ thống chính trị mà dân chủ bao giờ cũng là
của một giai cấp nhất định nào đó, phục vụ cho lợi ích cơ bản của giai cấp
đó. Ngược lại, cũng chính qua hệ thống chính trị mà dân chủ biểu hiện giá
trị xã hội của nó. Song đồng thời cũng là vấn đề hết sức phức tạp, gây

nhiều tranh cải, thậm chí không ít hiểu lầm, ngộ nhận trong đấu tranh lý
luận chính trị về dân chủ hiện nay.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân chủ
trước hết là một chế độ nhà nước, một hình thức tổ chức quyền lực chính trị
của giai cấp cầm quyền, và là sản phẩm của đấu tranh giai cấp của nhân
dân lao động với giai cấp thống trị đang nắm giữ tư liệu sản xuất trong xã
hội. Do đó, dân chủ là một phạm trù chính trị – xã hội mang tính lịch sử.
2. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Mỗi một hình thái kinh tế – xã hội gắn liền với một kiểu tổ
chức chế độ dân chủ, hay một trình độ dân chủ. Trong lịch sử dân chủ đã


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 5

tồn tại ở hai hình thức tiêu biểu của nó là nền dân chủ tư sản (tức nền dân
chủ tư bản chủ nghĩa) và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa khác về chất là một trình độ
phát triển cao hơn so với nền dân chủ tư sản ở tính toàn diện và triệt để của
nó. Cái khác về chất đó suy cho cùng là vì nó thể hiện nhu cầu phát triển
cao hơn của lực lượng sản xuất xã hội hóa mà quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã không còn phù hợp với nó và kìm hãm sự phát triển của nó. Toàn
diện và triệt để và lấy cơ sở kinh tế – xã hội là việc phát triển chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất dưới nhiều hình thức làm nền tảng; từ đó mà đem
lại quyền lực thực sự cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên mọi
lĩnh vực, tức là quyền lực của số đông, đem lại lợi ích cho số đông. Quyền
lực phổ biến này được tổ chức thành chế độ chính trị mà trong đó, nhà
nước là bộ phận quan trọng nhất. Thông qua chế độ chính trị của mình, lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được bảo đảm, củng cố và

phát triển.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn là nền dân chủ chính trị do xã
hội còn ở trình độ thấp của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa,
còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhưng nó được hoàn thiện dần cho đến
khi xác lập được vị trí thống trị của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
đời sống kinh tế – xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa
số nhân dân trong xã hội mà giai cấp công nhân là người đại biểu, được
thực hiện thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Lợi ích của giai
cấp công nhân biểu hiện lợi ích chung của toàn xã hội do chỗ nó tiêu biểu
cho tính chất xã hội hóa lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu xã hội, cơ sở
kinh tế của dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất, cơ sở chính trị trực tiếp của nó là chế độ nhà nước do
Đảng cộng sản lãnh đạo.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thiết lập từ thắng lợi của
cuộc cách mạng dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo, giải phóng
giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi ách thống trị tư sản, thành
lập chính quyền nhà nước của nhân dân. Lúc này nhân dân từ địa vị người
bị áp bức, bóc lột và thống trị thành người ở địa vị làm chủ nhà nước và xã
hội, là chủ thể thực hiện việc xây dựng xã hội mới như là một quá trình
chính trị tự giác.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội là chế độ do nhân dân lao động làm
chủ, quyền làm chủ đó được triển khai rộng rãi trên mọi mặt của đời sống
xã hội như kinh tế – chính trị – xã hội – văn hóa, mà cơ bản nhất là trên
lĩnh vực kinh tế. V.I – Lênin nói: “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra
những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức
cuộc đấu tranh vì cách mạng xã hội, tách riêng ra, thì bất cứ chế độ dân
chủ nào cũng không thể sinh ra chủ nghĩa xã hội được, nhưng trong đời


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP


Trang 6

sống, chế độ dân chủ không bao giờ “Tách riêng” được mà nó sẽ “đứng
chung trong toàn bộ”, nó cũng sẽ ảnh hưởng đến kinh tế, sẽ thúc đẩy sự
cải tạo kinh tế, nó sẽ chịu ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế, v.v… đó là
biện chứng của lịch sử sinh động” (V.I – Lênin TT, T33, NXB Tiến bộ M,
1976, trang 97).
Cơ sở chính trị xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là tổng
thể các lực lượng chính trị bao gồm Đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ
nghĩa và các tổ chức chính trị – xã hội, các tập thể lao động hoạt động theo
một cơ chế nhất định phù hợp với những quy luật phát triển của xã hội.
Đặc điểm của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân. Bộ máy nhà nước và cả hệ thống chính trị chỉ
là cơ quan được nhân dân trao quyền để tổ chức mọi hoạt động của đời
sống xã hội vì lợi ích của chính mình (Tức của nhân dân). Quyền lực nhân
dân còn được sử dụng thông qua các tổ chức xã hội – chính trị không trong
bộ máy nhà nước, những liên minh chính trị và các phong trào quần chúng.
Điều đặc biệt cần chú ý là, khác với hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa, hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa không có tính đối kháng trong nó.
Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa bằng hoạt động của mình là một thiết chế bảo đảm quyền dân
chủ rộng rãi của nhân dân. Hoạt động của hệ thống chính trị phải đạt hiệu
quả cao thì dân chủ mới thực sự được thực hiện; tính tích cực chính trị của
quần chúng nhân dân mới được nâng cao; công bằng, bình đẳng xã hội mới
được bảo đảm. Vì thế phải quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nước, dân chủ đi đôi với pháp luật, kỷ
cương, trật tự; dân chủ gắn liền với xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa v.v…

Sự thiếu dân chủ trong hoạt động của hệ thống chính trị cũng
ảnh hưởng xấu và nguy hại như thiếu dân chủ trong đời sống xã hội; vì nó
làm biến dạng bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm tha hóa quyền lực
của nhân dân.
Có thể nói, cộng với những yếu kém, sai lầm trong quan điểm
nhận thức về xây dựng nền dân chủ, những bất cập trong hệ thống chính trị,
trong cơ chế thực hiện quyền lực nhân dân đã không hoặc chậm được khắc
phục, giải quyết đã là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng
hoảng kinh tế – xã hội ở một loạt nước xã hội chủ nghĩa những thập niên
90 của thế kỷ 20. những sai lầm chủ quan sau đó của cải tổ, cải cách đã dẫn
đến chỗ làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đỗ.
Đó là những bài học đắt giá cho xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 7

