Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Luận văn thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh bến tre thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.32 KB, 81 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ không chỉ là bản chất, mà còn là mục tiêu và động lực để thực
hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nớc ta theo định hớng XHCN. Không thể có
một CNXH thắng lợi mà lại không thực hiện dân chủ hoàn toàn [38, tr.324]. Vì
vậy, mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề
cấp thiết. Chỉ có phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân trong quá trình
hoạch định và tổ chức thực hiện các chủ trơng của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nớc theo phơng châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra mới
huy động đợc sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nớc.
Đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, những năm qua, Đảng và
Nhà nớc ta đã ban hành nhiều Nghị định, Chỉ thị quan trọng nhằm phát huy
quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân để phát triển kinh tế, ổn định chính
trị, phát triển xã hội: Chỉ thị 30- CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Chỉ thị 22/1998/CT-TTg của Thủ tớng Chính phủ
về việc triển khai thực hiện QCDC ở xã; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP của Chính
phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Đây là một bớc tiến lớn thể hiện
sự quyết tâm củng cố, hoàn thiện và phát triển nền dân chủ XHCN của Đảng và
Nhà nớc ta, đồng thời cũng là phơng thức giải quyết các nhiệm vụ, mục tiêu
chung của đất nớc trong công cuộc đổi mới.
Việc triển khai thực hiện các chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc
về QCDC ở cơ sở trên phạm vi cả nớc, thời gian qua, đã thu đợc nhiều thành tựu
quan trọng, thu hút đợc sự quan tâm hàng ngày của tất cả các tầng lớp xã hội.
Điều đó chứng tỏ đây là một chủ trơng đúng đắn, hợp lòng dân, đáp ứng đợc nhu
cầu bức thiết và lợi ích to lớn, trực tiếp của đông đảo quần chúng nhân dân lao
động, đợc nhân dân phấn khởi đón nhận và tích cực thực hiện.
Tuy nhiên, sau nhiều năm triển khai, trên địa bàn tỉnh Bến Tre, tình hình
thực hiện QCDC ở cơ sở vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm: một số nơi, việc
xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở cha đạt yêu cầu, quyền làm chủ của nhân


dân còn bị vi phạm; một số cán bộ có trách nhiệm không muốn triển khai thực
hiện QCDC ở cơ sở, hoặc triển khai một cách hình thức, chiếu lệ, nhiều ngời cha
nhận thức đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, do đó, tình trạng nhũng nhiễu, gây
4
phiền hà cho nhân dân vẫn còn xảy ra; một bộ phận nhân dân mới chỉ thấy quyền
lợi nhiều hơn nghĩa vụ, vì vậy, hiện tợng lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn đang là
nguy cơ đe dọa mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân, gây không ít
khó khăn cho việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội,
Từ thực tiễn trên, tôi chọn đề tài "Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Bến Tre - thực trạng và giải pháp" làm luận văn tốt nghiệp,
đồng thời mong muốn góp phần đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện QCDC ở
cơ sở trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, vấn đề mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động đợc nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu với nhiều bài viết, nhiều
công trình đã đợc công bố, xuất bản thành sách.
- PGS.TS Dơng Xuân Ngọc: "Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Tác giả đã
làm rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã cả về
mặt lý luận và thực tiễn.
- PGS.TS Nguyễn Cúc: "Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình
hình hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002. Tác giả đã tập trung làm sáng tỏ một số khía cạnh chủ yếu về lý luận
và thực tiễn của việc thực hiện QCDC ở cơ sở trong tình hình hiện nay ở nớc ta.
- TS. Nguyễn Thị Ngân: "Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở
một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay", Đề tài khoa học cấp bộ 2002-2003.
Tác giả tiến hành nghiên cứu thực trạng việc thực hiện QCDC cơ sở ở các tỉnh
đồng bằng sông Hồng, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh và hoàn
thiện việc thực hiện QCDC ở khu vực đồng bằng sông Hồng.
- Trần Bạch Đằng: "Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân

tộc Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, số 35 (12/2003). Trong bài viết này, tác giả
khẳng định thực hiện dân chủ ở cơ sở là một khâu rất quan trọng nhằm hoàn
thiện cơ chế nhân dân làm chủ xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo
tác giả, đây là một vấn đề không chỉ mang ý nghĩa thời sự mà còn là một sự tiếp
nối truyền thống, phát huy sức mạnh của dân đợc hình thành trong lịch sử mấy
nghìn năm đấu tranh dựng nớc và giữ nớc của dân tộc ta.
- PGS.TS Trần Khắc Việt: "Thực hiện dân chủ ở nớc ta hiện nay: Vấn đề
đặt ra và giải pháp", Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2004. Tác giả chỉ ra những
vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội ở nớc ta,
5
đồng thời đa ra những giải pháp nhằm tiếp tục phát huy dân chủ trong tình hình
hiện nay.
- TS. Đoàn Minh Huấn "Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá trình
mở rộng dân chủ XHCN ở nớc ta", Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2004. Tác giả
làm rõ vai trò, đặc trng của dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, qua đó khẳng
định: trong giai đoạn hiện nay, muốn mở rộng dân chủ XHCN ở nớc ta, cần phát
huy đúng đắn u thế của mỗi hình thức dân chủ, đồng thời cần có sự kết hợp chặt
chẽ dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Ngoài ra còn có một số luận văn đã bàn về vấn đề triển khai QCDC ở cơ
sở tại địa phơng nh: Nguyễn Minh Thi: "Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại
các vùng nông thôn miền núi của tỉnh Bắc Giang hiện nay", Luận văn thạc sĩ
CNXHKH bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2000. Phan
Văn Bình: "Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố Vinh -
Những vấn đề đặt ra và giải pháp", Luận văn thạc sĩ CNXHKH bảo vệ tại Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2001. Nguyễn Thanh Sơn: "Thực hiện
QCDC ở xã trên địa bàn tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc
sĩ CNXHKH bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2003.
ở Bến Tre, cho đến nay, ngoài "Báo cáo tổng kết việc thực hiện Chỉ thị
30-CT/TƯ của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở 1998-2003" của Tỉnh ủy, cha có công trình khoa học nào đề cập

riêng đến việc thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu
trên đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực hiện QCDC
ở cơ sở, đồng thời phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức tổ chức, biện pháp để
thực hiện tốt QCDC ở cơ sở một các khá sâu sắc. Do vậy, những tài liệu nêu trên
sẽ là nguồn t liệu tham khảo bổ ích đối với tác giả.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích thực trạng, chỉ ra những
vấn đề; đề xuất những phơng hớng và giải pháp để góp phần nâng cao chất lợng
thực hiện QCDC ở cơ sở của tỉnh Bến Tre.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ vai trò ý nghĩa của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đối
với quá trình phát triển dân chủ nớc ta.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện
QCDC ở cơ sở tỉnh Bến Tre.
6
- Đề xuất những phơng hớng, giải pháp nhằm góp phần đẩy mạnh và
hoàn thiện việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bến Tre thời
gian tới.
Phạm vi nghiên cứu: từ góc độ chính trị xã hội nghiên cứu việc thực hiện
QCDC ở các xã, phờng, thị trấn tỉnh Bến Tre từ năm 1998 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn đợc thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân chủ
của chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, các chủ trơng,
chính sách của Đảng và Nhà nớc về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Bên
cạnh đó, tác giả cũng kế thừa, chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số
nhà khoa học đã đợc công bố về vấn đề dân chủ cơ sở.
Cơ sở thực tiễn là quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn tỉnh
Bến Tre trong thời gian qua (1998 đến nay).
Phơng pháp nghiên cứu: Từ góc độ chính trị xã hội vận dụng các phơng

pháp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp và so sánh, đồng thời sử dụng phơng
pháp điều tra xã hội học để thực hiện luận văn.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Qua điều tra, nghiên cứu, phân tích quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Bến Tre, khái quát những thành tựu bớc đầu; những hạn chế và
nguyên nhân của nó; chỉ ra những bất cập, mâu thuẫn trong quá trình triển khai
thực hiện; đồng thời đề xuất những phơng hớng và những giải pháp cụ thể, phù hợp
với đặc điểm tình hình của địa phơng, góp phần đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới của tỉnh.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Vấn đề dân chủ ở cơ sở, hiện nay ở nớc ta, luôn là một vấn đề chính trị -
xã hội nhạy cảm và bức xúc. Việc nghiên cứu thực tiễn ở từng địa bàn khác nhau
trong quá trình thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, tổng kết kinh nghiệm, xác
định điểm tơng đồng (phổ biến) và nét đặc thù của từng vùng, miền; bổ sung lý
luận về xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở Việt Nam giai đoạn hiện
nay là rất cần thiết.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy chuyên đề; đồng thời cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan chức năng trong việc tiếp tục đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
7
7. Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục
tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chơng, 7 tiết.
8
Chơng 1
Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là một phơng thức
phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nớc ta
1.1. Nhận thức chung về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Chế độ dân chủ là sản phẩm của một quá trình lịch sử không
ngừng hoàn thiện phơng thức thực thi dân chủ

