Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.22 KB, 24 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÁC_LÊNIN PHẦN 1
Câu 1: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa
phương pháp luận rút ra từ vấn đề này?
MB: Thế giới xung quanh chúng ta có vô vàng sự vật, hiện tượng phong phú và
đa dạng. Nhưng tất cả đều quy về hai lĩnh vực: VC và YT. Lịch sử của triết học
cũng là lịch sử của những cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề cơ bản của triết
học với hai phạm trù lớn trên: VC và YT. Song để đi đến được những quan niệm
định nghĩa khoa học và tương đối hoàn chỉnh về chúng cũng phải đến một giai
đoạn lịch sử nhất định với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Vậy quan niệm duy vật mác xít như thế nào về VC và YT, mối quan hệ
giữa hai phạm trù này như thế nào? Thời gian nhất định, sự hiểu biết giới hạn
bản thân trình này một cách cơ bản nhất về vấn đề trên.



Mối quan hệ biện chứng:
Định nghĩa:

-

Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ăngghen, phân tích và khái
quát sâu sắc những thành tựu mới nhất của KHTN, trong tác phẩm “Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, V.I.Lênin đã nêu ra định nghĩa
kinh điển về VC: VC là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Vd: Mặt trăng tròn được thấy trên bầu trời vào ngày rằm
Lửa tạo ra hơi ấm cho con người vào mùa đông
Theo Lênin YT là sự phản ánh thế giới vật chất bởi bộ óc của con người, thể
hiện ra như tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí,… Đây cũng là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan


+ Nguồn gốc của YT:
• Nguồn gốc tự nhiên: có 2 yếu tố cơ bản nhất là bộ óc người và mối quan
hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo nên hiện tượng phản ánh
năng động, sang tạo.
• Nguồn gốc xã hội: yếu tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao động và
ngôn ngữ

-

+ Bản chất của YT: là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan bởi bộ óc
của con người. YT còn mang bản chất xã hội. Thể hiện:


Phản ánh có chọn lọc
Hoa Hồng Thép





Phản ánh mô hình hóa
Phản ánh vượt trước
Vd; Tình yêu giữa con người với con người
Niềm tin vào những giá trị đúng đắn về đạo đức của con người



-

-



-

Mối quan hệ biện chứng giữa VC và YT:
Mối quan hệ giữa VC và YT là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này,
VC có trước, YT có sau, VC là nguồn gốc của YT, quyết định YT; song, YT
không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
VC quyết định YT:
+ VC là nguồn gốc của YT
Vd: Dựa vào sự vận động của Mặt Trăng_Mặt Trời để tạo ra lịch
Ở trên biển khi vào ban đêm có thể nhìn các ngọn hải đăng để biết được
hướng vào bở
+ VC quyết định nội dung, sự biến đổi của YT:
Vd: Mùa đông cơ thể cảm thấy lạnh và muốn được mặc áo ấm. Cỏn mùa hè cơ
thể cảm thấy nóng và muốn được mặc đồ mát hơn
+ VC là điều kiện khách quan để hiện thực hóa YT:
Vd: Khi con người muốn tạo ra công cụ lao động mới, thì họ phải cố tìm tòi và
tạo ra công cụ đó dựa trên những công cụ đã có.
YT tác động trở lại VC
+ YT tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn
Vd: Trong nông nghiệp, để nâng cao năng suất thì phải dựa vào những hiểu biết
về tự nhiên, về giống và kĩ thuật canh tác để cho ra năng suất tốt, thu lại lợi
nhuận đúng với mục đích của người sản xuất.
+ YT chỉ đạo mọi hoạt động của con người
Vd: Trong học tập, ý thức tự giác học tập là quan trọng nhất. Nếu như không có
ý chí sẽ dẫn đến việc không hoàn thành được bài tập, còn nếu cố gắng thì người
đó sẽ hoàn thành bài tập một cách xuất sắc.
+ YT sẽ thúc đẩy sự kìm hãm và phát triển của thế giới

Vd: Khi con người nhìn thấy rác nếu như nhặt lên thì mặt đất sẽ sạch sẽ và nếu
như nhiều người cùng nhặt rác thì sẽ giảm bớt tình trạng ô nhiễm môi trường.
Ngược lại, nếu ai cũng xả rác thì môi trường sống sẽ bị hủy hoại.
Ý nghĩa phương pháp luận:
VC là nguồn gốc khách quan của YT, YT chỉ là sự phản ánh thế giới khách quan
vào trong bộ não người. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn cần phải luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, nhận thức và hoạt động
tuân theo thực tế khách quan
Hoa Hồng Thép


-

-

Vd: Khi đi du lịch, phải nhận định chuẩn bị gì dựa vào thực tiễn (đi núi chuẩn bị
gì, đi biển chuẩn bị gì)
Trong làm luật, người soạn luật phải dựa vào thự tiễn để đưa ra các điều
luật hợp lí để dân thực hiện một cách tốt nhất
YT có tính độc lập tương đối và có thể tác động trở lại VC thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Vì vậy, phải thấy được vai trò tích cực của nhân tố YT,
tinh thần, tính chủ động, sáng tạo cuả chủ thể trong việc sử dụng có hiệu quả
nhất các điều kiện VC hiện có.
Vd: Để nâng cao năng suất và chất lượng, nhà sản xuất phải chủ động ứng dụng
KHKT vào sản xuất.
Cần tránh việc tuyệt đối hóa vai trò duy nhất của vật chất trong quan hệ giữa
VC và YT. Nghĩa là trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần
chống lại “chủ nghĩa khách quan”, thái độ thụ động, trông chờ, ỷ lại vào điều
kiện khách quan, đỗ lại tại điều kiện khách quan. Đồng thời cần chống lại bệnh
chủ quan, duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trò của YT, tinh thần, hạ thấp, đánh giá

không đúng vai trò của các điều kiện VC trong hoạt động thực tiễn
Vd: Trong học tập, khi ta giành được một thành tích nào đó thì phải tránh việc
tự cao chủ quan, phải không ngừng trau dồi kiến thức nếu như không muốn bị
mất thành tích đó

Hoa Hồng Thép


KB: Quán triệt PPL CNM-L TTHCM, vận dụng thành thạo mối qhệ BC vào
việc ng.cứu q.lý KT, phát huy mạnh mối qhệ BC KT tự công đổi KT quốc dân,
tạo điều kiện cho KT VN cất cánh, để nâng cao vị trí VN trên trường quốc tế,
góp phần củng cố ổn định đất nước. Đòi hỏi Đảng và NN ta phải kiên trì, kiên
định, giữ vững lòng tin, khắc phục khó khăn, đồng thời phải tỉnh táo, thông
minh, nhạy bén để thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi ngày nay.