II. QUAN ĐIỂM, TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG TÌNH HÌNH HIỆN
NAY
1. Ý nghĩa, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong thời kỳ
đổi mới
Sự nghiệp đổi mới theo tinh thần nghị quyết đại hội lần thứ
VIII của Đảng có ghi: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị”. Trong đổi mới trước hết chúng ta tập trung vào việc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh
tế, xã hội. Mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Không

chấp nhận dân chủ cực đoan, đa nguyên chính trị, đa Đảng đối lập.
Như vậy, bước quan trọng trong đổi mới kinh tế với nhiều
thuận lợi và không ít khó khăn như đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng
định: “Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do đại hội VII đề ra cho 5 năm
1991 – 1995 đã được hoàn thành về cơ bản”. Từ đó đã đưa đến sự phát
triển mạnh mẽ trên nhiều mặt đời sống xã hội. Nhờ vào đường lối đổi mới
được xác định đúng đắn, đã phát huy được sức mạnh đoàn kết, dân chủ
trong toàn xã hội, từ đó tạo ra những thành tựu to lớn về ổn định chính trị
và phát triển kinh tế đổi mới, trong đó đổi mới kinh tế được xác định làm
trọng tâm đã bao hàm nội dung một cuộc vận động dân chủ, vì nó khơi dậy
và phát huy mọi năng lực sản xuất và hoạt động kinh tế của mọi người dân,
mọi thành phần kinh tế vì lợi ích của họ và của xã hội; làm thay đổi mọi
mặt đời sống nhân dân từ sinh hoạt xã hội đến tâm lý, tư tưởng và tinh thần.
Quá trình dân chủ hóa về mọi mặt và những kết quả mà nó đem lại đã làm
cho đổi mới mang tầm vóc của một cuộc cải biến cách mạng sâu sắc và
toàn diện, tạo một bước ngoặc phát triển trong tiến trình cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Đến đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định việc
xây dựng nhà nước theo quan điểm: “Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân”.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ việc xây dựng nhà nước theo quan điểm
trên để tiếp tục phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân
chủ trực tiếp ở các cơ sở, chăm lo con người, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mọi người, giải quyết kịp thời khiếu nại tố cáo của công dân, Đảng ta
đã nhận thức sớm về vai trò quy chế dân chủ về chế định đảm bảo quyền
làm chủ của nhân dân.



TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 8

Những năm đổi mới vừa qua, thực hiện nghị quyết các đại hội
VI, VII, VIII và nghị quyết TW3 khóa VIII. Quyền làm chủ của nhân dân ta
đã được Đảng và nhà nước phát huy lên một bước, thể hiện rõ trong nhiều
chính sách đổi mới về kinh tế, chính trị – xã hội đã giải phóng tiềm năng to
lớn về vật chất và trí tuệ của nhân dân, nhờ đó mà việc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ tổ quốc đạt được những thành tựu to lớn, tuy nhiên quyền
làm chủ của nhân dân còn bị xâm phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ
quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền tham nhũng, sách nhiễu gây nhiều phiền
hà cho nhân dân đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa ngăn
chặn, đẩy lùi được. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” chưa được cụ thể hóa thành pháp luật cho nên chậm đi vào đời sống.
Tình trạng mất dân chủ, không để dân bàn bạc quyết định những công việc
cụ thể liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, bắt dân đóng góp vào
nhiều khoản vượt quá khả năng, lại không minh bạch về tài chính của các
khoản mà dân đóng góp. Tình trạng để tồn đọng nhiều đơn khiếu tố bị đùn
đẩy không giải quyết hoặc giải quyết không kịp thời, không đúng, tình
trạng quan liêu, quản lý lỏng lẻo để thất thoát lớn trong một số ngân hàng
hoặc gây lãng phí lớn trong xây dựng … chẳng những làm suy yếu lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và chính quyền mà còn làm triệt tiêu động lực
của nhân dân và xâm phạm vào bản chất tốt đẹp của chế độ.
Thực tiễn cho thấy, muốn phát huy được quyền làm chủ trực
tiếp của nhân dân ở cơ sở, Đảng lãnh đạo phải có quan điểm chính sách lớn
để định hướng. Đồng thời phải xây dựng được thiết chế dân chủ ở cơ sở
một cách cụ thể phù hợp với từng đối tượng dân cư, đó là những quy định
có tính pháp lý do nhà nước ban hành bắt buộc mọi người, mọi tổ chức

nghiêm chỉnh thực hiện và thực hiện có hiệu quả.
2. Nội dung phát huy dân chủ trong tình hình hiện nay
Dân chủ hóa ở nước ta là dân chủ được triển khai rộng rãi trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là kinh tế và chính trị.
Về dân chủ trên lĩnh vực chính trị: Là đổi mới và hoàn thiện
hệ thống chính trị; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt
động của từng tổ chức, từng bộ phận trong đó. Mục tiêu thực hiện dân chủ
trên lĩnh vực chính trị và phát triển các phương thức thực hiện quyền lợi
nhân dân; tăng cường khả năng tham gia của nhân dân vào đời sống chính
trị qua đó mà thực hiện tốt phát triển kinh tế.
Về dân chủ trên lĩnh vực kinh tế: Là bảo đảm vai trò làm chủ
của nhân dân trên toàn bộ các quá trình kinh tế, các hoạt động kinh tế của
xã hội, từ sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất đến phân
phối và phân chia lợi ích kinh tế. Thực hiện dân chủ trên lĩnh vực kinh tế
nhằm phát huy mọi tiềm năng, năng lực sản xuất của mọi thành phần kinh
tế, mọi cá nhân trong xã hội vì lợi ích của họ và của toàn xã hội.


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 9

Thông qua quyền làm chủ đối với tư liệu sản xuất chủ yếu của
xã hội mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động có được lợi ích tương
xứng với địa vị và ảnh hưởng của giai cấp, tầng lớp mình trong lĩnh vực
kinh tế của xã hội bằng việc thiết lập và duy trì một thể chế kinh tế dân chủ.
Nhờ có thể chế này mà mọi người, mọi công dân đều được quyền sử dụng
những tư liệu sản xuất mà họ đang sở hữu hợp pháp để tiến hành các hoạt
động kinh tế phù hợp với lợi ích của họ và lợi ích xã hội trong khuôn khổ
luật pháp; đồng thời, pháp luật bảo hộ các quyền kinh tế và quyền được