Khái niệm dân chủ (Désmocratie) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, gồm 2
từ demos có nghĩa là dân và kratos là quyền lực. Désmocratie" chỉ một ph-
ơng thức tổ chức quyền lực - chính quyền do công dân bầu ra và uỷ quyền thực
hiện chức năng quản lý xã hội; đồng thời, họ cũng có quyền giám sát và bãi
miễn nhân sự hoặc tổ chức ấy khi nó đi ngợc lại lợi ích, quyền lực của mình.
Phơng thức thực hiện dân chủ đã trải qua một quá trình vận động phát
triển. Ngay từ buổi bình minh của lịch sử nhân loại, dân chủ đã xuất hiện ở
dạng thức sơ khai. ở giai đoạn này, quyền lực của cộng đồng đợc thể hiện dới
hình thức tự quản, mọi thành viên đều có quyền tham gia vào những quyết định
lớn của cộng đồng. Họ vừa là chủ thể, vừa là đối tợng chịu sự điều chỉnh của
quyền lực ấy. Đây là hình thức thực hiện dân chủ chất phác - gần nh một sự phản
ánh quy luật của tự nhiên vào xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Nó đợc coi là thời
đại hoàng kim của dân chủ, vì mọi quyền lực xã hội, về cơ bản, đều thuộc về
nhân dân.
Lực lợng sản xuất dần phát triển, xã hội có của cải d thừa đã làm xuất
hiện tình trạng chiếm hữu tài sản. Theo đó, quyền lực công cộng cũng dần dần bị
biến dạng, từ chỗ là phơng thức điều chỉnh hành vi con ngời trong xã hội, biến
thành công cụ của một bộ phận ngời này dùng để tớc đoạt, đàn áp một bộ phận
ngời khác; từ chỗ quyền lực đợc uỷ quyền, dần bị nhóm xã hội thống trị làm
biến dạng thành có quyền và lạm dụng, lợi dụng quyền lực vì những mục đích
riêng của mình. Trạng thái sơ khai của dân chủ cũng vì thế, dần bị tan rã. Ph.
Ăngghen chỉ ra rằng:
Chính những lợi ích thấp hèn - tính tham lam tầm thờng, lòng khát
khao hởng lạc thô bạo, tính bủn xỉn bẩn thỉu, nguyện vọng ích kỷ muốn
ăn cắp của công - báo hiệu sự ra đời của xã hội văn minh mới, xã hội có
giai cấp; chính những thủ đoạn bỉ ổi đã làm suy yếu xã hội thị tộc
không có giai cấp và đa xã hội đó đến chỗ diệt vong [52, tr.150].
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, xã hội bắt đầu có sự phân chia giai
cấp. Các hình thức tổ chức quản lý xã hội có tính chất tự quản đã trở nên lỗi thời,
9

một hình thức tổ chức mới mang tính chất là công cụ bạo lực nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp ra đời - đó là Nhà nớc. Với sự xuất hiện của
Nhà nớc, một tổ chức đại biểu cho quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô lập ra
để bảo vệ lợi ích của nó, quyền lực cộng đồng xã hội chuyển hoá thành quyền
lực nhà nớc. Dân chủ mang tính giai cấp ngay trong bớc chuyển đó, cũng từ đó, nó
trở thành mục tiêu đấu tranh, giành, giữ và phát triển của nhân loại.
Lịch sử của dân chủ cũng cho thấy các giai cấp thống trị khác nhau
trong xã hội đã nhận thức, hiện thực hoá chế độ dân chủ theo lập trờng và lợi
ích của mình. V.I.Lênin tổng kết Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nớc, một
trong những hình thái của Nhà nớc. Cho nên, cũng nh mọi nhà nớc, chế độ dân
chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cỡng bức đối với ngời ta[41,
tr.123]. đặc trng cơ bản của quá trình chuyển đổi quyền lực từ chế độ cộng sản
nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ là quyền lực của nhân dân đợc thể
hiện trong các tổ chức tự quản theo tập quán, truyền thống (của xã hội cộng sản
nguyên thuỷ) biến thành quyền lực của giai cấp thống trị (trong xã hội chiếm
hữu nô lệ) đợc thể chế hoá bằng chế độ nhà nớc với sự cỡng bức là chủ yếu. Lần
đầu tiên trong lịch sử, dân chủ mang tính giai cấp, chế độ dân chủ gắn với một
chế độ xã hội cụ thể và một giai cấp cầm quyền nhất định. Nhà nớc chủ nô ra đời
trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Athen, Hy Lạp cổ đại. Giai cấp chủ nô đã nhân
danh xã hội, chiếm đoạt Nhà nớc, biến Nhà nớc thành công cụ thực hiện quyền
lực của riêng mình, làm cho tính chất dân chủ bị giới hạn trong giai cấp chủ nô
và lớp ngời tự do, không có dân chủ cho những nô lệ, thậm chí họ còn không có
quyền là con ngời và bị coi là những công cụ biết nói.
Cũng từ nguyên nhân sâu xa là sự phát triển của lực lợng sản xuất, chế độ
phong kiến ra đời thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ. Ngời nô lệ đợc giải phóng và
không hoàn toàn thuộc sở hữu của chủ nô. Tuy nhiên, họ vẫn cha thoát khỏi cảnh
bị áp bức bóc lột của giai cấp thống trị, của vơng quyền và thần quyền, cả về vật
chất lẫn tinh thần. Về hình thức, giai đoạn này đợc xem là một bớc tiến của lịch
sử, nhng thực chất lại là bớc lùi trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân
lao động. Nó chẳng những không khắc phục đợc tình trạng mất dân chủ do chế

độ chiếm hữu nô lệ để lại, mà còn làm cho tình trạng ấy trầm trọng hơn, ở chỗ:
quyền lực xã hội bị thâu tóm vào tay một cá nhân tức là vua.
Sự vận động và phát triển của dân chủ là khách quan, dù cho giai cấp
phong kiến thống trị có tìm đủ mọi cách để bảo vệ lợi ích và địa vị của mình,
10
kiềm hãm sự phát triển của dân chủ; song vẫn không thể cản đợc bớc phát triển
của dân chủ. Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp, thơng nghiệp, giai cấp
t sản đã ra đời và lớn mạnh; để bảo đảm đợc lợi ích, nó phải tìm cách thoát khỏi
mọi sự ràng buộc của giai cấp phong kiến. Với các khẩu hiệu dân chủ: tự do,
bình đẳng, bác ái giai cấp t sản đã tập hợp nhân dân lao động tiến hành cuộc
cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập nền dân chủ t sản.
Tuy nhiên, dân chủ t sản cũng chỉ có giá trị đối với giai cấp hữu sản. Trớc
quá trình đấu tranh của GCCN và nhân dân lao động, tính dân chủ dần bị thay
thế bằng các đạo luật phản dân chủ, bằng sự chuyên chính của giai cấp t sản. So
với các nền dân chủ trớc đó, dân chủ t sản là một tiến bộ vĩ đại, song trớc
sau nó vẫn là một chế độ dân chủ chật hẹp, bị cắt xén, giả hiệu, giả dối, một
thiên đờng cho bọn giàu có, một cái cạm bẫy và cái mồi giả dối đối với những
ngời bị bóc lột, đối với những ngời nghèo. Vì trong chế độ dân chủ t sản, bọn
t bản dùng trăm phơng nghìn kế để gạt quần chúng ra, không cho họ tham gia
quản lý nhà nớc, [44, tr.305]. Quyền tự do, dân chủ trong chế độ dân chủ t sản,
theo C.Mác đó là tự do lựa chọn những ngời thống trị mình chứ không phải là
sự lựa chọn những ngời đại diện cho lợi ích của bản thân mình. Vì vậy, dân chủ
t sản không thể là mục tiêu cuối cùng của nhân loại.
Chỉ đến khi giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đánh đổ sự
thống trị của giai cấp t sản, giành lấy chính quyền, thiết lập nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân mới trở thành thực chất, nhiều giá trị dân
chủ truyền thống đợc phục hồi.
Dới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhiều mặt của chế độ dân chủ
nguyên thuỷ tất nhiên sẽ sống lại, vì lần đầu tiên trong lịch sử những
xã hội văn minh, quần chúng nhân dân vơn lên tham gia một cách độc