Câu 2: Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về
mối liên hệ phổ biến?


-

-


-

-

Nội dung:
Khái niệm:

Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng
trong thế giới.
Vd: Chu kì hoạt động của Mặt Trăng sẽ tác động đến sự lên xuống của thủy
triều ô nhiễm không khí làm cho Trái Đất nóng dần lên
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại
ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến
nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc
đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng
Vd: Mối liên hệ giàu_nghèo
Trong gia đình tồn tại mối quan hệ vợ chồng, anh hem, ông bà
Tính chất của các mối liên hệ:
Tính khách quan: Theo quan niệm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của sự
vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Sự tác động qua lại lẫn nhau
của sự vật, hiện tượng là vốn có của nó, tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào
ý chí.
Vd: Giàu_nghèo là hai quan niệm phụ thuộc vào nhau và có sự tác động qua lại
lẫn nhau
Tính phổ biến: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện
tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật hiện tượng khác.
Sự vật hiện tượng tồn tại không phải là cấu trúc hệ thống mà là bất cứ một tồn
tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là một hệ thống mở, tồn tại trong mối liên
hệ với các hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Vd: Mối liên hệ thầy trò, giữa giáo viên và học sinh.


-




-

-

Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng khác nhau đều giữ vai trò
khác nhau đối với sự phát triển của nó. Giữa mỗi sự vật, hiện tượng đều có mối
liên hệ nhất định, đó là mối liên hệ bên trong_bên ngoài, trực tiếp_gián tiếp, cơ
bản_không cơ bản
Vd: Mỗi người trong xã hội sẽ có nhiều mối quan hệ khác nhau trong từng lĩnh
vực
+ Mối liên hệ bên trong_bên ngoài:
Vd: Trong một công ty, sẽ có mối liên hệ bên trong là các nhân viên đang làm
việc cho công ty, và mối liên hệ bên ngoài là các đối tác chiến lược tương trợ
cho công ty phát triển một cách ổn định.
+ Mối liên hệ chủ yếu_thứ yếu:
Vd:
+ Mối liên hệ cơ bản_không cơ bản:
Vd: Một người có mối liên hệ cơ bản là quan hệ gia đình và mối liên hệ không
cơ bản là mối liên hệ với mọi người xung quanh
+ Mối liên hệ trực tiếp_gián tiếp:
Vd: Vợ chồng có mối liên hệ trực tiếp với nhau, còn mối quan hệ gián tiếp là
với cha mẹ của vợ và chồng
Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ việc nghiên cứu nguyên lí mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng,
chúng ta cần rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức xem xét các sự vật,
hiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng,
chúng ta phải xem xét nó trong các mối liên hệ vốn có của nó:
+ Một là, trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc

tính khác nhau của chính sự vật đó
+ Hai là trong mối liên hệ giữa các sự vật đó với các sự vật khác ( kể cả trực
tiếp và gián tiếp)
+ Ba là, trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó chú ý
tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ mà còn làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng
nhất của sự vật hay hiện tượng đó. Nói cách khác, quan điểm toàn diện không
đồng nhất với cách xem xét bình quân mà có trọng tâm, trọng điểm. Vì vậy,
quan điểm toàn diện phải gắn với quan điểm lịch sử cụ thể
Vd: Khi đưa ra một chính sách nào đó cho công ty, cần phải tính tới sự tác động
mật thiết của nó tới sự điều hành bền vững của công ty, phải nắm rõ ưu-khuyết
điểm của chính sách đó, tránh đưa ra những ý kiến cá nhân, chưa được mọi
người thống nhất đã ban hành.
Tính đa dạng phong phú của các mối liên hệ, trong nhận thức nói chung cần
phải kết hợp quan điểm toàn diện với quan điểm lịch sử cụ thể. Phải đánh giá


đúng vai trò, vị trí của các mối liên hệ đối với sự phát triển của sự vật, hiện
tượng, tránh quan điểm chiết trung ngụy biện.
Vd: Trong các cuộc cách mạn, người lãnh đạo cần có cái nhìn khái quát chi
những vai trò, vị trí của các mối liên hệ ảnh hưởng tới cuộc cách mạng và dựa
vào đó mới tạo nên những chiến thắng, chịu ít tổn thương.
Trong hoạt động thực tiễn, để cải tạo sự vật chúng ta phải bằng hoạt động thực
tiễn làm biến đổi những mối liên hệ nội tại của chính sự vật cũng như mối liên
hệ qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác. Đồng thời, phải sử dụng đồng bộ
nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau. Các mối liên hệ có vai trò
không như nhau, do đó, để thúc đẩy sự vật phát triển phải phân loại được các
mối liên hệ; nhận thức được mối liên hệ cơ bản quy định bản chất của sự vật và
giải quyết mối liên hệ đó.
*Sự vận dụng của Đảng ta: Đó là kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế và đổi

mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị.
-Đổi mới toàn diện: Đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ
kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cá các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt
động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng
bộ phận của hệ thống chính trị.
-Đổi mới tất cá các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng
điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa
bốn nhiệm vụ: phát triển kinh tế- xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt, phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội, bảo đảm quốc phòng và
an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên./.
Câu 3: Phân tích nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập ?
a. Vị trí của quy luật
Qui luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật. Nó đã được con người nhận thức ngày càng sâu sắc và đầy đủ hơn. Chính
điều đó là một tiền đề lý luận hết sức quan trọng để hình thành lý luận mác xít
về mâu thuẫn. Lênin gọi nó là hạt nhân của phép biện chứng. Quy luật này chỉ
ra nguồn gốc của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã kế thừa tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn,
tổng kết những thực tế của lịch sử loài người, khái quát những thành tựu mới
của khoa học từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX để luận giải mâu thuẫn
một cách khoa học và vận dụng lý luận này để phân tích xã hội, tìm ra phương
thức cải tạo nó.