hoạt động kinh tế đó.
Dân chủ kinh tế là tiền đề, là cơ sở của tự do và dân chủ về
chính trị, không có dân chủ về kinh tế sẽ mất đi động lực cơ bản của dân
chủ trên các lĩnh vực khác.
Về dân chủ trên lĩnh vực xã hội và văn hóa là giải phóng và tự
do tư tưởng, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo tinh thần của công dân;
không ngừng phát triển đời sống tinh thần – xã hội phong phú, sinh động
qua đó tác động đến dân chủ trên lĩnh vực kinh tế và chính trị, nâng cao
năng lực thực hành dân chủ và tính tích cực chính trị của công dân.
Dân chủ hóa trên lĩnh vực xã hội và văn hóa sẽ làm cho quần
chúng nhân dân lao động ý thức tốt hơn về vai trò, khả năng làm chủ xã
hội, cũng như tăng cường năng lực thực hành dân chủ của mình, qua đó mà
hình thành nhu cầu, lối sống phù hợp với văn hóa dân chủ trong nhân dân
nâng cao vai trò của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, làm trong sạch bộ máy chính quyền. Những hiện tượng tiêu
cực xã hội như quan liêu, tham nhũng, trì trệ, xơ cứng trong hoạt động lãnh
đạo, quản lý của nhà nước đều là những biểu hiện nguy hại đối với thực
hành và phát huy dân chủ. Việc coi thường lợi ích của nhân dân, của công
dân; sống xa hoa, lãnh phí cũng là những nguyên nhân làm suy yếu cơ sở
xã hội của dân chủ, khách quan hóa nhưng điều kiện làm nảy sinh mâu
thuẫn xã hội mà các thực lực thù địch có thể lợi dụng để “Đục nước béo
cò”. Tất cả những cái đó đều là nguy cơ trực tiếp dẫn đến mất ổn định
chính trị và rối loạn xã hội cần phải được đẩy lùi.
Như vậy, dân chủ hóa xã hội toàn diện phải được nhìn nhận
như là phương thức cơ bản nhất để đảm bảo phát huy sức mạnh của toàn
thể nhân dân. Toàn thể cộng đồng dân tộc trong việc xây dựng xã hội mới,
xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn ngày càng khẳng định quan điểm khoa học và cách
mạng của Đảng, coi việc thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa,

là bản chất của chế độ nhà nước ta. Bác Hồ đã dạy: “Thực hành dân chủ
là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” hay “Có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả các lực lượng của


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 10

nhân dân đưa cách mạng tiến lên”. Phát huy dân chủ đã trở thành mối
quan tâm lớn của Đảng, nhà nước và nhân dân ta, không chỉ bằng ý tưởng
mà được cụ thể hóa trong nhiều văn bản có tính chất chiến lược và đảm bảo
bằng pháp luật, văn hiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và nhiều văn bản pháp
quy do nhà nước ban hành đã nói lên yêu cầu dân chủ. Trật tự, kỷ cương,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhằm tạo ra sự ổn định và phát triển
một cách toàn diện, đúng mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là những nội dung về dân chủ nói
chung một cách trực tiếp và rộng rãi đối với người dân, phát huy cao độ
quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển sản xuất, tổ chức đời sống,
quản lý xã hội, giữ gìn an toàn trật tự cộng đồng. Thực hiện dân chủ ở cơ
sở phải đúng theo khuôn khổ hiến pháp, pháp luật của nhà nước. Giữ vững
đường lối của Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Phát huy tính
tích cực sáng tạo của mọi thành viên đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Thực hiện dân chủ phải tạo nên sự thống nhất trong nhận
thức và hành động. Làm theo cái đúng, phê phán cái sai, đấu tranh loại bỏ
các hiện tượng tiêu cực của xã hội. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong việc xây dựng tình làng nghĩa xóm. Góp phần cùng chính quyền
tuyên truyền giáo dục pháp luật, xây dựng gia đình văn hóa, ấp văn hóa,
vận động mọi người tham gia thực hiện tốt các phong trào ở địa phương.

Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động thực chất là
tôn trọng con người. Phát huy sức mạnh sáng tạo đó vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở cơ sở là nền tảng của xã hội, là nơi phát huy nguồn
lực mạnh mẽ, có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động của xã hội.


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 11

CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CHUNG, THỰC TRẠNG VIỆC THỰC
HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ XÃ THƯỜNG PHƯỚC II,
HUYỆN HỒNG NGỰ TỈNH ĐỒNG THÁP NĂM 2003 – 2004

I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH XÃ THƯỜNG PHƯỚC II, HUYỆN
HỒNG NGỰ TỈNH ĐỒNG THÁP
Thường Phước 2 là xã nằm về phía bắc của huyện hồng ngự tỉnh
Đồng Tháp. Cách thị trấn Hồng Ngự 15km. Diện tích tự nhiên là 1500ha.
Diện tích đất nông nghiệp là 950ha, chiều dài của xã có 6km. Phía bắc giáp
xã Thường Phước I biên giới Campuchia, Đông giáp xã Thường Thới Hậu,
tây giáp Sông cửu long huyện Tân Châu, An Giang, nam giáp xã Thường
Thới Tiền thuộc huyện Hồng Ngự – Đồng Tháp. Dân số 10.650 nhân khẩu
với 2.355 hộ. Dân cư phân bố trên 3 ấp của xã, nhân dân trong xã đa số làm
nghề nông nghiệp và chăn nuôi. Trong năm qua, nông nghiệp nông thôn
của xã được đầu tư xây dựng và phát triển khá toàn diện tổng sản lượng
lương thực bình quân hàng năm là 12.574,4 tấn, đạt 88,2%, bình quân đầu
người là 1.082kg/năm. Đối với chăn nuôi đang phát triển khá mạnh trong
đó đàn heo thịt hàng năm là 325 tấn, đạt 162,5% so với nghị quyết của xã
đề ra, sản lượng cá hàng năm là 260 tấn, đạt 108,3%. Địa bàn của xã có các

tôn giáo đan xem nhau gồm có 3 chùa phật với 789 tín đồ. Phật giáo hòa
hảo được Đảng và nhà nước cho phép hình thành 1 ban đại diện gồm có
179 tín đồ, cao đài 95 tín đồ. Xã có 1 đình thần và 1 miếu bà được hình
thành tất cả trên 3 ấp của xã.
Thường Phước 2 là xã nằm cặp theo sông tiền hàng năm
thường ngập lũ và sạt lỡ, nên chính quyền các cấp rất chú trọng đầu tư các
nguồn vốn cho xây dựng. Tính đến nay đã có 4 tuyến cụm dân cư vượt lũ
và di dời số hộ sạt lỡ ra khỏi vùng nguy hiểm, tạo chỗ ở ổn định cho hàng
trăm hộ nghèo, khó khăn, chính quyền và các ngành có liên quan rất quan
tâm phát triển y tế, giáo dục. Đồng thời các phong trào đền ơn đáp nghĩa,
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, thể dục thể thao được đẩy
mạnh, việc bảo đảm an ninh quốc phòng luôn được chỉ đạo chặt chẽ, từ đó
trên địa bàn xã trong năm qua tình hình ANCT-TTATXH được giữ vững ở
địa phương.
*. Thuận lợi: Xã Thường Phước 2 là xã có truyền thống và là
căn cứ cách mạng được nhà nước phong tặng là xã anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân. Toàn Đảng bộ có 76 Đảng viên và 578 đối tượng chính
sách các loại. Trong đó có 1 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 15 cán bộ hưu trí.
Thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, đối với lực lượng này
là nồng cốt trong việc tuyên truyền và gương mẫu trong các phong trào để