lập không những vào việc bầu cử và tuyển cử, mà cả việc quản lý hàng
ngày nữa [39, tr.143].
Là thành quả của quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, nền dân chủ XHCN đợc thiết lập sau thắng lợi của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Chế độ dân chủ XHCN dân chủ gấp triệu lần so với bất cứ chế
độ dân chủ t sản nào [45, tr.312-313] vì nó thực sự coi nhân dân là chủ thể tối
cao của quyền lực. Mục đích cao nhất của dân chủ XHCN là giải phóng con ngời
và toàn thể loài ngời, xây dựng một xã hội không có giai cấp, không có áp bức
bóc lột, mọi ngời đều bình đẳng, thực hiện tự do của mỗi ngời là điều kiện cho
sự tự do của mọi ngời. Dân chủ XHCN gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng
11
giai cấp, giải phóng con ngời, vì sự tiến bộ xã hội. Trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen vạch rõ rằng một khi những ngời cộng sản hoàn
thành mục tiêu chính trị của mình, thì dân chủ không còn mang tính hình thức
nữa, mà đi vào cuộc sống. Giá trị về dân chủ, tự do và công bằng của ngày hôm
qua mang ý nghĩa mới về chất trong một tơng lai không còn sự phân cực xã hội
gay gắt nữa.
Mặt khác, giai cấp công nhân còn lãnh đạo nhân dân lao động đập tan bộ
máy nhà nớc cũ, thiết lập một cơ chế mới để nhân dân tham gia xây dựng một xã
hội mới công bằng, dân chủ, văn minh. Theo C.Mác một nền dân chủ thật sự
phải gắn liền với sự nghiệp của nhân dân chế độ dân chủ là câu đố đã đợc giải
đáp của mọi hình thức chế độ nhà nớc ngày càng hớng tới cơ sở hiện thực của
nó, tới con ngời hiện thực, nhân dân hiện thực, và đợc xác định là sự nghiệp của
bản thân nhân dân[50, tr.349]. Cho nên, ngay trong quá trình cách mạng giai
cấp vô sản ở mỗi nớc trớc hết phải tự mình giành lấy chính quyền, phải tự mình
vơn lên thành giai cấp dân tộc[51, tr.623-624]. Giành lấy chính quyền với ý
nghĩa là giành lấy dân chủ, giành lấy quyền lực nhà nớc và tổ chức quyền lực đó
thành Nhà nớc dân chủ vô sản. Nhà nớc đó sẽ là chế độ thi hành ngay lập tức
những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những
biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá huỷ chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn

toàn xây dựng một chế độ dân chủ nhân dân[39, tr.135]. Chỉ có nh vậy quyền
làm chủ của nhân dân lao động mới đợc thực hiện đầy đủ.
Nền dân chủ XHCN có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về các t liệu sản
xuất chủ yếu. đây là điểm khác biệt cơ bản về chất giữa nền dân chủ vô sản -dân
chủ cho đa số quần chúng lao động và dân chủ t sản - dân chủ của thiểu số giai
cấp bóc lột. Do đó, xét về bản chất, dân chủ XHCN là nền dân chủ cao nhất từ tr-
ớc tới nay. Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, những giá trị dân chủ đợc thể
chế hoá thành pháp luật, thành hệ thống chính trị (trong đó Nhà nớc là trụ cột),
thành nguyên tắc, mục tiêu của sự phát triển. Các giá trị dân chủ sẽ trở thành phổ
biến và chi phối mọi hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi
công dân và tổ chức xã hội đều có khả năng nhận thức, vận dụng để làm chủ bản
thân và làm chủ xã hội. đó cũng là chế độ chính trị mà lần đầu tiên biến thành
chế độ dân chủ cho ngời nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chế độ dân chủ
cho tuyệt đại đa số nhân dân.
Dân chủ XHCN là dân chủ của đa số nhân dân lao động (giai cấp công
nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác), bảo vệ quyền và lợi ích của đa số
12
nhân dân lao động, đồng thời trấn áp mọi sự phản kháng của giai cấp bóc lột.
Dân chủ XHCN đợc thực hiện bằng Nhà nớc của dân, do dân, vì dân, dới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện bản chất giai cấp
công nhân, tính nhất nguyên của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; đồng thời là điều
kiện cơ bản đảm bảo tính định hớng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nớc,
tính tự giác trong xây dựng, củng cố, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Bởi vậy, sau khi giành đợc chính quyền, giai cấp công nhân cùng toàn thể
nhân dân lao động bắt tay ngay vào việc xây dựng và củng cố bộ máy nhà nớc -
cơ chế đảm bảo dân chủ. Giai cấp công nhân cần có một Nhà nớc, nhng không
phải cái Nhà nớc mà giai cấp t sản cần và trong đó những cơ quan chính
quyền đều tách khỏi nhân dân và đối lập với nhân dân[40, tr.52], mà là cái Nhà n-
ớc luôn luôn và thực sự gắn liền với nhân dân, đại diện cho nhân dân, giúp đỡ họ
học tập dân chủ, tham gia đời sống chính trị, tham gia làm chủ.

Quan niệm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ
Cội nguồn sâu xa của t tởng dân chủ Hồ Chí Minh là truyền thống trọng
dân, nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vai trò, sức mạnh của nhân dân dân là nớc,
nớc có thể đẩy thuyền nhng cũng có thể lật thuyền. Bởi vậy, Ngời cho rằng làm
cách mạng phải biết dựa vào sức dân, lực lợng quần chúng, vì dân là cội nguồn
của sức mạnh, là gốc của nớc, căn cứ vững chắc của cách mạng dễ mời lần, không
dân cũng chịu; khó trăm lần, dân liệu cũng xong[56, tr.212]. Thực tiễn quá trình
cách mạng nớc ta đã chứng minh dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm đợc. Dân
chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không xong [56, tr.213]. Cho nên, Ngời luôn
luôn khuyên bảo cán bộ đảng viên không ngừng rèn đức, luyện tài, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô t, chống tham ô, lãng phí, xây dựng một thiết chế vững mạnh
để thực hành dân chủ. Dân chủ là cái chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó
khăn[56, tr.249].
Tiếp thu, vận dụng những t tởng dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin vào
quá trình cách mạng ở Việt Nam, đồng thời kế thừa những yếu tố dân chủ trong
truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo quan điểm dân chủ và
dân chủ xã hội chủ nghĩa, rằng: dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ nghĩa là: thứ nhất, dân là chủ nớc ta là nớc dân
chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ[54, tr.515]; thứ hai, dân làm chủ nớc
ta là nớc dân chủ, nghĩa là Nhà nớc do nhân dân làm chủ [55, tr.452]; thứ ba,
dân chủ là toàn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân và đợc thực hiện qua
các tổ chức quần chúng:
13
Nớc ta là một nớc dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của nhân
dân mà làm. Khắp nơi có đoàn thể nhân dân nh Hội đồng nhân dân,
Mặt trận, Công đoàn, Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc
Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực
quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ [54, tr.66].
Bởi vậy, trớc lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho đời sau, Ngời đã căn dặn
Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nớc Việt Nam hoà

bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới[9, tr.26].
Thực hiện Di chúc của Ngời, ngày nay, Đảng ta đang tiến hành một cuộc
vận động chính trị rộng lớn, phát huy hơn nữa sức mạnh của nhân dân đẩy mạnh
công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Bảy mơi
lăm năm qua, kể từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam bao giờ cũng coi
phát triển dân chủ là một trong những nội dung quan trọng của đờng lối cách
mạng. Quan điểm xuyên suốt quá trình cách mạng nớc ta là phát huy cao nhất
quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi mà các thế lực thù địch
đang tìm đủ mọi cách để xuyên tạc, chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nớc ta với các chiêu bài dân chủ, nhân quyền thì việc mở rộng dân chủ xã
hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội là hết sức cần thiết. Đó là mục tiêu và là động lực để nhân dân ta
vợt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lợc trong tình hình mới,
đồng thời thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
đại hội đại biểu toàn quốc lần VI(1986) của Đảng, mở đầu sự nghiệp đổi
mới và cũng là thời điểm tổng kết kinh nghiệm 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Bài học kinh nghiệm thứ nhất mà Đảng ta rút ra là đổi mới phải lấy dân
làm gốc, đồng thời giải thích rõ nội dung của bài học kinh nghiệm đó để mọi
chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc phải luôn xuất phát từ nhu cầu và lợi
ích của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của đa số nhân dân lao động.
đại hội VII (1991) Đảng ta thông qua Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cơng lĩnh nêu lên 5 bài học lớn, đặc biệt ở
bài học thứ 2 Đảng ta nhấn mạnh sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân[26, tr.123], cho nên, trong mô hình xã hội XHCN mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân làm chủ. Vì vậy toàn bộ tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nớc ta là nhằm củng cố, hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động
14

[26, tr.142], trong đó, việc xây dựng Nhà nớc XHCN của dân, do dân, vì dân, có
khối liên minh công - nông - trí là nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo là một
nhiệm vụ quan trọng. Nó chính là cơ chế đảm bảo và phát huy cao nhất quyền
làm chủ của nhân dân lao động.
Đại hội VIII(1996), với những thành công từ đại hội VII, Đảng ta tiếp
tục khẳng định quan điểm:
Xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi
mới hệ thống chính trị ở nớc ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để
thực hiện phơng châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối với
các chủ trơng, chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc. Thực hiện tốt cơ
chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực
tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở [13, tr.43].
Đại hội IX của Đảng(2001), Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi
mới, Đảng ta đã tổng kết toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng (từ 1930 đến
2001), 15 năm đổi mới (1986-2001), 10 năm thực hiện Cơng lĩnh Đại hội
VII(1991-2001). Trên cơ sở đó, Đảng đã khái quát t tởng lớn về những vấn đề
của cách mạng Việt Nam; trong đó, t tởng coi sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, sức mạnh làm chủ của nhân dân là động lực chủ yếu để thực hiện
thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thể hiện sự kiên định và quyết tâm
tiếp tục phát triển nền dân chủ XHCN trong tình hình mới. Đảng ta khẳng định
sự nghiệp đổi mới là vì lợi ích của nhân dân, do nhân dân thực hiện, do đó, là sự
nghiệp của chính nhân dân[14, tr.81].
để phát huy sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ đổi mới, Đại hội đã đề
ra chủ trơng củng cố và nâng cao chất lợng hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là
vấn đề thực hành dân chủ trong nội bộ các tổ chức của nó; thực hành dân chủ
thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc
tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện
quyền dân chủ trực tiếp, phát huy dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực
hiện quyền giám sát của dân đối với các tổ chức và cán bộ cơ sở, thay thế ngời

không đủ tín nhiệm; củng cố, tăng cờng mối quan hệ giữa hệ thống chính trị với
dân theo phơng châm trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm
với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin.
Nh vậy, dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn là nội
dung quan trọng, xuyên suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành độc
15
lập, thống nhất đất nớc cũng nh trong công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam và liên tục đợc phát triển qua các giai đoạn cách mạng. Dân chủ gắn
liền với dân sinh, dân trí. Do vậy, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
cách mạng nói chung, của công cuộc đổi mới nói riêng.
Từ những sự phân tích trên, có thể khái quát: Dân chủ là quyền lực thuộc
về nhân dân; dân là chủ và dân làm chủ xã hội. Quyền lực đó là tối cao. Trong
xã hội có giai cấp, quyền lực ấy đợc uỷ quyền cho giai cấp cầm quyền để tổ chức
thành quyền lực chính trị nhằm quản lý xã hội (mà trung tâm quyền lực là Nhà
nớc). Tuy nhiên, không phải lúc nào nhân dân lao động cũng chủ thể đích thực
của quyền lực. Chế độ dân chủ trong xã hội coi sở hữu t hữu là cơ sở kinh tế của
mình đã làm tha hoá cái quyền lực lẽ ra thuộc về nhân dân.
Dân chủ XHCN là một bớc tiến trong quá trình phát triển và hoàn thiện
cơ chế thực thi dân chủ. Chỉ có trong chế độ dân chủ XHCN nhân dân lao động
mới thật sự là chủ và làm chủ. GCCN và nhân dân lao động, dới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, tiến hành cuộc cách mạng XHCN, thiết lập đợc những cơ
chế đảm bảo cho nhân dân tham gia thực hiện và kiểm soát quyền lực của mình.
Dân chủ XHCN là đỉnh cao trong sự phát triển về phơng thức thực thi dân chủ
và là sự kết tinh những giá trị dân chủ đã đạt đợc trong lịch sử.
Đặc trng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nớc ta
Trong Cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
Đảng ta khẳng định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự nghiệp xây
dựng CNXH và hoàn thiện nền dân chủ XHCN. Thực hiện dân chủ XHCN không
chỉ là mục tiêu chính trị phải đạt tới mà còn là phơng thức căn bản làm nên động
lực, u thế của Nhà nớc và chế độ. Nhà nớc ta đảm bảo cho toàn thể nhân dân lao

động đợc làm chủ thực sự. Đảng ta khẳng định, Toàn bộ tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị nớc ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bớc
hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân[20, tr.8-
19] và, Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao
động làm chủ. Từ trong bản chất của nó, dân chủ XHCN là nền dân chủ của
nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và vì lợi ích của nhân dân. Là thành quả
của quá trình đấu tranh cuả GCCN và nhân dân lao động, nền dân chủ XHCN đ-
ợc thiết lập sau thắng lợi của cách mạng XHCN, trong đó, Nhà nớc XHCN là trụ
cột bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân.
Trong nền dân chủ XHCN ở nớc ta, Nhà nớc là công cụ quyền lực để
thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân. Cán bộ công chức nhà nớc là công
16
bộc của dân. Sự nghiệp chính trị của chúng ta chính là tạo ra Nhà nớc của dân,
trên cơ sở đó mà vì dân, thực hiện ý chí và quyền lực của dân. Chỉ có dựa vào
sức mạnh của nhân dân, mở rộng dân chủ mới xây dựng đợc chính quyền trong
sạch, vững mạnh, tạo động lực to lớn cho sự phát triển của đất nớc và chế độ xã
hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu dân chủ chân chính của nhân dân. Vì vậy, Đảng
ta xác định Nhà nớc xã hội chủ nghĩa - Nhà nớc kiểu mới là Nhà nớc của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, là tổ chức và thể hiện và thực hiện ý chí, quyền
lực của nhân dân. Nhân dân là chủ thể của tất cả mọi quyền lực Nhà nớc cộng
hoà XHCN Việt Nam là Nhà nớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân [28, tr.137].
Bản thân các cơ quan nhà nớc XHCN tự nó không có quyền mà chỉ đợc
sự uỷ quyền từ nhân dân. Cái mà nhân dân uỷ thác là quyền quản lý nhà nớc. Do
đó, nhân dân, với t cách là ngời chủ sở hữu quyền lực nhà nớc, có quyền và
nghĩa vụ giám sát tình hình thi hành quyền lực đã uỷ thác và Nhà nớc phải thờng
xuyên giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của mình. Đảng ta khẳng định Nhà nớc có mối
liên hệ thờng xuyên và chặt chẽ với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có
cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,

lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của công dân[20, tr.19].
đồng thời, giữ vững kỷ luật, kỷ cơng, tăng cờng pháp chế, quản lý xã hội bằng
pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức pháp luật.
Phát triển và hoàn thiện dân chủ XHCN ở nớc ta là một quá trình. Trên
thực tế, quyền dân chủ của nhân dân cũng có lúc, có nơi cha đợc thực hiện đầy
đủ, quyền làm chủ thậm chí còn bị vi phạm. Song, đó không phải là bản chất của
chế độ mới. Nguyên nhân của hiện tợng trên còn do sự cha hoàn thiện của cơ sở
kinh tế, cơ chế thực thi và sự cha hoàn thiện của ý thức về dân chủ XHCN.
Về sâu xa, cơ sở kinh tế - xã hội nớc ta còn cha đầy đủ cho sự phát triển
mạnh mẽ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. C.Mác từng khẳng định Quyền không
thể cao hơn trạng thái kinh tế. Quan hệ sản xuất XHCN nớc ta đang trong quá
trình phát triển và hoàn thiện; cơ sở kinh tế cho quá trình dân chủ mới, hiển
nhiên, cũng cha đầy đủ. Nền dân chủ mới đợc hình thành từ cuộc cách mạng
đánh đuổi bọn thực dân, đế quốc, đồng thời lật đổ ách thống trị của giai cấp
phong kiến, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân, sau đó chuyển thẳng lên chế độ
XHCN, bỏ qua sự xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc th-
17
ợng tầng TBCN. Cơ chế thực thi dân chủ hiển nhiên đang ở trạng thái cha hoàn
bị, cha thành thục.
Mặt khác, ý thức về dân chủ XHCN ở nớc ta đang trong giai đoạn quá độ
từ thân phận nô lệ trong chế độ chuyên chế phong kiến, chế độ thuộc địa sang
vai trò làm chủ vận mệnh dân tộc, làm chủ đất nớc. Từ thân phận nô lệ trở thành
ngời chủ của đất nớc, nhiều cán bộ và ngời dân cha thấy hết giá trị cũng nh sự
cần thiết phải chuẩn bị cho dân chủ XHCN nh thế nào. Nhiều cán bộ cha quen
phơng pháp lãnh đạo dân chủ, nhân dân tuy đã đợc trao quyền nhng cũng cha
biết sử dụng quyền đó. Những tàn d của ý thức hệ cũ: cục bộ, địa phơng chủ
nghĩa, gia trởng, quan liêu, tham nhũng, địa vị, bè phái, tham quyền lực vẫn
còn in sâu trong nhận thức, tâm lý, phong cách của nhiều ngời. Nhân dân cha
quen với nhà nớc pháp quyền và xã hội công dân, lối sống tiểu nông còn chi phối
trong nếp nghĩ cũng nh trong mọi hoạt động hàng ngày, cha thích ứng với xã hội

hiện đại, nên còn tâm lý tự ty, thụ động, trông chờ, tách rời quyền lợi và nghĩa
vụ Cả cán bộ và nhân dân đều cha coi trọng dân chủ, thậm chí có cả biểu hiện
thờ ơ với nó và làm cho những giá trị cao cả của dân chủ XHCN cha thể bộc lộ.
Vì vậy, trong giai đoại đổi mới, Đảng ta đã phải lãnh đạo thực hiện một
quá trình kép: vừa phải xây dựng và phát triển những cơ sở vật chất cho nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, vừa phải từng bớc định hình các giá trị tốt đẹp của dân chủ
XHCN trong thực tiễn công cuộc đổi mới. Việc ban hành Quy chế thực hiện dân
chủ ở cơ sở thời gian qua là một phơng thức rất hiện thực để phát triển nền dân
chủ XHCN trong giai đoạn hiện nay.
Nh vậy, từ trong đờng lối chiến lợc, sách lợc cũng nh trong thực tiễn cách
mạng, Đảng ta luôn khẳng định bản chất của Nhà nớc ta, nền dân chủ XHCN là
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với
công bằng xã hội, chống áp bức bất công, tất cả đều nhằm mục tiêu Độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Phát huy dân chủ gắn liền với xây dựng phát triển cơ sở kinh tế XHCN,
sáng tạo tìm tòi những phơng thức để thực thi dân chủ, từ đó hoàn thiện ý thức về
dân chủ XHCN cho cán bộ v nhân dân. đó là những nét đặc trng cơ bản của
quá trình phát triển nền dân chủ XHCN ở nớc ta.
1.1.2. Về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
1.1.2.1.Thực hiện dân chủ
Là thành quả của quá trình đấu tranh của GCCN và nhân dân lao động.
Nền dân chủ XHCN nớc ta là dân chủ của dân, do dân, vì dân; do đó, mọi hoạt
18
động của nó phải hớng đến việc bảo đảm lợi ích thiết thân cho đông đảo nhân
dân lao động. Lợi ích to lớn nhất của nhân dân là đợc thể hiện quyền làm chủ
thật sự trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: tham gia vào quá trình tổ
chức, xây dựng và quản lý nhà nớc, quản lý xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng
và lợi ích của bản thân
Theo V.I.Lênin, để xây dựng một nền dân chủ XHCN trong thực tế,
không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra các sắc lệnh về dân chủ

là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho những ng-
ời đại diện nhân dân trong những cơ quan đại biểu là đủ [40, tr.336-337], mà
phải thu hút toàn thể những ngời lao động, không trừ một ai, tham gia việc quản
lý nhà nớc[44, tr.68]. đó cũng chính là thớc đo cho trình độ thực hiện dân chủ
của chế độ xã hội XHCN. Hơn nữa, trọng tâm của dân chủ XHCN không phải ở
việc tuyên bố những quyền lợi và tự do cho toàn thể nhân dân, mà là ở chỗ tạo
điều kiện cho nhân dân lao động thực sự tham gia quản lý nhà nớc, giúp họ có
khả năng thực tiễn thực hiện đợc quyền tự do(dân chủ).
Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định rằng thực hành dân chủ là chìa khoá
vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Theo Ngời thực hành dân chủ tức là đa
mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết[54, tr.297]. đây là
sự tổng kết sâu sắc từ thực tiễn cách mạng. Bởi dân chúng là cội nguồn của mọi
sức mạnh, họ luôn mang trong bản thân mình những lực lợng tiềm tàng to lớn
của cách mạng, của sự phục hng và của sự đổi mới [43, tr.349].
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, thành quả cách mạng cũng là của
nhân dân. Do vậy, sau khi giành thắng lợi, nhân dân phải đợc hởng thành quả ấy,
nghĩa là quần chúng nhân dân có quyền và nghĩa vụ tham gia các quá trình tổ
chức, xây dựng và quản lý nhà nớc, quản lý xã hội. Tuy nhiên, tham gia quản lý
nhà nớc, quản lý xã hội không phải là một công việc dễ dàng đối với nhân dân
lao động. Cho nên, để tham gia vào công việc ấy, nhân dân phải học quản lý
nhà nớc và phải học ngay không đợc chậm trễ[42, tr.414]. Chỉ có thông qua
nhà nớc, đợc sự giúp đỡ của Nhà nớc, nhân dân lao động mới có thể thực hiện đ-
ợc điều đó. Chính quyền nhà nớc XHCN có nhiệm vụ làm cho những ngời lao
động và những ngời bị bóc lột có thể thực sự hởng đợc tất cả những phúc lợi của
nền văn hoá, văn minh và dân chủ[46, tr.116], Nhà nớc phải bắt tay ngay vào
việc làm cho tất cả những ngời lao động, tất cả những công dân nghèo đều tham
gia học quản lý nhà nớc[42, tr.414]. Nhà nớc XHCN là Nhà nớc của dân, công
cụ quyền lực phục vụ hoạt động tự do, làm chủ của mọi ngời dân, nên không
phải chỉ biết lo cho dân từ bên trên, mà phải biết tập hợp quần chúng công
19

