CẢI TẠO ĐẤT – TRỒNG BƯỞI TRÊN VÙNG ĐẤT CHUYỂN ĐỔI
Chuyên đề 1:
1/.Ủ phân chuồng bằng Nấm Trichoderma
a/. Chuẩn bị nguyên vật liệu.
Xác bã thực vật: cỏ, lục bình, bèo, thân lá cây bắp, đậu, xác bã mía… đã phơi
héo.
Phân: dê, bò, trâu, heo, gà, vịt ... (tươi hoặc khô).
Chất độn: một ít bùn đáy ao cá…
Bạt nhựa tối màu.
Chế phẩm vi sinh vật Trichoderma.
b/. Cách ủ phân
Bọc lót dưới đáy đống phân ủ bằng bạt nylon để quá trình tạo sản phẩm
phân ủ không bị thất thoát và giúp giữ độ ẩm.
Rải một lớp xác bã thực vật dầy độ 2030 cm xen kẽ với một lớp phân gia
súc, gia cầm và chất độn chừng 510 cm. Dưới đáy có lót tấm bạt nylon để quá trình
tạo sản phẩm phân ủ không bị thất thoát.
Tưới ướt đều Chế phẩm Trichoderma đã pha loãng lên từng lớp phân ủ, tạo
ẩm độ (5070%) cho đống phân ủ. Có thể kiểm tra độ ẩm bằng cách bóp chặt một
nắm phân ủ vừa đủ rịn nước.
Lặp lại tương tự cho đến hết khối vật liệu.
Phủ kín, che chắn và chèn kỹ bằng loại bạt nhựa tối màu tránh ánh sáng chiếu
trực tiếp vào và để giữ nhiệt độ,
Vào mùa mưa nên đào rãnh thoát nước xung quanh đống ủ.
Sau khoảng 10 ngày ủ, nấm và vi khuẩn đã phát triển nhân rộng và sinh nhiệt
và có thể đạt nhiệt độ 50600C.
Cần tưới nước bổ sung định kỳ (13 ngày/lần) đạt độ ẩm ban đầu, tạo điều
kiện cho quần thể vi sinh vật có lợi tiếp tục phát triển trong phân ủ.
Có thể dùng một số cọc tre khoét rỗng ruột, chia đều khoảng cách xom thành
lỗ (1015 lỗ) cắm vào đống phân ủ để đổ nước tưới bổ sung.
Giở bạt ra kiểm tra, đảo trộn đều khối phân ủ 23 tuần một lần (không nén
chặt) để tạo sự thông thoáng và phân bố đều nhiệt độ, ẩm độ.
Không nhất thiết bổ sung lượng đạm trong suốt thời gian ủ.
c/. Sử dụng.
Sau 45 – 60 ngày phân ủ hoai, tơi xốp (không còn ấm) có thể đem bón cho
vườn.
Bón lót giai đoạn chuẩn bị mô trồng (10kg/mô)
Rải đều lên mặt líp ẩm ướt và xới vùi.
Rải đều quanh gốc cây theo tán lá, xới trộn vào đất, phủ rơm cỏ và tưới ẩm.
Chuyên đề 1:
KỸ THUẬT XỬ LÝ ĐẤT BẠC MÀU TRÊN VƯỜN CÂY ĂN TRÁI
Để có thể tiếp tục canh tác được trên vùng đất bạc màu đưa lại hiệu quả
kinh tế bà con cần phải cải tạo đất bằng các biện pháp tổng hợp như luân canh,
thâm canh hợp lý, phân bón, thuỷ lợi...
Kết quả nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu
và SXNN bền vững (Trường ĐHNL TPHCM)
cho thấy: do truyền thống canh tác độc canh và
kỹ thuật lạc hậu trong thời gian dài của nông i
cành cấp 1 tạo thành một gốc 30 35°. Từ cành cấp 2 sẽ hình thành những cành cấp
3, cành này không hạn chế về số lượng và chiều dài, nhưng cần loại bỏ những các
cành mọc quá dày hoặc quá yếu. Sau 2 năm cây sẽ có bộ tán cân đối.
Quét vôi quanh gốc cây định kỳ 12 tháng/lần, đoạn sát mặt đất cao 80100 cm, lớp
vôi bám vào vỏ cây ngăn không cho sâu đục thân trưởng thành, do một loại xén tóc
đến đẻ trứng vào lớp vỏ của gốc cây. Buổi tối 1921 giờ thắp bóng điện sáng ở giữa
vườn, xén tóc có tính hướng quang sẽ bay đến, dùng vợt bắt đem giết hạn chế trứng
đẻ.
8. Bón phân.
Trên cơ sở phân tích chất đất mà có chế độ bón phân thích hợp. Sử dụng phân
hữu cơ kết hợp vô cơ, bón gốc kết hợp bón lá theo từng giai đoạn phát triển của cây
bưởi.
Phân hữu cơ: Xu hướng canh tác tiên tiến hiện nay là sử dụng càng nhiều phân hữu
cơ càng tốt khi sản xuất trái cây theo hướng sạch. Liều lượng 1530 kg/năm/cây
trưởng thành rất tốt cho bưởi, giúp tăng tuổi thọ rất rõ cho cây. Cách ủ phân hữu cơ
đơn giản: Không nên bón xác bã hữu cơ tươi vào đất mà nên ủ cho hoai mục trước
khi bón. Các nguyên liệu hữu cơ được gom lại, có thể trộn với vôi để xử lý một số
mầm bệnh trong đống ủ. Để gia tăng tiến trình nầy, trên thị trường đã có các loại
phân phân hủy, có thể trộn thêm Lân và phân Đạm làm thức ăn cho vi sinh vật. Có
thể ủ với Nấm đối kháng sau 68 tuần. Sử dụng phân này bón cho bưởi rất tốt.