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 12

vận động và lôi kéo nhân dân và các tín đồ tôn giáo đoàn kết thực hiện các
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước.
*. Khó khăn: Xã được chính phủ quy hoạch vùng kinh tế mở
cũng là xã nằm tiếp giáp của xã Thường Phước 1 cặp ranh giới Campuchia,

huyện Pèmchos, tỉnh Plây-veng. Lưu lượng người qua lại, hàng hóa nhập
lậu rất phức tạp, trộm cắp, các tệ nạn xã hội xảy ra khá phổ biến, đồng thời
trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình
mới. Từ đó làm hạn chế phần nào đến công tác triển khai của chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước cũng như tuyên truyền thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và công tác vận động quần chúng các phong
trào cách mạng ở địa phương.
Vì vậy, với tinh thần năng động sáng tạo, đoàn kết phấn đấu
của Đảng bộ và nhân dân xã đã phấn đấu khắc phục khó khăn, tận dụng và
khai thác thuận lợi về nguồn nhân lực con người, tiềm năng đất đai phù sa
của địa phương, phát huy thành tích đã đạt được trước đây. Từng bước
cùng với địa phương khác trong huyện đưa kinh tế – văn hóa – xã hội phát
triển tăng rõ rệt.
Hiện nay cơ cấu kinh tế của địa phương tiếp tục chuyển dịch
theo đúng hướng mà Đảng bộ xã xác định. Các thành phần kinh tế phát
triển đa dạng văn hóa, giáo dục, y tế chuyển biến rất quan trọng. Đời sống
nhân dân được ổn định và ngày càng cải thiện. Các chính sách xã hội được
Đảng và nhà nước, các đoàn thể và nhân dân địa phương tham gia tích cực
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và tăng cường.
Phong trào toàn dân chăm lo các gia đình thương binh, liệt sĩ,
người có công với nước, công tác đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình
thương được thực hiện khá tốt. Công tác xóa đói giảm nghèo, tương thân
tương trợ giúp nhau làm kinh tế được tiếp tục mở rộng trong mọi tầng lớp
dân cư. Công tác quản lý xã hội được tăng cường hiệu lực và hiệu quả, điều
hành của nhà nước củng cố nâng lên, thông qua việc thực hiện chức năng
giám sát, tiếp xúc cử tri, nâng cao chất lượng các kỳ họp. Hệ thống nhà
nước từ xã đến ấp, tổ dân cư được củng cố kiện toàn từng bước đưa công
tác quản lý xã hội trên địa bàn dân cư dần dần đi vào nề nếp. Tăng cường
đấu tranh bảo vệ pháp luật, tích cực phòng chống tội phạm, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã
hội đã cố gắng đổi mới nội dung phương thức hoạt động. Tập trung chăm
lo lợi ích thiết thực của quần chúng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp,
củng cố tổ chức để nâng cao chất lượng, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở”. Thực hiện phương châm “Dân biết, dân làm, dân bàn,


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 13

dân kiểm tra”. Từ đó đã đạt được kết quả bước đầu, quyền làm chủ của
nhân dân ngày càng tôn trọng và phát huy.
Tuy đạt được bước đầu về phát triển kinh tế – xã hội, nhưng
vẫn còn mặt khó khăn tồn tại: Tổng sản lượng lương thực và nuôi trồng
thủy sản hàng năm đều tăng trưởng nhưng chưa vững chắc, sản xuất kinh
doanh nuôi trồng thủy sản còn mang tính tự phát. Đầu ra nông sản hàng
hóa, thị trường tiêu thụ gặp khó khăn bấp bênh. Kết cấu hạ tầng tuy có phát
triển nhưng chưa đồng bộ. Các thiết chế văn hóa chưa đáp ứng nhu cầu
phát triển. Tình trạng lao động thiếu việc làm và việc làm chưa ổn định còn
lớn. Các tệ nạn xã hội, các loại tội phạm, tai nạn giao thông có chiều hướng
gia tăng nhưng biện pháp ngăn chặn chưa hiệu quả, khả năng đào tạo
nguồn nhân lực có hạn. Tổ chức cơ sở Đảng và trình độ đội ngũ cán bộ xã,
ấp được bổ sung về số lượng, nhưng chất lượng vẫn chưa đủ đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN
ĐỊA BÀN XÃ TRONG THỜI GIAN QUA
Qua hai năm triển khai tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn xã đã đạt được kết quả ban đầu rất có ý nghĩa quan trọng.

Từ khi bộ chính trị có chỉ thị số 30 – CT/TW ngày 18-02-1998 về
quy chế dân chủ ở cơ sở. Sau khi tiếp thu chỉ thị số 30 – CT/TW của bộ
chính trị và các nghị định 29, 07, 71 của chính phủ và chỉ thị số 12/CT-TU
của tỉnh ủy đồng tháp và kế hoạch số 08/KH-UB của UBND tỉnh đồng tháp
về tổ chức thực hiện triển khai quy chế dân chủ cơ sở. Ngày 06/10/1998
UBND huyện Hồng Ngự đã ra kế hoạch số 24/KH-UB và Huyện ủy đã có
công văn chỉ đạo cho ban ngành và các xã thị trấn tổ chức triển khai thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại địa phương. Từ đó xã đã tiến hành thành
lập ban chỉ đạo cấp xã thực hiện quy chế dân chủ cơ sở gồm 13 đồng chí và
thành lập 3 tổ xuống 3 địa bàn ấp tổ chức vận động tuyên truyền học tập
sâu rộng trong nội bộ và nhân dân thực hiện.
*. Đối với cấp xã
Ban chỉ đạo xã do đồng chí bí thư Đảng ủy làm trưởng ban,
các đồng chí chủ tịch UBND xã, chủ tịch UBMTTQ xã làm phó ban, các
ban ngành đoàn thể làm thành viên, các tổ chỉ đạo và thực hiện ở ấp do
đồng chí Đảng ủy viên phụ trách ấp làm tổ trưởng, đồng chí bí thư chi bộ
ấp làm tổ phó, các ban công tác mặt trận và các đoàn thể làm thành viên đã
tích cực tổ chức triển khai kế hoạch tuyên truyền giáo dục vận động quần
chúng nhân dân tham gia thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở vì đây là
quyền lợi thiết thực của nhân dân.
*. Về xây dựng nội dung thực hiện quy chế dân chủ


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 14

Bước đầu ban chỉ đạo của xã đã triển khai cho các ngành đoàn
thể quán triệt chỉ thị của bộ chính trị và nghị định của chính phủ. Các chỉ
thị và kế hoạch của tỉnh ủy – UBND tỉnh, huyện ủy đồng thời kế hoạch của