nông", "lôi cuốn" họ cùng tham gia công việc tổ chức, xây dựng và quản lý xã
hội để khắc phục tình trạng quan chủ, chống tham nhũng, lãng phí, lạm dụng
quyền lực Vì vậy, việc tập hợp, lôi cuốn quần chúng tham gia làm chủ phải
đợc đặt dới sự lãnh đạo của Đảng để đảm bảo tính thống nhất, tức là phải gắn
dân chủ với tập trung, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cơng, tăng cờng pháp chế,
để đảm bảo tính thống nhất, tập trung dân chủ, dân chủ đi đôi với kỷ
luật, kỷ cơng, phải thực hiện tốt dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ
trực tiếp là hình thức dân chủ đợc thực hiện bằng cách nhân dân trực tiếp bày tỏ
chính kiến của mình, trực tiếp tham gia quyết định những vấn đề chung của cộng
đồng. Còn dân chủ đại diện là nhân dân thông qua các đại biểu, các đoàn thể của
mình và các phơng tiện khác để bày tỏ chính kiến, để quyết định những vấn đề
chung. Những hình thức dân chủ ấy đợc thể chế bằng pháp luật của Nhà nớc và
đợc thực thi bằng cả hệ thống chính trị.
Thực hiện dân chủ phải chú trọng cả hai mặt: vừa phát huy chế độ dân
chủ đại diện, nâng cao chất lợng và hiệu quả hoạt động của những ngời đại
diện; ở nớc ta đó là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận và
đoàn thể nhân dân các cấp; vừa thực hiện từng bớc vững chắc chế độ dân chủ
trực tiếp, trớc hết là cấp cơ sở mà cốt lõi là nhân dân tham gia bàn bạc và quyết
định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực, gắn với lợi ích của mình
theo phơng châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Dân chủ cũng gắn
liền với dân sinh, dân trí, thúc đẩy kinh tế, văn hoá, xã hội cùng phát triển.
Dân chủ phải đi đôi với kỷ cơng, trật tự, dân chủ đợc thể chế hoá thành
pháp luật và dân chủ trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật; quyền hạn gắn
liền với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm
pháp luật. Dân chủ cao thì kỷ luật phải nghiêm. Kỷ luật có nghiêm mới bảo đảm
việc mở rộng dân chủ, thực hiện dân chủ một cách có chất lợng. Vì vậy, thực
hiện dân chủ cũng có nghĩa là đổi mới tổ chức và phơng thức hoạt động của hệ
thống chính trị, trọng tâm là Nhà nớc.
Quá trình thực hiện dân chủ ngoài ra còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố:

Trình độ và tốc độ tăng trởng kinh tế; trình độ dân trí, văn hoá của nhân dân;
nhân sinh quan và thế giới quan, phẩm chất và năng lực của chủ thể cầm quyền;
các thể chế dân chủ đợc chế định bằng nguyên tắc, pháp luật, chuẩn mực văn hoá
đạo đức
20
Nh vậy, trong chế độ XHCN, thực hiện dân chủ là quá trình hiện thực
hoá những giá trị dân chủ vào đời sống xã hội để cho nhân dân đợc hởng thành
quả cách mạng, đồng thời tạo điều kiện cho mọi ngời dân tham gia ngày càng
rộng rãi, tích cực, hiệu quả hơn vào công việc quản lý nhà nớc, quản lý xã hội
theo phơng châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"; là thông qua
những cơ chế thực thi quyền lực chính trị (hệ thống chính trị, Hiến pháp, pháp
luật và hệ thống những văn bản pháp lý khác nh Quy chế, Quy ớc, ) để đảm
bảo cho chế độ uỷ quyền của dân vào Nhà nớc trở thành hiện thực, khắc phục
triệt để tình trạng lợi dụng sự uỷ quyền làm tổn hại đến quyền và lợi ích của
dân. Thực hiện dân chủ ở nớc ta hiện nay đợc thể hiện tập trung trong quá trình
thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp cơ sở.
1.1.2.2. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, trớc hết là thực hiện
quyền làm chủ của hàng chục triệu quần chúng lao động ở cấp cơ sở
ở nớc ta, cấp cơ sở (xã, phờng, thị trấn) chính là nền tảng của chế độ, là
nơi chính quyền trong lòng dân, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trơng,
chính sách của Đảng và Nhà nớc, là nơi cần thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Cấp cơ sở (đặc biệt là cấp xã) còn là nơi
kết hợp sinh động vấn đề nông dân - nông nghiệp - nông thôn, trong đó ngời
nông dân là chủ thể sáng tạo. Tuy là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị nớc
ta, nhng lại là cấp chính quyền gần dân nhất, tiếp nhận và trực tiếp triển khai
thực hiện các chủ trơng, đờng lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nớc;
đồng thời theo dõi, giám sát, kiểm tra việc công dân thực hiện các nghĩa vụ, pháp
luật. đây cũng là nơi nhân dân thể hiện vai trò làm chủ của mình. Hồ Chí Minh
đã khẳng định nền tảng của mọi công tác là cấp xã, cấp xã là gần gũi dân
nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm đợc việc thì mọi công việc đều

xong xuôi. Có thể nói cơ sở là chiếc cầu nối giữa Dân với Đảng, là cái vi
mô nhng thực chất là cái vĩ mô thu nhỏ.
Mục tiêu lý tởng dân chủ và công bằng xã hội chỉ có thể biến thành sức
mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào hàng chục triệu quần chúng lao động. Nớc
ta là một nớc nông nghiệp, nông dân chiếm gần 80% dân số, đa phần sống ở
nông thôn. Nông thôn, nông dân nớc ta có vai trò rất quan trọng trong quá trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc
đổi mới, họ có những đóng góp hết sức to lớn cho phát triển kinh tế, ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội, Bởi vậy, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
lao động ở cơ sở trớc hết phải hớng tới nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
21
Song, quá trình thực hiện dân chủ, đối với nhân dân ta, đặc biệt là nông dân, vốn
cha quen với nhà nớc pháp quyền và xã hội công dân là một việc vừa có tính cấp
bách, vừa lâu dài. Cho nên, làm thế nào để vừa kêu gọi, tập hợp, lôi cuốn, giáo
dục nhân dân tham gia làm chủ, biết cách làm chủ; đồng thời củng cố và xây
dựng cơ chế đảm bảo quyền làm chủ của họ là một yêu cầu bức thiết trong giai
đoạn hiện nay.
đáp ứng yêu cầu đó, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30-
CT/TW về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Thực hiện Chỉ thị của Bộ
Chính trị, ngày 11/05/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 29-NĐ/CP về việc
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ
ở xã. Sau một thời gian triển khai thực hiện, ngày 28/03/2002 Ban Bí th Trung -
ơng ra Chỉ thị số 10-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện
QCDC ở cơ sở. Tiếp đó, ngày7/7/2003, Chính phủ ban hành Nghị định
79/2003/NĐ-CP về Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã kèm theo Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã thay thế cho Nghị định 29/1998.
đây là những văn bản pháp lý quan trọng, là cơ sở để nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình, đồng thời là cơ sở để Nhà nớc giám sát, bảo đảm
quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân. Mục đích của Quy chế thực hiện dân chủ
ở xã là nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân cấp xã (cả ph-

ờng và thị trấn), động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân
trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định
chính trị, tăng cờng đoàn kết, xây dựng đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở
xã trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan
liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần
thực hiện mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
để thực hiện đợc điều đó, trong quá trình triển khai QCDC ở cơ sở, Bộ Chính trị
(khoá VIII) đã chỉ đạo phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Thứ nhất, đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong
cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị Đảng lãnh đạo, Nhà nớc quản lý, nhân
dân làm chủ. Coi trọng cả ba mặt này, không đợc nhấn mạnh hay hạ thấp mặt
nào. Thứ hai, phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lợng và hiệu
quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, hđnd và ubnd các cấp; đồng thời
thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân trực tiếp tham gia
bàn bạc và quyết định những công việc quan trọng, thiết thực gắn liền với lợi ích
của họ. Thứ ba, phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội,
22
nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lợng và hiệu quả. Thứ t,
nội dung của các quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở phải hợp Hiến, hợp pháp thể
hiện tinh thần dân chủ đi đôi với trật tự, kỷ cơng, quyền hạn gắn liền với trách
nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống tham nhũng, quan liêu, mệnh lệnh, cửa
quyền, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp
luật. Thứ năm, gắn quá trình xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở với công tác
cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống chính trị.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 79/2003/NĐ-CP về Quy chế thực
hiện dân chủ ở cơ sở, quy định rõ trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của nhân
dân, của chính quyền cơ sở trong quá trình thực hiện các chủ trơng của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nớc, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến
đời sống và lợi ích của nhân dân ở cơ sở, theo phơng châm dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra. Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng quy định rõ