Trên cơ sở xác định rõ qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
hạt nhân của phép biện chứng, chủ nghĩa Mác đã làm rõ thực chất của mâu
thuẫn biện chứng thông qua việc phân tích bản chất của các mặt đối lập và mối
quan hệ giữa chúng.

b. Các khái niệm
Mặt đối lập là phạm trù triết học chỉ những mặt có đặc điểm, thuộc tính, tính
quy định có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau tồn tại khách quan trong
sự vật. Ví dụ, đồng hoá và dị hoá trong cơ thể động vật, cực bắc và cực nam
trong thanh nam châm, tích điện dương và điện tích âm trong dòng điện...
Mâu thuẫn biện chứng là sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau của hai mặt đối
lập. Nhưng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn.
Chỉ khi hai mặt đối lập cùng tồn tại trong cùng một sự vật, trong cùng một thời
gian, về cùng một mối liên hệ và thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau mới
tạo thành mâu thuẫn.
Ví dụ: đồng hoá và dị hoá trong cùng một cơ thể động vật; cùng về một mối liên
hệ ở đây là cùng về năng lượng (đồng hoá là nạp năng lượng dị hoá là giải
phóng năng lượng); đồng hoá và dị hoá thường xuyên tác động theo nghĩa nhờ
đồng hoá mà cơ thể mới có nhu cầu dị hoá. Ngược lại nhờ dị hoá thì cơ thể mới
đồng hoá được.
Mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Thống nhất của các mặt đối lập được hiểu theo 3 nghĩa:
Các mặt đối lập nương tựa vào nhau, làm điều kiện, tiền đề tồn tại cho nhau. Ví
dụ, đồng hoá cần đến dị hoá và dị hoá cần đến đồng hoá. Giai cấp tư sản và giai
cấp vô sản phải nương tựa vào nhau.
Giữa hai mặt đối lập có những yếu tố đồng nhất, giống nhau, tương đồng nhau,
do vậy, trong những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hoá cho nhau. Sự
chuyển hoá của các mặt đối lập diễn ra dưới nhiều hình thức.
Hình thức thứ nhất là chuyển hoá từng mặt, từng khía cạnh của mặt đối lập này
sang mặt đối lập khác. Chẳng hạn trong xã hội có giai cấp đối kháng, lối sống
của giai cấp này có thể ảnh hưởng đến tư tưởng, lối sống của một bộ phận trong
giai cấp khác. Trong các thời kỳ cách mạng, những cá nhân tiến bộ thuộc các
giai cấp thống trị có thể chuyển sang hàng ngũ giai cấp cách mạng.
Hình thức thứ hai là có thể mặt đối lập này chuyển thành mặt đối lập khác. Ví
dụ, trong một số trường hợp cụ thể, thiện có thể trở thành ác và ngược lại.

Hình thức thứ ba là có thể cả hai mặt đối lập đều bị triệt tiêu và chuyển thành
những mặt đối lập mới. Chẳng hạn, khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, cả hai
giai cấp chủ nô và nô lệ căn bản bị triệt tiêu, hai giai cấp mới là địa chủ phong
kiến và nông dân hình thành.


Giữa hai mặt đối lập có trạng thái cân bằng, tác động ngang nhau. Ví dụ, lúc
đồng hoá và dị hoá ngang nhau thì con người không no, không đói. Trong xã
hội, đó là thời kỳ quá độ - thời kỳ đan xen giữa cái cũ và cái mới, chưa cái nào
thắng cái nào; cái cũ đã lỗi thời nhưng chưa mất đi, cái mới tuy tiến bộ nhưng
còn non nớt chưa khẳng định được ưu thế của nó.
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, là sự triển khai của các
mặt đối lập; là sự bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng. Như vậy, đấu tranh của
các mặt đối lập không chỉ được hiểu là sự bài trừ, phủ định, thủ tiêu lẫn nhau
của các mặt đối lập, mà đấu tranh của các mặt đối lập còn được hiểu là quá trình
tác động, triển khai của các mặt đối lập. Chính điều này làm cho sự vật có sự
chuyển hóa và vẫn còn là nó trong quá trình phát triển.
Thống nhất giữa các mặt đối lập là tương đối, đấu tranh giữa các mặt đối lập
là tuyệt đối, vì ngay trong sự thống nhất của các mặt đối lập cũng hàm chứa
những nhân tố phá vỡ sự thống nhất đó. Mọi sự thống nhất của các mặt đối lập
chỉ có thể xét về một mặt nào đó, một phương diện nào đó mà thôi. Đấu tranh
của các mặt đối lập diễn ra thường xuyên, liên tục, trong tất cả quá trình vận
động, phát triển của sự vật;
c. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển của sự vật
Trong thực tế, mâu thuẫn có hai cách hiểu khác nhau. Một cách tổng quát có thể
thấy khi sự vật được tạo thành bởi các mặt đối lập thì ở trong nó đã luôn chứa
đựng mâu thuẫn và mâu thuẫn này vẫn tồn tại chừng nào sự vật chưa bị phá vỡ.
Vì vậy, theo nghĩa chung nhất mâu thuẫn là sự tác động qua lại của các mặt đối
lập. Với cách nhìn đó, chủ nghĩa Mác cho rằng bất kỳ sự vật nào cũng chứa mâu
thuẫn. Không ở đâu không có mâu thuẫn và không bao giờ không có mâu thuẫn.

Nhìn sự vật mà chỉ thấy sự đồng nhất, “đồng nhất tuyệt đối” là lối nhìn hời hợt,
nông cạn, bề ngoài. Tuy nhiên, mâu thuẫn còn có nghĩa thứ hai. Đó là sự bất
đồng, sự không phù hợp, sự mất cân bằng giữa các mặt đối lập. Trong cuộc
sống thường nói đến mâu thuẫn theo nghĩa này. Chính khi Mác phân tích những
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa tư sản và vô sản
trong xã hội tư bản chủ nghĩa cũng như phân tích mâu thuẫn giữa các giai cấp
trong xã hội ông đều dùng mâu thuẫn theo nghĩa thứ hai này. Khi Đảng ta phân
tích những mâu thuẫn giữa nhân dân ta và bọn đế quốc phong kiến, mâu thuẫn
giữa phe phái trong hàng ngũ của địch... cũng đều nói đến những sự bất đồng,
những xung đột giữa các lực lượng xã hội. Mâu thuẫn trong trường hợp này
được hiểu là điểm đỉnh của sự khác biệt giữa các mặt đối lập, là sự phát triển
của các yếu tố không phù hợp, những sự trái ngược giữa chúng. Tất nhiên, dù
hiểu mâu thuẫn theo bất kỳ nghĩa nào thì nó vẫn là nguồn gốc của sự phát triển.
Nói mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển không có nghĩa là tuyệt đối hoá