Đảng ủy gồm có 65 đồng chí dự. Có phân công giao chức năng nhiệm vụ
từng nội dung lĩnh vực và mốc thời gian triển khai ra dân đúng theo tinh
thần kế hoạch đã đề ra.
Về cơ sở vật chất và điều kiện thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở như: Đề nghị cấp trên hỗ trợ xây dựng tủ sách pháp luật, thùng thư góp ý
đặt tại trụ sở UBND xã. Niêm yết các chương, điều trong nghị định 29 của
chính phủ ở các nơi khu đông dân cư, các cơ quan thường xuyên giải quyết
công việc liên quan đến nhân dân. Các quy định, quy ước, đặc biệt là đối
với những việc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Trong tuần có lịch phân công của HĐND – UBND để tiếp dân,
giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần
tích cực làm giảm tồn đọng các đơn khiếu nại, tố cáo hạn chế việc vượt cấp
của nhân dân.
*. Kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên lĩnh vực, dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra
+ Về dân biết: Sau khi tiếp thu quán triệt của ban chỉ đạo xã,
các tổ xuống tận khu dân cư triển khai các quan điểm chủ trương, đường lối
chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước, kế hoạch chương trình hành
động của cấp ủy và chính quyền địa phương. Đặc biệt là thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở. Nhưng bước đầu mời dân đến họp rất khó do nội dung đưa
ra chưa thiết thực và khoa học, thời gian kéo dài nên việc bàn bạc ít phát
biểu đóng góp của nhân dân. Qua bước đầu thực hiện tồn tại nêu trên Đảng
ủy và UBND xã đã mời các tổ về họp ngay rút kinh nghiệm uốn nắn, cách
làm phù hợp với trình độ tiếp thu nhân dân lao động ở từng khu dân cư. Từ
đó các tổ tiếp tục xuống từng địa bàn triển khai ngắn gọn những gì nhà
nước làm được và chưa làm được, những gì người dân đã làm tốt và chưa
tốt. Bước này đã được nhân dân tiếp thu đồng tình hưởng ứng, ngoài việc
kiểm điểm ra, ban chỉ đạo đã triển khai một số nội dung về phát triển kinh
tế – xã hội của địa phương, việc cải cách thủ tục hành chính, thông báo
miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, báo cáo tình hình an ninh trật tự

ở địa phương, các quyết định về quy hoạch đất đai, kết quả xây dựng kết
cấu cơ sở hạ tầng như: Điện, đường, trường, trạm, báo cáo kết quả các kỳ
họp HĐND để cử tri phản ánh tâm tư nguyện vọng của mình với Đảng,
chính quyền. Một số vấn đề liên quan đến lợi ích thiết thực của nhân dân,
qua kết quả triển khai có 2.342 lượt người tham dự, đại diện cho 2.355 hộ
trong xã đạt 99,5%. Qua thực hiện triển khai có 758 ý kiến nhân dân tích
cực tham gia đóng góp. Trong đó có 127 ý kiến đóng góp xây dựng chính
quyền và các đoàn thể, 315 ý kiến đóng góp về phát triển nông nghiệp, các


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 15

ý kiến còn lại là xây dựng cơ sở hạ tầng, đường trường, trạm, các tệ nạn xã
hội v.v…
+ Về dân bàn và quyết định
Xã Thường Phước 2 có 2 tuyến đường giao thông như trục
đường tỉnh lộ ĐT841 thuộc tỉnh quản lý, đường lộ làng của xã nằm dọc
theo khu dân cư của xã, nhân dân trong xã đa số đi lại trên tuyến đường lộ
làng, mưa thì bùn lầy khó đi, nắng thì bụi bậm rất ô nhiễm môi trường. Do
đó qua đề án quy hoạch được huyện duyệt với phương châm nhà nước và
nhân dân cùng làm, nhân dân bàn và quyết định phần đất đắp lên mặt
đường đảm bảo chiều cao vượt lũ với chiều dài là 4.200m nhà nước chịu bê
tông hóa trên mặt lộ ngang 2,5m dài 4.200m tổng trị giá cho công trình này
là 263 triệu đồng, hiện nay đang thi công. Đồng thời các tổ dân cư đã bàn
bạc xây dựng quy ước hoạt động của tổ trên tinh thần dân chủ, tự nguyện
để cùng nhau thực hiện.
Nhân dân bàn và HĐND các cấp quyết định như: Đã triển khai
lấy ý kiến để dân bàn một số bộ luật sửa đổi. Phương án đền bù giải tỏa

một số công trình cấp tỉnh, huyện và địa phương. Mạn đàm tiểu sử ứng cử
viên các cấp.
+ Về dân làm, Qua thực hiện mang lại thiết thực cụ thể của
người dân do vậy, nhân dân đã tham gia tự nguyện như tự nộp tiền để nâng
cấp mặt lộ làng để nhà nước bê tông hóa. Đồng thời tham gia đóng góp các
loại quỹ như: Quỹ đền ơn đáp nghĩa mỗi năm xây dựng được 1 căn nhà và
vận động quỹ vì người nghèo năm 2003 xây dựng được 5 căn nhà tình
thương tổng trị giá là 25 triệu đồng .. tích cực tham gia cuộc vận đồng:
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở đạt nhiều kết quả đáng phấn khởi. Các kế hoạch và
chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm tệ nạn xã hội về y tế, giáo
dục đều có bước chuyển biến rõ rệt.
+ Về dân kiểm tra, Qua triển khai thực hiện quy chế dân chủ
nhân dân đã nắm rõ được quyền và nghĩa vụ của mình do đó việc kiểm tra
của nhân dân ngày càng được phát huy như: Kiểm tra giám sát hoạt động
của đại biểu và các tổ HĐND các cấp, đồng thời giám sát việc thực hiện
nghị quyết HĐND và UBND, các ngành giải quyết đơn thư khiếu nại của
công dân, việc công khai miễn hoãn về nghĩa vụ quân sự, lao động công
ích. Giám sát thiết kế thi công và quyết toán các công trình như đường,
tuyến cụm dân cư, có tiền đóng góp của nhân dân, hoạt động của các ngành
đoàn thể việc quản lý và sử dụng các nguồn quỹ, ngân sách nhà nước hàng
năm …
*. Kết quả kiện toàn hệ thống chính trị theo tinh thần quy chế dân
chủ ở cơ sở