những việc nào dân đợc biết, đợc tham gia ý kiến, bàn bạc, quyết định, giám sát,
kiểm tra; đồng thời quy định việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế, hình thức tổ
chức nhằm đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp. Bên cạnh
đó, QCDC ở cơ sở còn xác định trách nhiệm của chính quyền và các tổ chức tự
quản trong việc giải đáp những thắc mắc, khiếu nại, tố cáo và những ý kiến đóng
góp, phê bình của nhân dân. Có thể nói QCDC ở cơ sở chính là một bớc tiến
quan trọng cả về nhận thức, hành động và hiệu quả thực tế của sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
QCDC ở cơ sở là văn bản quy phạm pháp luật đợc Nhà nớc ban hành
nhằm cụ thể hoá phơng châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đây
thực chất là một cuộc vận động chính trị lớn của Đảng đối với toàn xã hội, trớc
hết là vận động và tạo điều kiện cho nhân dân ở cơ sở trực tiếp tham gia thực
hiện các chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc; tham gia quản lý nhà nớc,
quản lý xã hội, giáo dục ý thức dân chủ, phát triển năng lực dân chủ, thực hiện
quyền làm chủ và thực hành dân chủ cho mọi tầng lớp nhân dân nhằm phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, xây dựng một xã
hội dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. đó là một quá
trình với những tác động tổng hợp từ mọi lực lợng, môi trờng, điều kiện, để làm
cho dân chủ từ khả năng trở thành hiện thực phổ biến trực tiếp mà mọi ngời dân
đều có thể cảm nhận, nắm bắt và thực hiện, đợc hởng thành quả dân chủ bằng
chính thể chế pháp quyền nhà nớc từ cơ sở. Thực hiện QCDC ở cơ sở cũng là
23
nhằm vợt qua những hiện trạng còn nhiều hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện
dân chủ, là để đạt tới dân chủ, phát triển dân chủ.
Trong quá trình triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở, để dân chủ thật sự là
mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn luôn quan tâm tới việc
giữ vững tính chất XHCN của nền dân chủ. Phải đảm bảo cơ sở kinh tế của nền
dân chủ XHCN, đó là chế độ công hữu về các t liệu sản xuất chủ yếu. Trong thực
hiện dân chủ XHCN, thực hiện dân chủ trên lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa rất quan
trọng. Chỉ khi nào ngời lao động thực sự làm chủ về kinh tế, thì họ mới là lực l-

ợng quyết định toàn bộ quá trình phát triển xã hội. Do đó, sự phát triển của kinh
tế - xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân đợc cải thiện và nâng lên là
tiêu chuẩn cao nhất, là thớc đo quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở. Bên cạnh đó,
phơng thức tổ chức, chất lợng hoạt động của hệ thống chính trị cùng với phẩm
chất, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ cơ sở đợc củng cố và nâng cao cũng
là một tiêu chí quan trọng. Bởi đó chính là cơ chế bảo đảm cho thực thi dân chủ.
đồng thời, Đảng ta cũng rất quan tâm đến việc nâng cao trình độ dân trí,
trình độ văn hoá dân chủ, văn hoá pháp luật cho nhân dân, đặc biệt là nhân dân ở
cơ sở. Vì dân chủ là biểu hiện của trình độ văn hoá chính trị, có quan hệ mật
thiết với trình độ dân trí. Chỉ khi nào ngời dân tự giác nhận thức đợc quyền hạn
và nghĩa vụ của mình, tự giác tham gia vào công việc nhà nớc, công việc xã hội,
hoạt động với t cách là công dân có tri thức, có văn hoá thì mới thực sự có điều
kiện thực hiện dân chủ. đây cũng chính là những tiêu chí cơ bản để đánh giá
chất lợng thực hiện QCDC ở cơ sở.
Tóm lại, thực hiện QCDC ở cơ sở là một cuộc vận động chính trị lớn của
Đảng ta nhằm cụ thể hoá phơng châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra", phát huy quyền làm chủ trực tiếp, sức sáng tạo của nhân dân ở cơ sở, động
viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế-
xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cờng đoàn
kết, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở trong sạch, vững
mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của
một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân
giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hớng xã hội chủ
nghĩa. đây cũng là một phơng thức phát triển dân chủ XHCN ở nớc ta trong giai
đoạn hiện nay.
1.2. Tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở - một phơng
thức phát triển dân chủ XHCN ở nớc ta
24
1.2.1. Quy chế dân chủ ở cơ sở là một thành quả lớn cần đợc tiếp tục
phát huy trong thực tiễn chính trị Việt Nam

Thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ đợc coi là động lực của sự nghiệp
đổi mới theo định hớng XHCN, mà còn là phơng thức để phát triển dân chủ xã
hội chủ nghĩa. đó là một thành quả lớn trong thực tiễn chính trị nớc ta. Việc xây
dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở là một chủ trơng lớn, đúng đắn, kịp thời, phù
hợp ý Đảng lòng dân, có thể nói đây là một sáng kiến vĩ đại trong thực tiễn
chính trị Việt Nam. Bởi chỉ có thông qua việc thực hiện quy chế, nhận thức của
cả nhân dân và cán bộ, đảng viên về dân chủ mới đợc nâng lên. Nhân dân ý
thức đợc quyền làm chủ của mình, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, tích cực
tham gia phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Cán bộ, đảng viên thấy rõ vai trò, tác
dụng của dân chủ, vì thế mà nhiệt tình hơn, tận tuỵ hơn trong công tác. Cả cán
bộ, đảng viên và nhân dân đều hiểu rõ: quyền làm chủ của nhân dân không phải
là những gì xa vời, mà nó đợc thể hiện cụ thể trong những công việc hàng ngày
của nhân dân và hoạt động của chính quyền cơ sở.
Hơn thế, có thể coi việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở là một
"sáng kiến vĩ đại" vì:
Thứ nhất, QCDC ở cơ sở là thành quả của quá trình tìm tòi, sáng tạo
của Đảng trong phát triển dân chủ XHCN ở nớc ta. Nó tuyệt nhiên không phải là
một sự sao chép hay bắt chớc bất kỳ một mô hình dân chủ nào. Mà nó chính là
sản phẩm của sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo t tởng dân chủ của chủ nghĩa Mác-
Lênin và Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; đồng thời chọn lọc,
kế thừa và học tập những kinh nghiệm thành công cũng nh cha thành công trong
việc phát triển dân chủ của một số nớc trên thế giới, kết hợp chủ nghĩa yêu nớc,
tinh thần đoàn kết, t tởng thân dân, trọng dân của Đảng ta.
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở hình thành từ nhu cầu dân chủ của
nhân dân ta, trớc hết là nhân dân lao động ở cơ sở; từ đòi hỏi của công cuộc đổi
mới và trớc những thách thức của thời đại. để đa con thuyền cách mạng Việt
Nam tiến thẳng đến bến bờ chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền
phong của giai cấp công nhân, đại diện duy nhất cho lợi ích toàn dân tộc, phải
phát triển dân chủ, trớc hết là dân chủ ở cơ sở nhằm kích thích và huy động sức
mạnh của toàn dân. Với bản lĩnh và kinh nghiệm lãnh đạo, Đảng ta đã phát triển

dân chủ XHCN bắt đầu từ việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, nơi sinh sống của đại
đa số nhân dân lao động Việt Nam. đây là cái rất riêng, có thể nói là cái đặc
thù của Việt Nam.
25
Thứ hai, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở đã tạo đợc một phong trào
chính trị - xã hội rộng lớn. Nó đã tác động sâu sắc đến đời sống của nông thôn
nớc ta. Quy chế đã đáp ứng đợc nguyện vọng của nhân dân về quyền làm chủ
của họ, mở ra một cuộc vận động thực hiện dân chủ hoá ở cơ sở. Đây là một chủ
trơng lớn, đúng đắn, hợp lòng dân vì hớng về dân và vì lợi ích của dân; đồng thời
còn là một chủ trơng có tính đột phá để giải quyết những vấn đề bức xúc nhất
của đời sống chính trị ở cơ sở. Có thể nói lần đầu tiên trong thực tiễn chính trị n-
ớc ta, phơng châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra không còn là
những câu khẩu hiệu, mà trở thành hiện thực bởi có cơ chế đảm bảo thực hiện.
Vì vậy, nó đợc nhân dân nồng nhiệt hởng ứng và tích cực thực hiện.
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở thực chất là việc khởi xớng một phong
trào sâu rộng trong quần chúng vừa để thực hành dân chủ, vừa để nâng cao trình
độ dân chủ. Ngay sau khi Chính phủ ban hành QCDC, khắp nơi trong cả nớc đều
dấy lên một phong trào thực hiện dân chủ hoá ở cơ sở. Nhiều nơi, nhân dân tham
gia họp, thảo luận, xây dựng và thực hiện quy chế rất tích cực. Hầu hết các địa
phơng, HĐND và UBND đều đa ra các chủ trơng để nhân dân tham gia bàn bạc,
góp ý kiến, phơng châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đợc cụ thể
hoá thành văn bản theo hớng dẫn của Chính phủ. Phát huy dân chủ, nhân dân tự
tổ chức quyên góp, giám sát thi công đờng giao thông nông thôn, xây dựng trờng
học, nhà tình thơng, nơi hội họp, theo phơng thức Nhà nớc và nhân dân cùng
làm; xây dựng và thực hiện các quy ớc nếp sống văn hoá trong các sinh hoạt th-
ờng nhật của ngời dân.
Sự nồng nhiệt đón nhận và tích cực thực hiện của nhân dân đã tạo nên
một bầu không khí sôi nổi; nhân dân đợc nói lên tiếng nói, đợc bầu đại diện của
mình vào các cấp chính quyền và những ngời đại diện ở ấp (thôn). Nhiều vấn đề
trong đời sống, lợi ích vật chất (chủ yếu là lợi ích kinh tế) và tinh thần của nhân