vai trò của mâu thuẫn, là đề cao mâu thuẫn. Vấn đề chính ở đây là muốn khẳng
định rằng, có mâu thuẫn mới có đấu tranh và chỉ có đấu tranh mới tạo ra sự phát
triển như phần trên đã đề cập. Tuy nhiên, mỗi sự vật không phải chỉ có một mâu
thuẫn mà có thể có rất nhiều mâu thuẫn và vai trò của các mâu thuẫn này đối với
sự phát triển của sự vật không giống nhau. Vì vậy, triết học mác-xít đã chia mâu
thuẫn thành các loại khác nhau.
Mỗi sự vật không phải chỉ có một mà có nhiều mâu thuẫn. Các mâu thuẫn lại có
vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, có mâu thuẫn thành bên trong
và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối
lập nhau của cùng một sự vật. Ví dụ, mâu thuẫn giữa đột biến và di truyền trong
cơ thể động vật.
Mâu thuẫn bên ngoài là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối

lập nhau của các sự vật khác nhau. Ví dụ, mâu thuẫn giữa con người với môi
trường tự nhiên bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với sự vận động phát
triển của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đóng vai trò quan trọng nhưng chỉ phát
huy tác dụng thông qua mâu thuẫn bên trong. Giải quyết mâu thuẫn bên trong
không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài. Giải quyết mâu thuẫn
bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, có mâu thuẫn cơ
bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật và tồn tại trong
suốt quá trình tồn tại của sự vật.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó
của sự vật và quy định sự vận động phát triển của phương diện đó của sự vật. Ví
dụ, mâu thuẫn giữa lao động trí óc và lao động chân tay trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển của sự vật
trong một giai đoạn phát triển nhất định, người ta chia thành mâu thuẫn chủ
yếu và mâu thuẫn không chủ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển
nhất định của sự vật.
Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn mà việc giải quyết nó không quyết định
việc giải quyết các mâu thuẫn khác ở giai đoạn đó của sự vật.
Căn cứ vào quan hệ lợi ích, người ta chia thành mâu thuẫn đối kháng và mâu
thuẫn không đối kháng.


Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, tập đoan người, những
nhóm xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau không thể điều hoà. Ví dụ, mâu
thuẫn giữa tư sản và vô sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng

xã hội có đối lập về lợi ích nhưng đó không phải là lợi ích cơ bản, mà chỉ là lợi
ích cục bộ, tạm thời. Ví dụ, mâu thuẫn giữa công nhân và nông dân về những lợi
ích tạm thời nào đó.
Từ những nội dung trên rút ra nội dung quy luật mâu thuẫn như sau: Mọi sự vật
đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi ngược chiều nhau gọi là
những mặt đối lập. Mối liên hệ của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn. Khi các
mặt đối lập thống nhất với nhau thì sự vật còn là nó. Khi các mặt đối lập đấu
tranh lẫn nhau thì sự thống nhất cũ của sự vật mất đi, xuất hiện sự thống nhất
mới, sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ. Sự thống nhất mới này lại mâu thuẫn
nhau, rồi lại được giải quyết, cứ như vậy sự vật vận động, biến đổi, phát triển,
cái mới ra đời thay thế cái cũ.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
Qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là qui luật có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với hoạt động của con người. Do mâu thuẫn là nguồn gốc
của sự vận động và phát triển nên muốn hiểu rõ sự vật hay cải tạo nó phải nhận
thức được mâu thuẫn. Trong xã hội xác định được mâu thuẫn cơ bản và không
cơ bản sẽ có cơ sở để đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn; xác định
rõ mâu thuẫn chủ yếu sẽ có các giải pháp tập trung để giải quyết những vấn đề
trọng yếu nhất tạo ra khả năng phát triển của xã hội trong từng giai đoạn phát
triển của nó. Đặc biệt khi có những vấn đề bức xúc nảy sinh thì việc phân biệt
rõ mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Điều
đó sẽ giúp cho một tổ chức cách mạng hay các cá nhân phân biệt rõ bạn và thù
và đề ra được phương thức giải quyết mâu thuẫn thích hợp, tuỳ vào tình hình cụ
thể.
Nhận thức mâu thuẫn không phải chỉ là nhận thức loại hình mâu thuẫn mà còn
phải xác định được trình độ phát triển của nó. Đó là những mâu thuẫn vừa nảy
sinh hay mâu thuẫn đã đến độ chín muồi. Cùng một mâu thuẫn nhưng trình độ
phát triển khác nhau thì phương thức giải quyết cũng khác nhau. Tuy nhiên,
muốn nhận thức mâu thuẫn phải căn cứ vào các mặt đối lập, không dựa trên các
mặt đối lập và những mối quan hệ cơ bản của chúng không thể xác định rõ loại

hình mâu thuẫn cũng như trình độ phát triển của mâu thuẫn.
Việc phân tích và giải quyết mâu thuẫn không phải chỉ đòi hỏi sự nhiệt tình,
hăng hái mà phải có sự hiểu biết, có tri thức khoa học, có vốn sống nhất định.
Thiếu tri thức và vốn sống cần thiết sẽ không nhận thức đúng được bản chất của


mâu thuẫn và do đó cũng không thực sự hiểu biết được thế giới khách quan,
không đề ra được những phươngthức giải quyết các vấn đề đặt ra một cách có
hiệu quả. Lịch sử phát triển của xã hội loài người thực chất là lịch sử phát hiện
và giải quyết các mâu thuẫn. Năng lực của một cán bộ lãnh đạo quản lý trước
hết phải là năng lực phát hiện ra các mâu thuẫn và tổ chức chỉ đạo quần chúng
nhân dân giải quyết các mâu thuẫn đó. Chính vì vậy, đường lối cách mạng Việt
Nam từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đến nay bao giờ cũng dựa trên cơ sở
của việc phân tích những mâu thuẫn ở Việt Nam và trên thế giới. Không căn cứ
vào các mâu thuẫn cần phải giải quyết, một đất nước, một dân tộc, một Đảng
không thể tìm ra những giải pháp tích cực nhất để vượt qua những thách thức,
tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra.
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Các mâu thuẫn cơ bản trên
thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và
phát triển”; “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa
đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã
hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có bước tiến mới”./.
Câu 4: Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức? ý
nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này?
1. Phạm trù thực tiễn
Theo triết học duy vật biện chứng, thực tiễn là toàn bộ những hoạt động
vật chất cảm tính, có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