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 16


Qua tiếp thu tinh thần chỉ đạo của tỉnh, huyện, ban chỉ đạo
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và đã có kế hoạch hướng dẫn chỉ đạo các
bước thực hiện bầu trưởng ấp, đồng thời thực hiện các bước trọng tâm như:
Chọn nhân sự, tổ chức hiệp thương đưa ra dân xem xét. Thực hiện các bước
bầu cử đúng quy trình thủ tục với hình thức hội nghị đại biểu nhân dân, bầu
trưởng ấp và kết hợp bầu ủy viên thanh tra nhân dân.
Kết quả nhân dân đi bầu trưởng ấp đạt 88,30%. Sau thời gian
bầu cử trưởng ấp và đã đề nghị trung tâm bồi dưỡng chính trị của huyện
mở lớp tập huấn bồi dưỡng cho trưởng ấp được 2 đợt cho 8 trưởng phó ấp
đạt 100%.
Phát huy quyền lam chủ của nhân dân trong xã, bằng lá phiếu,
trực tiếp đi bầu hội đồng nhân dân 3 cấp, lựa chọn người đủ tiêu chuẩn có
tài, có đức để đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương.
Ngoài ra, đối với các ấp đã xây dựng được 3 quy ước đang
thực hiện, từng bước đưa ra dân đóng góp thống nhất các điều khoản tổ
chức thực hiện.
Đạt kết quả trên là do cấp ủy, chính quyền, mặt trận, các đoàn
thể xã, ấp nhận thức đúng đắn chủ trương nên quyết tâm chỉ đạo, có kế
hoạch cụ thể, chu đáo rút kinh nghiệm các lần bầu cử trước đây được cử tri
đồng tình, nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ làm chủ bản thân nên
hăng hái tham gia.
*. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan hành chính sự nghiệp
Để tổ chức thực hiện tốt tinh thần nghị định 71 của chính phủ
và kế hoạch 02/KH – UB của UBND huyện, xã đã triển khai quy chế dân
chủ ra từng ban ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội. Từ đó đã từng
bước thực hiện quy trình quy chế dân chủ. Bước đầu đã có kết quả tốt như:
Có quy chế phối hợp giữa cấp ủy – chính quyền và các ngành, đoàn thể.
Qua đó phân công giao trách nhiệm cụ thể cho từng bộ phận trong cơ quan,
đơn vị. Quản lý tốt cơ sở vật chất, quy định về thu, chi tài chính trong cơ
quan. Trong đó đặc biệt là tiến hành một bước việc cải cách hành chính

theo chế độ 1 cửa. Đồng thời chú trọng việc xây dựng tủ sách pháp luật,
thùng thơ góp ý và sơ đồ làm việc, chú trọng giáo dục cán bộ công chức
chấn chỉnh tác phong lề lối làm việc, thực hành tiết kiệm. Công khai thủ tục
hồ sơ, thu lệ phí cần thiết, từ đó mà giảm gây phiền hà cho nhân dân. Thực
hiện tốt các quy định trong pháp lệnh công chức và các quy định về thủ tục
hành chính.
+ Đánh giá ưu, khuyết và nguyên nhân
Ưu điểm: Qua các bước thực hiện triển khai đại bộ phận nhân
dân đều hiểu và nắm được những yêu cầu nội dung cơ bản của quy chế dân
chủ cơ sở, đây là một sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị – xã hội


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 17

của đất nước nói chung, địa phương nói riêng, được nhân dân thực sự quan
tâm hưởng ứng, hăng hái tham gia thực hiện. Có lẽ đây là lần đầu tiên,
nhân dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình và mối quan hệ với Đảng,
chính quyền với xóm làng, đất nước. Đây cũng là dịp để nhân dân nhận
thức đầy đủ, sâu sắc hơn thế nào là dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra. Các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước được dân tiếp
nhận và thực hiện tốt hơn. Đã mạnh dạn đóng góp ý kiến vào các chủ
trương chính sách của Đảng, nhà nước chính quyền địa phương. Các vấn đề
nảy sinh trong nội bộ nhân dân được quan tâm bàn bạc, thảo luận dân chủ,
tìm biện pháp thực hiện.
Việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở đã tác động
tích cực đến ý thức, thái độ của nhân dân trong việc xây dựng Đảng, chính
quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc đấu tranh với tệ nạn,
tham nhũng, quan liêu của một bộ phận cán bộ Đảng viên. Đóng góp với

tinh thần trách nhiệm cao vào chủ trương, chính sách của các tổ chức,
chính quyền địa phương góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm
việc của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể. Mạnh dạn, thẳng thắn trong
việc lựa chọn những người có đức, có tài để đưa vào cương vị lãnh đạo.
Góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ. Tăng cường sức mạnh của tổ
chức cơ sở Đảng, chính quyền địa phương. Mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân được thắt chặt, tin tưởng vào quy chế dân chủ cơ sở sẽ đem lại
hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội. Lòng tin đó là động lực thúc đẩy các
phong trào của nhân dân ở địa phương ngày càng mạnh mẽ.
Nguyên nhân: Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương đã
nhận thức đúng về chỉ thị 30/CT-TW của bộ chính trị và nghị định 29 của
chính phủ. Với thái độ chỉ đạo tích cực và triển khai rộng rãi đến từng hộ
gia đình đã chọn lựa những đồng chí có năng lực trình độ, có tâm huyết, có
uy tín và trách nhiệm với dân, có phương thức tuyên truyền phong phú, đa
dạng. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện quy
chế dân chủ cơ sở với việc xử lý kịp thời và kiên quyết những cán bộ, Đảng
viên và quần chúng có thiếu sót sai phạm. Từ đó đã khơi dậy được truyền
thống yêu nước, tính đoàn kết xóm làng, đạo lý truyền thống trong nông
thôn. Mối quan hệ bình đẳng, gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân, giữa cán
bộ, Đảng viên với quần chúng được khăng khít, chặt chẽ hơn. Nhân dân
phấn khởi tham gia đóng góp xây dựng chính quyền. Đóng góp nhiều công
sức, trí tuệ sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới. Đó là điều kiện thuận lợi cho
việc tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở xã.
Khuyết điểm: Qua triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
vẫn còn bộc lộ một số vấn đề yếu kém bất cập. Còn một số bộ phận nhân
dân ý thức pháp luật chưa cao, ít quan tâm đến tình hình kinh tế – xã hội,
các đoàn thể chưa phát huy hết chức năng của mình nên hiệu quả thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở đạt thấp, vẫn còn một số người nhận thức được yêu



TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 18

cầu, nội dung, mục đích, ý nghĩa của quy chế, nhưng lại nghiêng về quyền
lợi, cảm nhận thấy quyền lợi là chủ yếu còn mặt trách nhiệm của họ trong
việc biết, bàn, làm, kiểm tra thì chưa được nhận thức đúng đắn. Điều đó thể
hiện ở một vài vụ tranh chấp khiếu kiện chỉ vì quyền lợi cá nhân mà không
tính đến trách nhiệm của mình, không vì quyền lợi tập thể cộng đồng. Có
một số không nhận thức đầy đủ hoặc cố tình không thực hiện theo quy chế
dân chủ cơ sở thể hiện khi đoàn đến từng khu dân cư mời đến địa điểm
nhưng không đến do đó làm ảnh hưởng việc tuyên truyền nội dung thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở.
Nguyên nhân: Có lúc chưa thực sự quan tâm đúng mức đến
công tác tuyên truyền, còn giao phán cho tổ tuyên truyền, thiếu kiểm tra,
phối hợp chặt chẽ. Đội ngũ tuyên truyền còn chưa đáp ứng việc truyền đạt,
phổ biến quy chế dân chủ.
Trình độ năng lực, chỉ huy và ban nhân dân ấp còn hạn chế
lúng túng về cách thức tiến hành vận động quần chúng, chưa phát huy vai
trò dân chủ đại diện của mình. Có ấp lại làm qua loa hình thức vấn đề nổi
lên trong thực hiện quy chế dân chủ là dân “biết” là chủ yếu, còn “bàn” thì
chưa nhiều và “kiểm tra” lại càng ít. Có đôi khi chỉ thông tin dân biết chớ
cán bộ lại không biết dân có nhu cầu gì, do không làm tốt dân chủ đại diện,
nên thường áp đặt. Vì vậy, có lúc nhân dân thờ ơ.
Trình độ dân trí của một bộ phận dân cư còn thấp, nên việc
tiếp thu các chủ trương của Đảng, pháp luật nhà nước còn hạn chế.
III. Ý NGHĨA THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ CỦA XÃ
THƯỜNG PHƯỚC 2, HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP
Qua triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo được sự
chuyển biến tích cực trong nội bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể, phát huy và

thực hiện tốt hơn quyền làm chủ thật sự của nhân dân, tạo mối quan hệ giữa
cán bộ Đảng viên với nhân dân ngày càng gắn bó hơn. Nhằm góp phần
thực hiện tốt nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới hiện nay, để giữ gìn bền
vững chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tiến hành thắng lợi công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện tốt trước mắt phải xây dựng tổ
chức Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng chính quyền của dân, do dân,
vì dân, xây dựng mặt trận và các đoàn thể nhân dân vững mạnh về nhiều
mặt để lãnh đạo và thực hiện tốt việc phát triển kinh tế – xã hội, an ninh
quốc phòng ở địa phương.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở không những phát huy được
quyền làm chủ của nhân dân, mà còn đưa các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật nhà nước đi vào cuộc sống. Việc xây dựng quy
ước ở ấp, tổ dân cư chính là phát huy được tính gắn kết giữa các cộng đồng
dân cư, thực hiện tốt nếp sống văn minh, gia đình văn hóa. Khơi dậy không


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 19

khí thi đua xây dựng ấp, tổ văn hóa lành mạnh, xây dựng tình làng nghĩa
xóm ngày càng tốt và gắn bó hơn. Đồng thời thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở đã tạo được những nhận thức mới trong nội bộ Đảng, chính quyền về
phát huy dân chủ và phương thức thực hiện để nhân dân làm chủ, thể hiện
qua phong cách, lề lối làm việc có nhiều chuyển biến rõ rệt, đã gần dân
hơn, sát dân tránh được quan liêu, mệnh lệnh như trước. Các ngành, mặt
trận, đoàn thể thực hiện tốt. Các ý kiến của nhân dân được tích cực và bàn
bạc, đề xuất trong các cuộc họp, được tôn trọng và tiếp thu, tạo điều kiện
cho quần chúng nhân dân thực hiện quyền kiểm tra. Nhất là quy định về

công khai thủ tục hành chính, xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện các
chính sách xã hội, quản lý sử dụng tài sản công.
Song song với triển khai, thực hiện quy chế trong nội bộ và ngoài
quần chúng, mặt trận tổ quốc các đoàn thể đã tỏ ra vai trò nòng cốt thực
hiện quy chế dân chủ. Thông qua các cuộc họp, gợi ý bàn bạc, xung phong
gương mẫu phát huy và tính tích cực cách mạng của nhân dân. Điều đáng
phấn khởi là mặt trận, đoàn thể đã kết hợp khá tốt việc thực hiện quy chế
dân chủ với các cuộc vận động của mình làm cho đoàn viên, hội viên bàn,
làm và kiểm tra. Từ đó đưa cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư và gia đình văn hóa.


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 20

CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN THỰC HIỆN QUY
CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ CỦA XÃ THƯỜNG PHƯỚC 2 TRONG
THỜI GIAN TỚI.


I. PHƯƠNG HƯỚNG
Đối với quần chúng nhân dân là người thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở phải chú trọng nâng cao nhận thức và hiểu biết về mọi mặt, đặc biệt
là trình độ văn hóa và kiến thức cơ bản về pháp luật, trên cơ sở đó, nhân
dân thấy rõ quyền hạn và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở địa phương.
Đối với hệ thống chính trị các cấp, ra sức củng cố, kiện toàn và nâng
cao năng lực tổ chức, quản lý, lãnh đạo. Đồng thời, tăng cường giáo dục,

rèn luyện cho đội ngũ cán bộ về chính trị, tư tưởng để mỗi người và tổ chức
nhận rõ đầy đủ vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình trong việc phát
huy dân chủ.
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở xã phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng, vì Đảng lãnh đạo là nhân tố quyết định bản chất của chế độ dân
chủ và bảo đảm định hướng đúng cho sự phát huy dân chủ ở cơ sở trong
tình hình hiện nay. Cụ thể là Đảng bộ xã, các chi bộ trực thuộc phải coi
việc lãnh đạo công tác thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là một mặt hoạt
động trọng tâm của tổ chức, của ngành mình. Đồng thời thực hiện quy chế
dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao đời sống
nhân dân.
Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở gắn liền với đẩy mạnh công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng, ra
sức chống tệ quan liêu, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, Đảng viên của bộ
máy chính quyền thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng
từ trong nội bộ các cơ quan dân – chính – Đảng ra ngoài nhân dân.
Tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ cơ sở gắn liền với phong trào
khác như: Phong trào bảo vệ ANTQ; cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống ở khu dân cư.
II. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN TIẾP TỤC THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ XÃ THƯỜNG PHƯỚC 2
Tiếp tục tăng cường công tác triển khai, tuyên truyền sâu rộng nâng
cao nhận thức và trách nhiệm của các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền,
đoàn thể nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Học tập vận
động ra dân phải vận dụng nhiều hình thức thích hợp, phong phú, đa dạng
đã đưa quy chế đến từng hộ. Từng người dân hiểu và làm theo quy chế.