Phân vô cơ: thường sử dụng là DAP rải xa gốc hoặc NPK phun lên lá.
Đạm (N) giúp cây bưởi phát triển nhanh, đâm chồi, thiếu đạm cây bưởi còi cọc, ốm
yếu, đạm phù hợp cây bưởi trong giai đoạn tăng trưởng.
Lân (P) kích thích nẩy chồi, đẻ nhánh, thúc đẩy bưởi ra hoa, đậu trái; lân còn giúp cây
bưởi
chống
bị
nhiễm
bệnh.
Kali (K) giúp cây bưởi cứng cáp, trái không bị rụng non.
9. Kỹ thuật bón phân.
Tùy theo giai đoạn sinh trưởng và phát triển của bưởi, việc bón phân có thể
được chia ra các thời kỳ như sau :
Thời kỳ cây 13 năm tuổi: Phân bón được chia làm nhiều đợt để bón cho bưởi. Nếu
đã có bón lót phân lân hoặc DAP thì dùng phân Urea với liều lượng 1020g hòa tan
trong 10 lít nước để tưới cho một gốc bưởi (12 tháng/lần). Khi cây trên 1 năm tuổi,
bón trực tiếp phân vào gốc.
Thời kỳ cây bưởi đã cho trái ổn định: Có thể chia làm 5 lần bón như sau :
+ Sau thu hoạch: bón 25% đạm + 25% lân + 1030 kg hữu cơ/gốc/năm.
+ Bốn tuần trước khi cây ra hoa: bón 25% đạm + 50% lân + 25% kali.
+ Sau khi đậu quả: bón 25% đạm + 25% lân + 25% kali.
+ Giai đoạn quả phát triển: bón 25% đạm + 25% kali.
+ Một tháng trước thu hoạch: bón 25% kali.
Nên bón bổ sung từ 0,51kg phân Ca(NO3)2/cây/năm vào các giai đoạn sau thu họach,
trước khi trổ hoa và sau đậu trái. Có thể phun phân bón lá tối đa không quá 3 lần/vụ
trái, mỗi lần cách nhau ít nhất 30 ngày. Không phun phân bón lá vào mùa mưa vì làm
cây dễ nhiễm nấm bệnh như Loét, Mốc hồng, Đốm rong.
10. Phòng trừ sâu bệnh.
Để phòng trừ các loại sâu, côn trùng chích hút, bệnh,….nên thường xuyên thay
đổi các loại thuốc bảo vệ thực vật. Chú ý sâu vẽ bùa làm suy cây, hư ngọn, nên
phòng trừ bằng cách xịt confidor và chất bám dính (có thể kết hợp NPK 16.16.8).
11. Kích thích ra hoa, đậu trái.
Bưởi da xanh ra hoa, trái quanh năm; do đó để có nhiều sản phẩm đưa ra thị
trường vào thời điểm giá cả có lợi cho người sản xuất, nên kích thích ra hoa, đậu trái
từ 7 đến 8 tháng trước ngày thu hoạch, nhưng nếu lưu trái nhiều quá sẽ làm suy cây.
12. Bao trái.
Quả bưởi cũng cần phải bao sớm. Khi quả bưởi to bằng quả trứng vịt (đường
kính 2,22,5cm) dùng túi nilon có đường kính 2040cm, dài 3060cm, thủng hai đầu
để
bao
quả
có
trọng
lượng
khi
chín
0,74kg.
Dùng túi nylon bao chùm trái từ phần cuống theo hướng thẳng xuống, dùng dây buộc
giữ túi vừa chặt. Túi nylon cắt bỏ hoàn toàn phần đáy vừa giữ được sự thông thoáng,
vừa ngăn các loại côn trùng, sâu và ruồi đục trái tấn công.
Khi quả được bao bằng túi nilon màu trắng trong, chất diệp lục ở vỏ quả vẫn hấp
thu được ánh sáng và quang hợp bình thường như những quả để tự nhiên, do vậy
màu sắc của quả không thay đổi từ khi nhỏ tới chín, đảm bảo màu sắc hấp dẫn tự
nhiên.
Đa số các loại côn trùng trưởng thành là bướm (ngài) đều bay theo phương ngang
thẳng, khi đậu vào quả được bao bởi giấy nilon để tiến hành đẻ trứng gặp bề mặt
giấy nilon trơn, nhẵn nên bướm và trứng không bám được, do vậy hầu hết các loại
sâu như: Bọ xít, xén tóc, bọ cánh cứng, ruồi đục quả, bọ rầy… được loại trừ khả
năng
gây
hại.
Quả trong túi nilon phát triển bình thường ít bị sâu, bệnh phá hại có màu sắc đẹp,
hấp dẫn, năng suất, chất lượng quả được cải thiện rõ rệt.
13. Thu hoạch.
Nên thu hoạch khi bưởi vừa chín tới, da căng láng, cắt luôn cả cuốn trái.
Không hái trái khi chưa chín tới hoặc hái quá trễ, chất lượng không tốt.
Cảm ơn bà con đã theo dõi!
Trạm Khuyến Nông Cù Lao Dung