Từ định nghĩa trên cho thấy, thực tiễn có 3 đặc trưng sau:
Thứ nhất, thực tiễn là hoạt động vật chất cảm tính. Đó là những hoạt động
mà con người phải dùng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào
các đối tượng vật chất để làm biến đổi chúng. Ví dụ, hoạt động cày ruộng
đào đất, xây nhà, sản xuất ra của cải vật chất nói chung…
Thứ hai, thực tiễn có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là
hoạt động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông
đảo người, và trải qua những giai đoạn lịch sử nhất định, bị giới hạn bởi
những điều kiện lịch sử – cụ thể nhất định.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích của con người nhằm trực
tiếp cải tự nhiên và xã hội phục vụ con người.
Thực tiễn có ba hình thức cơ bản:
Sản xuất vật chất. Đây là hình thức cơ bản và quan trọng nhất của thực
tiễn. Nó đóng vai trò quyết định các hình thức thực tiễn khác. Đó là


những hoạt động sản xuất ra của của cải vật chất như lương thực, quần
áo, nhà cửa.
Hoạt động cải tạo xã hội – chính trị cũng như cải tạo các quan hệ xã hội.
Chẳng hạn, như đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội…
Hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là một hình thức đặc biệt của thực
tiễn. Nó được tiến hành trong những điều kiện mà con người chủ định tạo
ra để nhận thức và cải tạo tự nhiên – xã hội phục vụ con người.
Mỗi hình thức hoạt động thực tiễn có vai trò, chức năng riêng không thể
thay thế, nhưng chúng quan hệ mật thiết với nhau, liên hệ tác động lẫn
nhau. Trong đó, sản xuất đóng vai trò quyết định đối với các hình thức
khác. Bởi lẽ, nếu sản xuất vật chất không phát triển thì các hoạt động cải
tạo xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học không thể tiến hành được.
Hoặc có tiến hành được cũng kém hiệu quả. Tuy nhiên, hai hình thức thực
tiễn kia có ảnh hưởng quan trọng đối với sản xuất vật chất. Chẳng hạn,

nếu những hoạt động cải tạo xã hội, các quan hệ xã hội tốt sẽ tạo ra
những điều kiện xã hội thuận lợi cho phát triển sản xuất vật chất. Nếu
thực nghiệm khoa học phát triển sẽ góp phần tăng năng suất lao động.
2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức. Thông qua hoạt động thực
tiễn con người tác động vào sự vật làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính
chất. Trên cơ sở đó con người có hiểu biết về chúng. Nghĩa là thực tiễn
cung cấp “vật liệu” cho nhận thức. Không có thực tiễn không thể có nhận
thức. Ví dụ, chính đo đạc ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ là cơ sở
cho định lý Talét, Pitago ra đời.
Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ cho nhận thức, trên cơ sở đó thúc
đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan của con người. Ví dụ, thông qua
sản xuất, chiến đấu những cơ quan cảm giá như tính giác, thị giác… được
rèn luyện. Các cơ quan cảm giác được rèn luyện sẽ tạo ra cơ sở cho chủ
thể nhận thức hiệu quả hơn, nghĩa là, thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận
thức hiệu quả hơn. Ví dụ, kính thiên văn, hàn thử biểu, máy vi tính,…
đều được sản xuất, chế tạo trong sản xuất vật chất. Nhờ những công cụ,
máy móc này mà con người nhận thức sự vật chính xác hơn, đúng đắn
hơn. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Nhận thức phải góp phần làm cho hoạt động thực tiễn của con người có
hiệu quả hơn. Nên những kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực


khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính
thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá trị của tri thức
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Chân lý là những tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan được

thực tiễn kiểm nghiệm. Do vậy, tri thức chỉ được gọi là chân lý nó chứng
minh được tính đúng đắn trong thực tiễn. Nói cách khác, thông qua thực
tiễn, con người mới khẳng định được chân lý và bác bỏ sai lầm.
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối.
Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất
có khẳng định được chân lý, bác bỏ được sai lầm.
Tính tương đối thể hiện ở chỗ, ở những giai đoạn lịch sử cụ thể, thực tiễn
luôn vận động, biến đổi, cho nên, khi thực tiễn đổi thay thì những tri thức
đã đạt được trước đây vẫn phải được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn
mới.
Thực tiễn được xem xét trong không gian càng rộng, trong thời gian càng
dài thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ những nội dung trên rút ra quan điểm thực tiễn trong nhận thức. Quan
điểm thực tiễn yêu cầu:
Nhận thức sự vật phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phải liên
hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành. Phải chú trọng công tác tổng kết
thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện và phát triển lý luận.
Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của tri thức, của lý
luận.
Tránh tuyệt đối hoá thực tiễn và coi thường lý luận vì khi ấy sẽ rơi vào
bệnh kinh nghiệm. Tránh tuyệt đối hoá lý luận và coi thường thực tiễn vì
khi ấy sẽ rơi vào bệnh giáo điều.
Câu 5: Trình bày nội dung và ý nghĩa của quy luật về sự phù hợp của
QHSX với trình độ phát triển của LLSX? Liên hệ sự vận dụng quy luật
này trên nền đất nước ta
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX là quy luật
chung nhất chi phối toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Quy luật này làm
cho lịch sử là một dòng chảy liên tục song mang tính gián đoạn. Trong
từng giai đoạn lịch sử cụ thể, quy luật này có những biểu hiện đặc thù của

nó.
1. Khái niệm
a. Phương thức sản xuất
Định nghĩa: Phương thức sản xuất là cách thức mà con người dùng để
làm ra của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định, theo cách đó


con người có những quan hệ nhất định với tự nhiên và có những quan hệ
nhất định với nhau trong sản xuất vật chất.
Kết cấu: Phương thức sản xuất là sự thống nhất hữu cơ của hai mặt:
LLSX và QHSX.
Mỗi hình thái kinh tế – xã hội có một phương thức sản xuất đặc trưng
nhất định và theo đó có một phương thức sinh hoạt xã hội nhất định.
b. Lực lượng sản xuất
Định nghĩa: LLSX là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất
theo một phương thức nhất định để tạo ra những biến đổi trong sản xuất
vật chất.
Kết cấu: trong LLSX gồm hai yếu tố cơ bản: là người lao động và TLSX.
+ Người lao động với thể lực, học vấn, kinh nghiệm, kỹ năng, trình độ lao
động;
+ TLSX (gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động). Tư liệu lao động
gồm công cụ lao động và phương tiện lao động (nhà xưởng, bến bãi, kho
tàng...; đối tượng lao động: đối tượng sẵn có và đối tượng qua chế biến.
Các yếu tố trong LLSX không thể tách rời nhau, chúng có quan hệ hữu cơ
với nhau trong đó yếu tố con người – người lao động giữ vị trí hàng đầu
TLSX đóng vai trò rất quan trọng.
c. Quan hệ sản xuất
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất.
QHSX bao gồm ba mặt: Quan hệ sở hữu; quan hệ trong tổ chức, quản lý
sản xuất; quan hệ phân phối sản phẩm (lợi ích).