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP


Trang 21

Tiến hành thường xuyên công tác thông tin, tuyên truyền những nội dung
cơ bản của quy chế dân chủ cơ sở để người dân dễ tiếp thu.
Tăng cường công tác kiểm tra và xử lý công việc nhanh gọn chính
xác và đúng thẩm quyền. Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở phải được cụ
thể hóa thành những quy ước và kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với từng
thời gian.
Kết hợp với ngành chức năng huyện tham gia hướng dẫn cơ cấu xây
dựng quy ước ở ấp theo quy định trình tự tại thông tư liên tịch số
02/2000/TTLT/BTT-UBMTTQVN ngày 31/3/2003.
Các ngành, đoàn thể phối hợp tiếp tục xây dựng sửa chữa phù hợp
với quy chế hoạt động của cơ quan đơn vị theo tinh thần nghị định 71/CP
của chính phủ, phát động thi đua, phát huy sáng kiến góp phần hoàn thành
kế hoạch năm 2004.
Công tác vận động nhân dân phải biết dựa vào những người lớn tuổi
có uy tín để làm nòng cốt thì nhân dân tham gia các cuộc họp bàn bạc
thống nhất cao, nhất là thực hiện các công trình phúc lợi xã hội. Thực hiện
quy chế dân chủ phải gắn với củng cố , kiện toàn tổ chức, bộ máy các cấp.
Đồng thời công khai các thủ tục hành chính sẽ tác động mạnh đến nhận
thức và hiểu biết của nhân dân, cũng như gắn liền với các phong trào khác
nhất là cuộc vận động xây dựng khu dân cư, gia đình văn hóa.
Kiện toàn ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở xã và các tổ
đủ sức hoạt động, thực hiện tốt các yêu cầu kế hoạch đã đề ra. Phát huy vai
trò các thành viên được cơ cấu. Gắn kết việc thực hiện lồng ghép các
chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao dân trí … với
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng đời sống văn
hóa có trách nhiệm phối hợp với các ban ngành, mặt trận, đoàn thể tổ chức
hướng dẫn và giám sát kết quả thực hiện quy chế dân chủ. Cùng với ủy ban

mặt trận tổ quốc xã xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của ban
thanh tra nhân dân. Bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ thanh tra
nhân dân tạo điều kiện cho ban thanh tra nhân dân hoạt động có hiệu quả,
nhằm phát huy tốt vai trò tham gia giám sát thực hiện phương châm: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Thực hiện đầy đủ nội dung chỉ thị
30/CT-TW của bộ chính trị, nghị định 20, 71 của chính phủ.
Nâng cao chất lượng báo cáo công khai về tài chính, các công trình
do dân đóng góp, kế hoạch phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội. Thực hiện
tốt quy chế tiếp dân, phân công cán bộ giải quyết kịp thời các đơn thư
khiếu nại, tố cáo. Trả lời thắc mắc của cán bộ và nhân dân. Tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân và cán bộ tham gia góp ý xây dựng và đấu tranh
ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, quan liêu.


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 22

Đẩy mạnh công tác hòa giải ở cơ sở, thường xuyên theo dõi giúp đỡ
về nghiệp vụ và nhân dân điển hình tốt. Tập trung xử lý những vướng mắc
trong nội bộ và nhân dân, công khai cho nhân dân biết điều Đảng viên
không được làm.
Tăng cường công tác cán bộ, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chính trị, kiến thức quản lý nhà nước, nghiệp vụ chuyên môn cho
đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất bản lĩnh chính trị giải quyết kịp thời
các vấn đề bức xúc về việc làm, sản xuất kinh doanh, đời sống nhân dân.
Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, gắn với việc nâng cao vai
trò trách nhiệm, thể hiện sự gương mẫu trong việc chấp hành quy chế dân
chủ trong cán bộ, Đảng viên.



TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 23

KẾT LUẬN
Dân chủ là bản chất nhà nước ta, là mục tiêu, động lực phát triển
kinh tế xã hội đất nước đã khẳng định trong đường lối chủ trương của
Đảng. Phát huy dân chủ là sức mạnh để xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa trong sạch, vững mạnh trong thời kỳ đổi mới, phát huy dân chủ vừa
là yêu cầu khách quan, vừa là tiền đề là điều kiên đại đoàn kết toàn dân,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là một chủ trương, chính sách
lớn, do phù hợp với tâm tư nguyện vọng và lợi ích thiết thực của nhân dân
nên được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Điều đó chứng tỏ vai trò và ý
nghĩa to lớn của dân chủ hóa với tư cách là quá trình có tính quy luật của
hoạt động xây dựng chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa mà quy chế dân
chủ ở cơ sở là một trong những giải pháp cơ bản. Những kết quả ban đầu
đạt được đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế – xã hội của địa phương,
trở thành sinh hoạt chính trị quan trọng, và đã thực sự đi vào cuộc sống
hằng ngày của nhân dân, không phải không có những khó khăn trở ngại
nhất định trong quá trình thực hiện công tác này. Song nó đã và đang được
xem là sự thể hiện sinh động các khả năng năng lực mới của người dân
trong sản xuất, trong tổ chức, quản lý đời sống cộng đồng.
Nhà nước mang bản chất xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Thực chất là nhà nước của dân, do dân, vì dân,
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
Đảng ta đã khẳng định: “Toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng

bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực
thuộc về nhân dân”. Muốn thực hiện tốt điều đó thì không có gì khác hơn
là phải chủ động, tạo mọi điều kiện để nhân dân phát huy dân chủ mà cụ
thể là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Vì vậy dân chủ là nhân tố động lực có ý nghĩa lâu bền và tự giác
trong hoạt động thực tiễn. Chính trị của quần chúng nhân dân. Đổi mới dựa
vào sức mạnh dân chủ của bản thân chế độ xã hội chủ nghĩa; vào hoạt động
giác ngộ, sáng tạo của quần chúng nhân dân, vào khả năng huy động mọi
lực lượng tích cực trong xã hội tham gia vào công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn. Cho nên, chỉ có thể bằng phát huy tinh
thần dân chủ, đoàn kết, sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân thì mới hoàn
thành được những nhiệm vụ to lớn của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực
lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”. ( Hồ Chí Minh TT, T11,
NXB CTQGHN 1986 trang 592).


TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 24

Là một cán bộ Đảng viên đang học tập tại phân viện chính trị quốc
gia Thành Phố Hồ Chí Minh, khi nghiên cứu và thực hiện đề tài “Thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” chắc chắn sẽ giúp cho bản thân có thêm
nhiều nhận thức và hành động đúng đắn hơn trong việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở. Góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững trật tự an
toàn xã hội ở địa phương. Vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.



TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP

Trang 25

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đề cương bài giảng chủ nghĩa xã hội – khoa học. Học Viện Chính trị
quốc gia, phân viện TP. Hồ Chí Minh.
2. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX nhà xuất
bản Chính trị quốc gia.
3. Chỉ thị 30 – CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về việc xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
4. Nghị định 71/NĐ của Chính Phủ ngày 08/09/1998 của chính phủ ban
hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan.
5. Nghị định 29/NĐ-CP ngày 11/05/1998 của chính phủ ban hành quy
chế dân chủ ở xã.
6. Văn kiện đại hội Đảng bộ xã, báo cáo kiểm điểm kết quả thực hiện
nghị quyết đại hội VII Đảng bộ xã giữa nhiệm kỳ 10/2000 – 5/2003,
báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của Đảng bộ
xã Thường Phước 2.


×