dân đợc quan tâm hơn. Cùng với quy chế là những chính sách đầu t phát triển
nông thôn, chính sách xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, cũng đợc quan
tâm thực hiện tốt hơn; vì thế mà niềm tin của nhân dân đối với các tổ chức đảng
và chính quyền cơ sở đợc củng cố và tăng lên.
Thứ ba, QCDC ở cơ sở đã tạo đợc sự chuyển biến tích cực trên các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội theo hớng dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Trên lĩnh vực kinh tế: thực hiện quyền làm chủ
trên lĩnh vực kinh tế, nhân dân lao động, nhất là nhân dân lao động ở cơ sở có
điều kiện thể hiện khả năng lao động sáng tạo của mình; xuất hiện ngày càng
26
nhiều sáng kiến hay trong quá trình lao động sản xuất, nhiều cá nhân sản xuất
giỏi đợc nhà nớc phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động. Những chơng trình
phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở đợc nhân dân tham gia ý kiến, góp của, góp
công thực hiện nhanh hơn, tốt hơn. Sự chuyển biến mạnh mẽ đó đã đóng góp tích
cực cho quá trình phát triển nền kinh tế nớc ta, từng bớc cải thiện và nâng cao
đời sống vật chất của nhân dân. ở nhiều nơi, nhân dân đã mạnh dạn phát biểu ý
kiến đóng góp, đề xuất với Đảng và Nhà nớc sửa đổi chính sách, quy định cho
thiết thực hơn, tạo điều kiện cho họ vay vốn, hớng dẫn họ chuyển đổi cơ cấu sản
xuất và ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiên tiến vào phát triển sản xuất, xoá đói
giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội.
Trên lĩnh vực chính trị: QCDC góp phần tạo sự chuyển biến tích cực
trong phong cách lãnh đạo của cán bộ theo tinh thần hớng về cơ sở, trọng dân,
gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân; hạn chế sự thoái hoá,
biến chất của đội ngũ cán bộ cơ sở. Nhờ vậy, đội ngũ cán bộ cơ sở không ngừng
đợc bổ sung, đợc thanh lọc qua phong trào thực tiễn ở cơ sở và bằng một cơ chế
dân chủ do chính nhân dân đảm nhiệm. Quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở đã tác
động tích cực đến việc củng cố, đổi mới, nâng cao chất lợng của hệ thống chính
trị ở xã, phờng, thị trấn: xây dựng chỉnh đốn Đảng, thúc đẩy việc đổi mới phơng
thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở đảng, làm cho mối quan hệ giữa dân với Đảng gắn bó chặt chẽ hơn.

Vai trò hạt nhân lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng đối với chính quyền và các
đoàn thể nhân dân đợc nâng lên; đa hoạt động của các cấp uỷ đảng, chính quyền
dần đi vào nền nếp, đúng pháp luật; khắc phục tình trạng lấn sân, làm việc tuỳ
tiện, cửa quyền; xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh; thúc đẩy cải cách
hành chính, cải tiến sự chỉ đạo, quản lý, điều hành của chính quyền. Các đoàn
thể và các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác ở cơ sở đợc củng cố, hoạt động gắn
bó, sâu sát hơn với nhân dân, cùng nhân dân giải quyết tốt những vấn đề đặt ra
trong đời sống kinh tế và sinh hoạt cộng đồng. Những tác động đó còn góp phần
chuyển biến và hoàn thiện phong cách làm việc, trình độ, năng lực công tác của
đội ngũ cán bộ, đảng viên; đổi mới nội dung, phơng thức hoạt động của hệ thống
chính trị theo hớng trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với
dân, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Nhân dân nhận thức ngày
càng đúng đắn, sâu sắc hơn về quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối
với việc xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân; mạnh dạn đấu tranh
chống tiêu cực, tham nhũng (90% số vụ tham nhũng, tiêu cực do nhân dân phát
27
hiện và báo chí nêu lên, từ đó các cơ quan thẩm quyền mới đi vào điều tra, xử
lý). Thông qua thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhân dân thực hiện tốt hơn quyền bầu
cử của mình. Họ có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn những ngời thật sự xứng đáng
đại diện cho ý chí và quyền lợi của mình và HĐND, Chủ tịch UBND, Trởng ấp
và một số chức danh khác.
Trên lĩnh vực văn hoá-xã hội: QCDC ở cơ sở đã tạo đợc sự chuyển biến
mạnh mẽ trong đời sống văn hoá của nhân dân, củng cố và tăng cờng tinh thần
đoàn kết, tơng thân, tơng ái lá lành đùm lá rách, một miếng khi đói bằng một
gói khi no Nhân dân tích cực hởng ứng phong trào đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ,
giúp đỡ ngời nghèo, ngời bị thiên tai, xoá đói, giảm nghèo, giúp nhau làm kinh
tế ; xây dựng đời sống mới: gia đình văn hoá, ấp (khu phố), xã văn hoá; ý thức
tự giác trong việc giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng đợc
củng cố và nâng cao.
Thực tiễn cho thấy, những chuyển biến tích cực không phải chỉ do Nhà n-

ớc bỏ nhiều tiền của ra đầu t, mà phần lớn là kết quả của việc khắc phục, sửa
chữa những thiếu sót trong quản lý và thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở. Nhìn
chung, qua gần 7 năm, QCDC ở cơ sở đợc triển khai thực hiện đã có những tác
động lớn đối với toàn xã hội, tạo đợc động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng
CNXH ở nớc ta. Trớc hết, QCDC ở cơ sở đã góp phần quan trọng vào việc thay
đổi, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về dân chủ. Dân hiểu
rõ hơn về quyền làm chủ của mình. Cán bộ, đảng viên thấy rõ hơn sức mạnh to
lớn, vai trò, động lực và hiệu quả thiết thực của dân chủ. Vì vậy, các chủ trơng,
chính sách của Đảng và Nhà nớc về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm
an ninh quốc phòng đợc nhân dân hiểu biết hơn, hăng hái tham gia đóng góp và
tích cực thực hiện nên đạt kết quả tốt hơn. Phần lớn những tranh chấp, vớng mắc
trong dân với nhau, với chính quyền đều đợc hoà giải, giải quyết ổn thoả tạo bầu
không khí chan hoà, cởi mở trong cộng đồng, góp phần củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, phát triển xã hội.
Nh vậy, việc thực hiện QCDC ở cơ sở đã góp phần tạo ra động lực cả từ
phía hệ thống chính trị lẫn phía quần chúng. Sức mạnh của nhân dân đợc nhân
lên gấp bội nhờ môi trờng dân chủ. Chính sự hội tụ của hai nguồn động lực đó đã
tạo thành sức mạnh tổng hợp để dấy lên và thực hiện mục tiêu của phong trào
quần chúng với những kết quả to lớn và thiết thực nh: phong trào xoá đói giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, giữ gìn an ninh trật
tự, bảo vệ trị an Qua đó, các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở cơ
28

×