Ba quan hệ trên trong QHSX thống nhất với nhau. Tuy nhiên, trong ba
quan hệ này thì quan hệ sở hữu đối với TLSX đóng vai trò quyết định.
Bởi lẽ, ai nắm TLSX trong tay, người ấy sẽ quyết định việc tổ chức, quản
lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm. Chính quan hệ sở hữu cũng
quy định tính đặc trưng cho từng QHSX của từng xã hội. Do vậy, QHSX
là tiêu chí quan trọng để phân biệt hình thái kinh tế – xã hội này với hình
thái kinh tế – xã hội khác. Mặc dù vậy, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất
và quan hệ phân phối sản phẩm có ảnh hưởng quan trọng tới quan hệ sở
hữu. Chúng có thể góp phần củng cố hoặc phá hoại quan hệ sở hữu.
QHSX mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá trình phát
triển lịch sử không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
QHSX là quan hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã hội của con
người.
2. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX.
a. Vai trò quyết định của LLSX đối với sự hình thành và biến đổi của
QHSX


Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển. Sự
biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi trình độ của LLSX mà
trước hết là công cụ lao động.
Khi trình độ của LLSX thay đổi làm cho QHSX hiện thời trở nên không
phù hợp với sự phát triển của LLSX nữa. Khi ấy, xuất hiện mâu thuẫn
giữa LLSX với QHSX. Mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp.
Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là CMXH. CMXH là phương thức để phá
bỏ QHSX cũ, lỗi thời đã trở thành “xiềng xích trói buộc” LLSX, xác lập
QHSX mới phù hợp với trình độ mới của LLSX, qua đó thúc đẩy LLSX
phát triển.
b. Tác động ngược lại của QHSX đối với sự phát triển của LLSX
Mặc dù bị quyết định bởi LLSX, nhưng QHSX có tính độc lập tương đối

so với LLSX. Vì vậy, QHSX có thể tác động trở lại LLSX.
Sở dĩ, QHSX tác động trở lại được LLSX vì QHSX quy định mục đích
của nền sản xuất. Trên cơ sở đó tác động đến thái độ của người lao động,
tới tính tích cực ứng dụng khoa học, kỹ thuật hay cải tiến công cụ lao
động… của người lao động, từ đó tác động tới LLSX.
Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX diễn ra theo hai xu hướng:
Thứ nhất, nếu QHSX phù hợp với trình độ của lực lượng thì sẽ thúc đẩy
LLSX phát triển.
Thứ hai,nếu QHSX không phù hợp với trình độ của LLSX (hoặc là lạc
hậu, hoặc là vượt trước quá xa so với trình độ của LLSX) thì sẽ kìm hãm
sự phát triển của LLSX.
Tiêu chí của sự phù hợp giữa QHSX và LLSX được thể hiện thông qua
năng suất sản xuất; tính tích cực xã hội của người lao động, đời sống của
người lao động; môi trường làm việc; xã hội ổn định... Nếu năng suất lao
động tăng, tính tích cực xã hội của người lao động cao, môi trường làm
việc tốt, đời sống của người lao động được cải thiện... thì đó là biểu hiện
của sự phù hợp. Ngược lại, sự không phù hợp giữa LLSX và QHSXX và
được thể hiện thông qua việc xã hội mất ổn định, đời sống nhân dân khó
khăn, tính tích cực xã hội giảm...
3. Ý nghĩa đối với nước ta?
- Thời kỳ trước đổi mới
+ Không vận dụng đúng đắn quy luật QHSX phù hợp với trình độ của
LLSX. Chủ quan duy ý chí trong việc xác lập một QHSX quá cao so với
trình độ LLSX vừa thấp vừa không đồng đều, từ đó dẫn đến sự trì trệ
trong phát triển kinh tế- xã hội. Năm 1986, lạm phát lên tới 774,7%, sản
xuất đình đốn, đời sống nhân dân khó khăn.
+ Sở hữu nhà nước chi phối.


+ Quan hệ tổ chức, quản lý thực hiện mệnh lệnh, hành chính.

+ Phân phối bình quân, tem phiếu.
- Từ khi đổi mới đến nay
+ Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế. Thực chất chúng ta đã
nhận thức lại quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
của LLSX, nhằm tạo ra sự phù hợp giữa LLSX với QHSX mới, giải
phóng sức sản xuất xã hội.
+ Phát triển kinh tế nhiều thành phần, khai thác tiềm năng của mọi nguồn
lực vào sản xuất.
+ Biến đổi chủ yếu về quan hệ sở hữu. Thừa nhận nhiều hình thức sở hữu.
Thừa nhận các hình thức khác nhau của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế
nước ta.
+ Đổi mới căn bản về quan hệ quản lý. Đoạn tuyệt với cơ chế kế hoạch
hoá tập trung bao cấp, chuyển sang cơ chế thị kinh thế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, hiện nay là KTTT định
hướng XHCN.
+ Điều chỉnh căn bản về quan hệ phân phối. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ VIII đã nêu lên nguyên tắc: Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy
phân phối theo lao động, theo mức đóng góp các nguồn lực khác nhau
vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối theo phúc lợi xã hội là cơ
bản.
Tóm lại, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất cùng các hệ thống, các quy luật
KT-XH khác của nền kinh tế hàng hoá thị trường dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý Nhà nước theo định hướng XHCN, nhất định chúng ta sẽ
thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh./.
Câu 6:Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT? Ý nghĩa
phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này
1. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Cơ sở hạ tầng

CSHT là tổng hợp những QHSX hợp thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất
định.
CSHT bao gồm ba loại QHSX: QHSX thống trị; QHSX tàn dư; QHSX mầm
mống của phương thức sản xuất tương lai.


Ví dụ, trong CSHT của xã hội tư bản: QHSX tiền tư bản chủ nghĩa; QHSX
TBCN (thống trị trong xã hội) và QHSX XHCN (mầm mống của xã hội tương
lai).
Đặc trưng của CSHT của một xã hội là do QHSX thống trị quy định, chi phối
các quan hệ sản xuất khác. Tuy nhiên, QHSX tàn dư và mầm mống cũng có vai
trò quan trọng.
b. Kiến trúc thượng tầng
KTTT là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật với những thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo
hội, các đoàn thể, hiệp hội... được hình thành trên một CSHT nhất định.
Các bộ phận của KTTT có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng nhưng
đều liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau, đều nảy sinh trên CSHT nhất định. Mỗi
yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũng có quan hệ khác nhau đối với CSHT. Có
yếu tố có quan hệ trực tiếp (như chính trị, pháp luật), có yếu tố có quan hệ gián
tiếp (như nghệ thuật, khoa học).
Trong xã hội có giai cấp thì KTTT mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước –
công cụ của giai cấp thống trị, bộ phận có quyền lực nhất, có vai trò đặc biệt
trong KTTT. Bởi lẽ, nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được
thống trị của mình trên các mặt đời sống xã hội.
2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
CSHT quyết định một KTTT thể hiện ở chỗ:
Mỗi CSHT hình thành nên một KTTT. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào
giữ địa vị thống trị về kinh tế thì cũng giữ địa vị thống trị trong KTTT, trong đời

sống chính trị, tinh thần.
Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quy định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư
tưởng. Quan hệ kinh tế giữa các giai cấp có tính đối kháng thì trong tư tưởng
cũng có tính đối kháng.
Sự biến đổi căn bản trong CSHT dẫn đến sự biến đổi căn bản của KTTT. Điều
này thể hiện rất rõ, khi CSHT cũ mất đi thì KTTT cũ do nó sinh ra cũng mất
theo, khi CSHT mới ra đời thì KTTT mới phù hợp với nó sẽ xuất hiện. Sự thay


đổi của CSHT dẫn đến sự thay đổi của KTTT rất phức tạp. Có những yếu tố
của KTTT thay đổi nhanh chóng cùng sự thay đổi của CSHT như quan điểm
chính trị, pháp luật. Có những yếu tố thay đổi rất chậm như tôn giáo, nghệ
thuật…
b. Tác động trở lại của KTTT đối với CSHT
Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT thông qua chức năng xã hội của nó.
Chức năng xã hội của KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh
ra nó, đấu tranh xoá bỏ cơ sở và KTTT cũ.
Các yếu tố cấu thành KTTT đều tác động đến CSHT, nhưng Nhà nước giữ vai
trò đặc biệt quan trọng. Vì nó là bộ máy bạo lực tập trung nhất của giai cấp
thống trị về kinh tế, có sức mạnh kinh tế. Các yếu tố khác của KTTT như triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng đều tác động đến CSHT bằng nhiều
hình thức khác nhau, với nhiều cấp độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp.
Sự tác động của KTTT đến CSHT theo nhiều chiều đan xen, nhưng thường diễn
ra theo hai chiều tích cực và tiêu cực.
+ Nếu KTTT tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó sẽ tác
động mạnh mẽ tới kinh tế, thúc đẩy LLSX phát triển tức là thúc đẩy CSHT phát
triển.
+ Nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm CSHT phát triển. Tuy nhiên, sự kìm
hãm này cũng chỉ ở một mức độ nhất định. Sớm hay muộn, bằng cách này hay
cách khác, KTTT cũ sẽ bị thay thế bằng KTTT mới tiến bộ hơn, để thúc đẩy sự

phát triển của kinh tế.
c. Các yếu tố của KTTT không chỉ tác động đến CSHT mà chúng còn tác
động lẫn nhau. Triết học và chính trị, giữa đạo đức và pháp luật,… có tác động
lẫn nhau và cùng nhau tác động đến cơ sở hạ tầng. Lưu ý là sự tác động đó cũng
phải thông qua Nhà nước với những luật pháp tương ứng thì trên cơ sở đó mới
có được hiệu lực mạnh mẽ đối với CSHT.
3. Ý nghĩa phương pháp luận?
Quan hệ giữa CSHT và KTTT thực chất là quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cần tránh hai khuynh hướng:


+ Thứ nhất, tuyệt đối hóa vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, tư
tưởng sẽ rơi vào chủ nghĩa duy kinh tế, phủ nhận hoặc xem nhẹ vai trò của nhân
tố chủ quan.
+ Thứ hai, tuyệt đối hóa vai trò của chính trị, sớm muộn cũng sẽ bị mắc bệnh
duy tâm, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan.
Thực tiễn nhận thức và vận dụng quan hệ giữa CSHT và KTTT ở Việt Nam
trước và sau đổi mới đã xác nhận những nhắc nhở đó.
Quan hệ CSHT và KTTT ở Việt Nam.
Trước khi đổi mới
Về quan điểm: Nhấn mạnh quá mức vai trò của chính trị, chủ quan, duy ý chí, vi
phạm quy luật kinh tế khách quan.
Về cơ chế: Đảng bao biện làm thay nhà nước; chính trị can thiệp quá sâu vào
các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ quan của các
cơ quan nhà nước.
Về thiết chế: Bộ máy hành chính quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu
quả.
Từ khi đổi mới đến nay
Về quan điểm: Gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Kết hợp chặt chẽ ngay
từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,

đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Đổi mới kinh tế là cơ sở, nền
tảng để đổi mới chính trị, còn đổi mới chính trị lại tạo môi trường, điều kiện và
giữ vai trò định hướng đối với đổi mới kinh tế. Vì kinh tế giữ vai trò quyết định
đến chính trị nên công cuộc đổi mới phải được bắt đầu từ đổi mới kinh tế nhưng
chính trị cũng có tác động trở lại hết sức to lớn đối với kinh tế, vì thế đồng thời
với đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị.
"Đổi mới kinh tế" qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình chuyển đổi
nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp, chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép
kín” sang nền kinh tế "mở" đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng


kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường
sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
"Đổi mới chính trị" qua các văn kiện của Đảng được hiểu là đổi mới tư duy
chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống
chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng
cao hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn định chính trị để
xây dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ
XHCN nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về cơ chế: Chính trị thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Nền kinh tế vận
hành theo quy luật kinh tế khách quan.
Về thiết chế: Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng. Nâng cao sức mạnh của các tổ chức, đoàn thể với vai trò là người
phản biện đối với các cơ quan chính quyền. Cải cách hành chính, cải tiến và đổi
mới phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hoàn thiện hệ thống

pháp luật.
Câu 7: Phân tích tính độc lập tương đối của YTXH? Ý nghĩa phương pháp
luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này?
MB: Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng YTXH mới là vần đề bức
thiết, xây dựng YTXH mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng trên cơ sở xây dựng và phát triển CN M-L TTHCM, kết hợp chặt chẽ giữa
“xây” và “chống”. Xd YTXH mới, chúng ta cần phải đẩy mạnh công cuộc xd
đời sống KT mới, VH mới, con người mới; không ngừng hoàn thiện YTXH theo
hướng KH, CM, tiến bộ, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục
YTXH mới.
1. Ý thức xã hội là gì?
Là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng… của những cộng đồng xã hội nảy sinh
từ TTXH của họ và phản ánh TTXH đó trong những giai đoạn lịch sử cụ thể
nhất định.
2. Tính độc lập tương đối của YTXH đối với TTXH


Khi khẳng định vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH, chủ nghĩa duy vật
lịch sử không xem YTXH như 1 yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác
dụng tích cực của YTXH hội đối với đời sống kinh tế_xã hội, nhấn mạnh tính
độc lập tương đối của YTXH trong mối quan hệ với TTXH. Tính độc lập tương
đối biểu hiện ở những điểm sau đây:
a.

b.

YTXH thường lạc hậu hơn so với TTXH
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi TTXH cũ đã mất đi, nhưng YTXH cũ
tương ứng vẫn còn tồn tại dai dẳng; điều đó thể hiện YTXH muốn thoát li

khỏi sự ràng buộc của TTXH, biểu hiện tính độc lập tương đối. Sở dĩ có
biểu hiện đó là do những nguyên nhân sau
- Một là, sự biến đổi của TTXH thường diễn ra với tốc độ nhanh mà
YTXH không phản ánh kịp sự thay đổi đó và trở nên lạc hậu. Hơn nữa,
YTXH là cái phản ánh TTXH nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự
biến đổi của TTXH
- Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do
tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái YTXH
- Ba là, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng phản tiến bộ
thường lưu giữ một số tư tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực
lượng xã hội tiến bộ
Như vậy ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho
nên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường
công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại
những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý
thức cũ
Vd: Giống như lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội là gắn liền với
việc sỡ hữu tư nhân về TLSX, dẫn đến đấu tranh giai cấp bùng nổ và có
thể giành thắng lợi => lợi ích của giai cấp thống trị không còn. Như vậy
họ sẽ tìm cách ngăn chặn sự lớn mạnh của các phong trào đấu tranh giai
cấp (kìm hãm YTXH) làm cho YTXH tụt hậu.
YTXH có thể vượt trước TTXH
- Khi khẳng định YTXH lạc hậu hơn TTXH, triết học M_LN đồng thời
thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người,
đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển
của TTXH, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của con người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc
điểm của tư tưởng khoa học qui định. Tư tưởng khoa học thường khái
quát TTXH đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển chung của



c.

xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn
dự báo đúng TTXH mai sau.
- Chẳng hạn, ngay từ khi QHSX TBCN đang ở trong thời kì phát triển tự
do cạnh tranh, Các Mác đã dự báo QHSXđó nhất định sẽ bị QHSX tiến
bộ hơn thay thế.
- Khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước TTXH thì không có nghĩa
YTXH không còn bị TTXH quyết định. Mà là cho đến cùng nó luôn bị
TTXH quy định
Vd: Tư tưởng HCM vượt trước thời đại, sự phát triển mạnh mẽ của
KHKT giúp con người chinh phục không gian và dự đoán trước được
những việc trong tương lai (thời tiết, ..)
YTXH có tính kế thừa trong sự phát triển
- Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy rằng, những
quan điểm lí luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống
không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lí luận của các
thời đại trước. Thí dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng
của loài người mà trực tiếp là nền triết học Đức, kinh tế học cổ điển Anh
và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
- Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của YTXH gắn với tính chất
giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức
khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến thường kế thừa
những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Thí dụ, khi làm cuộc
cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản
đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời cổ đại. Ngược
lại, những giai cấp lỗi thời thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, lý
thuyết phản tiến bộ của thời kì lịch sử trước. Thí dụ, vào nửa sau thế kỉ
XIX và đầu thế kỉ XX, các thế lực tư sản phản động đã khôi phục và phát

triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới
như chủ nghĩa Canto mới, chủ nghĩa Tomat mới, để chống lại phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân
- Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không
những phải vạch ra tính chất phản khoa học của những trào lưu tư tưởng
phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý
luận của chúng ta trong lịch sử
- Do YTXH có tính kế thừa, nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó phải
dựa và quan hệ kinh tế hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư
tưởng trước đó. Có như vậy mới hiểu rõ vì sao một nước có trình độ phát
triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ cao. Thí dụ,


nước Đức ở đầu thế kỉ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ
cao hơn về triết học.
- Nắm vững quan điểm kế thừa của YTXH có ý nghĩa quan trọng đối với
công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng.
Đảng ta đã khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc
biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các
dân tộc khác trên thế giới, làm giàu đẹp hơn nền văn hóa VN
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái YTXH trong sự phát triển của
chúng.
- YTXH bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên
lí mối liên hệ thì giữa các bộ phận không tách rời nhau, mà thường xuyên
tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động đó làm cho ở mỗi hình thái YT có
những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một cách trực
tiếp của TTXH.
- Lịch sử phát triển của YTXH cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tùy
theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái YT nào đó nổi lên hang
đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác. Chẳng hạn ở thời cổ đạu

Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời Trung cổ ở
Tây Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp
quyền,.. Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động
đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.
e. YTXH tác động trở lại TTXH
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm
tuyệt đối hóa vai trò của YTXH mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm
thường khi phủ nhận tác đông tích cực của YTXH đối với TTXH.
Ph.Ăngghen viết: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật,… đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất
cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế.
- Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc
vào điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà
trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ
tư tưởng av2 vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Chẳng
hạn hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước Tây Âu
thế kỉ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí về mặt tư tưởng
của giai cấp vô sản đấu tranh để xóa bỏ xã hội tư bản.
- Sự tác động của YTXH tới TTXH biểu hiện qua 2 chiều hướng. Nếu
YTXH tiến bộ thì tác động thúc đẩy TTXH phát triền, nếu YTXH lạc hậu
sẽ cản trở sự phát triển của TTXHs


3. Việc xây dựng ý thức xã hội mới ở Việt Nam hiện nay
Một là, YTXH mới không hình thành một cách tự phát mà hình thành một cách
tự giác, lâu dài dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự tham gia tích cực của quần
chúng nhân dân.
Hai là, YTXH mới là kết quả của sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa trong lịch
sử tư tưởng dân tộc và nhân loại, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với
những ý thức xã hội lạc hậu, phản tiến bộ.

Ba là, hình thành YTXH mới phải gắn liền với phát triển kinh tế, củng cố quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
KB: Sự nghiệp xd YTXH mới phải là quá trình tự giác, cần sự đóng góp của tất
cả mọi người, trong đó đội ngũ CB, ĐV, các chủ thể lãnh đạo, quản lý có vai trò
đặc biệt quan trọng.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×